← Quay lại trang sách

PHẦN II KHÁM PHÁ BỘ NÃO BỊ SANG CHẤN Chương 4 TẨU THOÁT: GIẢI PHẪU BẢN NĂNG SINH TỒN

Trước khi bộ não xuất hiện, vũ trụ này là nơi Vô sắc, vô thanh, vô vị, vô hương và có lẽ, mang một chút cảm giác nhưng vô cảm. Và hơn hết, vũ trụ này cũng vô lo và vô ưu.

Roger Sperry

Ngày 11/9/2001, bé Noam Saul 5 tuổi, học lớp 1, chứng kiến chiếc máy bay đâm vào Trung tâm Thương mại Thế giới (World Trade Center, New York) từ cửa sổ phòng học của bé, cách Trung tâm Thương mại Thế giới chưa đầy một cây số. Bé và bạn bè, cô giáo cùng chạy xuống cầu thang đến sảnh, nơi hầu hết các em được đoàn tụ với bố mẹ, những người vừa mới đưa các bé đến trường vài phút trước. Noam, anh trai của em, và ba của các bé là ba trong số hàng chục ngàn người sáng hôm đó đã phải chạy qua đống đổ nát, tro tàn và khói bụi để thoát thân.

10 ngày sau sự kiện kinh hoàng ấy, tôi đến thăm gia đình của Noam vì bố mẹ của bé là bạn tôi. Tôi và bố mẹ bé đi dạo trong màn đêm rợn người, ngang qua cái hố còn tỏa khói, nơi từng là tòa tháp cao sừng sững, thấy những đội cứu hộ vẫn đang cật lực làm việc. Khi chúng tôi trở về nhà, bé Noam vẫn còn thức. Bé cho tôi xem bức tranh đã vẽ vào lúc 9 giờ sáng ngày 12/9. Bản vẽ mô tả những gì bé đã nhìn thấy ngày hôm trước: một chiếc máy bay đâm vào tháp, một quả cầu lửa, lính cứu hỏa và những người nhảy từ cửa sổ tòa tháp. Nhưng ở dưới cùng của bức tranh bé đã vẽ một thứ khác: một vòng tròn màu đen ở chân các tòa nhà. Tôi không biết đó là gì, thế nên tôi hỏi bé:

- Đây là gì vậy cháu?

- Đó là đệm lò xo ạ!

- Tại sao lại có đệm lò xo ở đây?

- Để lần sau, khi mọi người phải nhảy xuống từ tòa tháp thì họ sẽ được an toàn!

Tôi sững sờ! Cậu bé 5 tuổi này, nhân chứng của một thảm họa, đã dùng trí tưởng tượng để xử lý những gì em đã chứng kiến và cũng là để tiếp tục sống cuộc đời bình thường của mình.

Bé Noam thật may mắn vì cả gia đình bé đều an toàn trong thảm họa ấy. Bé lớn lên trong tình yêu thương và dần hiểu rằng mọi chuyện đang dần trôi qua. Khi thảm họa xảy ra, những phản ứng và biểu hiện của bố mẹ sẽ ảnh hưởng rất lớn đến trẻ em. Nếu bố mẹ bình tĩnh và vẫn đáp ứng đầy đủ các nhu cầu của bé thì bé sẽ không bị vết sẹo tâm lý nghiêm trọng nào.

Câu chuyện của bé Noam giúp ta nhìn thấy hai khía cạnh cơ bản của phản ứng thích nghi với những mối đe dọa. Khi máy bay đâm vào tòa tháp, bé đã chạy khỏi lớp học, nghĩa là đã chủ động cứu mình. Khi quay về ngôi nhà an toàn, êm ấm của mình, chuông báo động trong não và cơ thể bé liền tắt, giúp bé bình tĩnh lại và kịp hiểu chuyện gì vừa xảy ra, thậm chí bé còn tưởng tượng ra một cách rất sáng tạo để giúp mọi người sống sót là kế một cái đệm lò xo.

Trái ngược với bé Noam, nhiều người bị sang chấn hoàn toàn bị mắc kẹt trong quá khứ, họ không thể phát triển cuộc sống cá nhân vì không thể đón nhận những trải nghiệm sống mới. Họ sống như thể sang chấn vẫn còn đó và sẽ vĩnh viễn ở đó. Bóng ma quá khứ bao phủ toàn bộ cuộc đời họ.

Sau sang chấn, nạn nhân sẽ trải nghiệm thế giới với một hệ thần kinh khác. Họ dồn năng lượng để đàn áp những cảm xúc hỗn loạn bên trong, kiểm soát các phản ứng sinh lý không thể chịu nổi. Hậu quả là cơ thể họ gặp hàng loạt vấn đề như đau cơ xơ hóa, mệt mỏi mạn tính và mắc các bệnh tự miễn khác. Điều này giải thích tại sao khi trị liệu sang chấn, ta rất cần nhìn nó trong mối liên quan với các cơ quan nội tạng, cơ thể, tinh thần và não bộ.

⚝ ✽ ⚝

TỔ CHỨC ĐỂ SINH TỒN

Bức hình minh họa ngay trên cho thấy phản ứng toàn thân đối với mối đe dọa.

Khi hệ thống báo động của não được bật lên, nó sẽ tự động kích hoạt các kế hoạch thoát hiểm được lập trình trước trong những phần nguyên thủy nhất của não bộ. Giống như các loài động vật khác, các dây thần kinh và hóa chất tạo nên cấu trúc cơ bản của não có mối liên hệ trực tiếp với cơ thể chúng ta. Khi bộ não nguyên thủy nắm quyền kiểm soát, nó ức chế phần não cao cấp hơn, ức chế tâm trí của chúng ta và thúc đẩy cơ thể chạy trốn, chiến đấu, hoặc đôi khi đóng băng. Đến lúc chúng ta hoàn toàn ý thức được vấn đề thì cơ thể chúng ta đã hành động mất rồi. Nếu phản ứng chống trả, trốn chạy, đóng băng thành công và chúng ta thoát ra được khỏi nguy hiểm, chúng ta sẽ lấy lại cân bằng bên trong và dần dần “lấy lại được giác quan của chúng ta”.

Nếu vì một lý do nào đó, phản ứng bình thường bị chặn lại, ví dụ như khi người ta bị kẹt hoặc bị ngăn cản thực hiện hành động có hiệu quả, có thể là trong vùng chiến tranh, tai nạn xe hơi, bạo lực gia đình, hoặc hãm hiếp, não bộ sẽ liên tục giải phóng các chất gây stress, và các mạch điện não tiếp tục hoạt động một cách vô ích. Sau khi sự kiện thực tế trôi qua rất lâu rồi, não vẫn có thể tiếp tục gửi tín hiệu đến cơ thể để thoát khỏi một mối đe dọa không còn tồn tại nữa.

Từ năm 1889, khi nhà tâm lý học người Pháp Pierre Janet xuất bản tài liệu khoa học đầu tiên về sang chấn, người ta nhận thấy những người sống sót sau sang chấn có xu hướng tiếp tục hành động hoặc đúng hơn là nỗ lực (vô ích) hành động vốