← Quay lại trang sách

SÀI GÒN BUÝT…BUÝT

Có một thời Sài Gòn là nước duy nhất trên thế giới không có xe buýt. Đó là những năm cuối thập niên 60, đầu thập niên 70 thế kỷ 20. Thưở đó dân Sài Gòn ít tiền đi xe lam, có tiền thì đi taxi, có kha khá thì đi xích lô máy, xích lô đạp. Khi xe buýt xuất hiện vài năm là Sài Gòn giải phóng, đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng xăng dầu đến độ chờ một chuyến xe đến một tiếng đồng hồ. Mỗi lần xe ngừng là người ta giành nhau leo lên bằng nhiều cách trong đó phổ biến nhất là phóng vào cửa sổ của xe. Cửa xe lúc đó không đóng được vì người ta đứng luôn cả bậc bước lên cửa. Người đứng ngoài cùng thường là anh lơ, giang tay “ôm” hai tay cầm cũng là giữ luôn cho người sát anh ở trên xe không té xuống đường.

Xe chạy nội thành được gọi là xe buýt. Xe chạy từ nội ra ngoại thành đã là xe đò. Đi học trên trường Đại học SP Kỹ thuật, mỗi sáng tôi phải ra đường Điện Biên Phủ đón xe đò.

Xe buýt vừa hiếm mà cũng ít trạm. Từ nhà tôi ở đường Hoàng Đạo (Nguyễn Thông nối dài) phải đi bộ ra đường Nguyễn Đình Chiểu, hông UBND quận 3 (Đại sứ quán Campuchia cũ) mới có xe vào Chợ Lớn

Có câu danh ngôn:_“Muốn biết dân trí của một quốc gia, hãy nhìn vào cách cư xử của người dân nơi công cộng”. Có lẽ xe buýt là nơi “công cộng” lộ rõ nhất để đo trình độ dân trí của một thành phố. Cũng có thể do khan hiếm xăng dầu, người người đi xe buýt nên chuyện đạp chân nhau dẫn đến gây gỗ hoặc dành nhau một chỗ đứng trên xe là chuyện bình thường. Cũng do chen lấn mà những kẻ sống bằng nghề “hai ngón” rất “ăn nên làm ra”. Lúc xe “xuống khách” chuyện la lên mất tiền hay đồng hồ cũng là bình thường. Kẻ làm ăn hai ngón rất tinh vi, cô bạn tôi lên xe đò từ trường về nội thành, cô đứng tay vịn vào thanh sắt trên trần xe, lát sau phát hiện chiếc đồng hồ biến mất!

Vì còn là xe đò, hành lý, xe đạp của khách để trên mui. Một lần đang đứng trên xe, thấy anh bạn học khóa trên gởi ba lô to lên mui xe, miệng nói:

- Đến đại học nghe.

Nhưng xe mới đến Bình Thái, tôi thấy ba lô của anh được đưa xuống. Chưa kịp cảnh báo anh thì xe chạy mất. Tôi hy vọng hai chiếc ba lô giống nhau. Không ngờ đến trường anh tá hỏa vì chiếc ba lô không còn trên mui. Chú lơ xe tỉnh bơ:

- Cái ba lô xuống ở Bình Thái rồi!

Thế là cự cãi nhau. Anh theo xe về bến. Tôi không biết câu chuyện kết thúc thế nào, chỉ biết anh bạn la lên bao nhiêu giấy tờ đã không còn. Có lần tôi gởi xe đạp trên mui. Lát sau xuống xe phát hiện chùm gồm chìa khóa, chiếc cắt móng tay và con dao nhỏ gắn chung với khóa bánh xe đạp biến mất, chiếc xe lại bị khóa. Tôi la lên. Một thanh niên trên mui xe tỉnh bơ ném xuống cho tôi chiếc chìa khóa, còn chiếc cắt móng tay và con dao biến mất. Chuyện để hành lý trên mui bị lấy trộm, và người trộm xem như bình thường.

Xe đông, ngoài dân hai ngón hoạt động còn có mấy anh tay nhóm nhúa sờ mó lung tung. Đôi lúc kẻ sờ mò có một bộ mặt rất đạo mạo, thậm chí là gương mặt đạo đức điển hình trong trường học hoặc cơ quan. Những trò tán tỉnh hoặc đề nghị khiếm nhã cũng thường có trên xe buýt. Thưở tôi mới tốt nghiệp đại học, đang rối bời vì lý lịch phải đi xa, nếu không muốn lâm cảnh thất nghiệp, sống bám gia đình vốn đã quá khó khăn. Trên chuyến xe buýt về nhà, chợt người đàn ông ngồi kế bên tôi, có lẽ hơn tôi 20 tuổi, tay lâm lâm cái bóp nói tỉnh bơ với tôi:

- Em xuống xe rồi ăn với anh bữa cơm hay uống với anh ly nước nhen. Anh bao. Mình xuống trạm này nhé.

Xe buýt vừa ngừng, hắn xuống. Xe buýt đóng cửa, chuyển bánh. Tôi vẫn ngồi trên xe trong lòng sự bực tức lẫn khinh ghét dâng lên: hắn là ai mà nghĩ con gái rẻ tiền thế, một cái ngoắc tay là người ta sẵn sàng đi theo à? Hay tôi mặt mày phờ phạc nên hắn nghĩ tôi đang đói ăn?

Xe đò là nơi người bán dạo kiếm sống. Có lần từ trường về, một em bé bán tôi rổ bánh khá rẻ. Hôm đó ngày Giáng Sinh, nghĩ với mấy đồng học bổng tôi mua về cho các cháu. Không ngờ về nhà mở lớp giấy ra mới biết đó là đống bánh thiu. Cũng từ trường về, lần khác, một cụ bà lên xe bán bánh ú thối tôi 10 xu. Về nhà mở ra đó là tờ một đồng. Tôi trách mình không xem kỹ, rồi nhớ đến bà cụ khó nhọc buôn bán, về nhà con cháu kiểm lại sẽ thấy bà bị lổ mất mấy xu hoặc hơn nữa nếu bà thối nhiều người dư tiền như thế. Chắc bà sẽ bị con cháu la hoặc bữa cơm chiều sẽ đạm bạc và nặng nề hơn. Tôi mang sự hối tiếc đó đến tận hôm nay.

Lơ xe đò ngoại thành thường rất dí dỏm. Tôi nhớ xe Sài Gòn_Thủ Đức có hai trạm đặc biệt. Trên Thủ Đức là trạm ngừng ngay nghĩa trang Thủ Đức. Mỗi lần đến trạm này, chú lơ xe la lớn:

- Thành phố buồn nè…Ai xuống không?

Chú ta tỉnh bơ khi nghe hỏi tại sao gọi là thành phố buồn.

- Chứ đi ngang không thấy buồn à?

Từ Thủ Đức về có trạm ngay bịnh viện Từ Dũ. Thế là chú lơ la lên:

- Đoạn cuối của tình yêu…Ai xuống không?

Chú cũng tỉnh bơ giải thích khi được hỏi.

- Thì yêu nhau rồi cũng phải đến lúc tình yêu kết trái và vào đây thôi!

Khách xe đò cũng rất hóm hỉnh. Trạm ngay trường tôi thường được la lên: “Đại học…Ai xuống không?” Có khi “Học Đại nè…Ai xuống không?”

Khách xuống là sinh viên trường, đôi khi có những thanh niên, công nhân đùa, nhau:

- Xuống đây hả.

- Trời, mù chữ mà, làm gì xuống đây…

Tuy nhiên người nghe biết chắc chắn người nói chẳng “ít học” chút nào, mà chỉ thấy sự hài hước đáng yêu của tuổi thanh niên.

Có lần xe buýt Củ Chi đi ngang một con rạch nhỏ, khách là một thiếu niên nhỏ tuổi, hỏi chú lơ rạch này tên gì. Chú tỉnh bơ: “_ Mày hỏi bất tử làm sao tao trả lời được. Chờ tao về coi lại bản đồ đã…”

Đất nước mở cửa, cuộc sống dễ dàng, tôi không còn đi xe buýt nữa. Từ xe đạp, tôi “lên đời” xe gắn máy đi dạy hoặc loanh quanh thành phố để rồi một ngày tôi cảm thấy mình quá mệt mỏi khi điều khiển xe trong một thành phố đông đúc. Tôi tìm đường đi xe công cộng và thích thú phát hiện xe đò không còn nữa. Mà tất cả là xe buýt từ nội thành ra ngoại thành. Hành lý hành khách gọn nhẹ, không còn để bất cứ thứ gì trên nóc xe nữa. Xe lại có máy lạnh. Xe chỉ đông giờ cao điểm học sinh sinh viên đi học về, công nhân viên chức tan sở. Những giờ còn lại, xe trống trãi, không còn cảnh chen lấn như mấy chục năm trước nữa. Tuy nhiên người đi xe buýt vẫn chưa có văn hóa xe buýt, và không còn vui vẻ, dí dỏm như khách xe đò, xe buýt ngày trước. Giờ cao điểm người trẻ vẫn chưa biết nhường chỗ cho người lớn tuổi. Hành khách có người tóc hoa râm vẫn tỉnh bơ phun nước bọt hoặc ăn uống đổ rớt lên sàn xe. Có người tỉnh bơ nói chuyện ầm ỹ như ở nhà mình. Có người lên xe trước khi trả tiền vé là móc di động ra nổ: - “Chị à, vừa rồi tui đưa chị ba chục triệu sao chị chưa trả lại tôi…”

Xe buýt Sài Gòn vẫn có người thu tiền bán vé trên xe. Người thu tiền chỉ việc thu tiền, bán vé, không vui vẻ, hài hước như lơ xe đò ngày trước dù là buýt ra ngoại thành. Có xe thí điểm bán vé tự động bằng cách bỏ tiền vào thùng, tài xế cũng “mắc công” nhấn nút thối tiền. Có lúc tài xế phải lục xấp tiền giấy, đếm rồi mới thối được. Xem ra không còn người bán vé, lại mang tiếng bán vé tự động. Vậy mà công việc của tài xế lại mệt hơn

Lần đầu tiên trở lại xe buýt sau mấy chục năm, trong chiếc áo dài, một cô bé đứng lên nhường ghế, tôi lại ngại không ngồi. Cô bé đứng…luôn để chiếc ghế trống không. Tôi rất ân hận vì gián tiếp khiến cô bé đánh mất thói quen tốt của sự “kính trên”. Có lẽ lần “quê độ vì bị từ chối” cô bé sẽ không nhường ghế cho ai nữa! Có lần trời mưa, giờ cao điểm, tôi được một bé nhường ghế. Vì đang trả tiền xe chưa ngồi kịp, một người đàn ông tỉnh bơ giành chỗ khiến cô bé kế bên đứng lên…nhường tiếp. Có nhiều người mặt khá dày nơi công cộng là thế!

Tối vốn rất tỉnh táo khi đi xe. Thế nhưng sau những chuyến du lịch dài ngày trong nước, tỗi bỗng có thói quen lên xe là ngủ. Và chuyến đi từ trường về sau một ngày đứng lớp mệt mỏi bao giờ tôi cũng gà gật trên xe. Chuyến xe từ Bình Chánh về bến Chợ Lớn tôi thường giật mình tỉnh ngủ khi xe vào trong bến. Từ bến Chợ Lớn đi xe về Gò Vấp, ngang quận 3 tôi thường ngủ quên đến…bỏ trạm. Có lần lẽ ra phải xuống trạm Ga Sài Gòn rồi đi bộ về nhà, tôi ngủ quên đến bến xe Gò Vấp. Chú soát vé quen mặt chỉ tôi xe xuất bến về Chợ Lớn, tôi vội lên để rồi khi xe ghé Ga Sài Gòn, tôi còn mê man trong giấc ngủ để về lại bến Chợ Lớn! Tôi lại đi ngược xe về lại Gò Vấp. Gặp xe chú bé soát vé chuyến xe trước, chú ngạc nhiên:

- Trời đất, cô chưa về được nhà nữa hả?

Lên xe lần này tôi tỉnh hẳn vì đã gần 7 giờ tối. Nếu ngủ quên, chắc chắn tôi sẽ phải đi xe ôm hoặc taxi về nhà. Đay là chuyến xe buýt cuối cùng trong ngày.

Xe buýt thuộc công ty Nhà nước thường không cần khách. Khách chậm một giây thôi là trễ một chuyến xe. Chuyện bỏ trạm vì tài xế không thích ghé. Hoặc do kẹt xe, hết giờ chạy, xe buýt ngang nhiên bỏ khách dọc đường để quay về bến kịp giờ là chuyện bình thường. Hoặc sáng sớm thay vì vào bến, xe buýt “tấp” vào công viên gần đó với lý do: vào bến không có chỗ đậu. Khách chẳng biết làm gì đành đi bộ hoặc thuê xe ôm vào bến. Đây cũng là chuyện bình thường với một thành phố mà ý thức của xe buýt và hành khách đều kém cỏi như nhau. Với xe buýt Nhà nước chuyện la mắng khách cũng bình thường, và khách hăm thưa cấp trên hoặc lên báo cũng bình thường. Tất cả là do ý thức trách nhiệm cả hai quá kém. Xe buýt hợp tác xã cần khách hơn. Có thể nán lại vài giây để chờ khách. Tuy nhiên, tài xế xe hợp tác xã đánh nhau giành khách cũng là chuyện bình thường.

Có dịp ra nước ngoài, đi xe buýt, thấy sự nhường nhịn và lịch sự từ tài xế đến hành khách, chúng ta sẽ bâng khuâng buồn, rồi tự hỏi:

- Nước mình lượng Tiến Sĩ nhiều thuộc hàng nhất nhì thế giới. Nhưng đến bao giờ người dân mới có một nhân cách tốt nơi công cộng để người ngoài nhìn vào nhận ra dân trí thực sự của người Việt Nam đây?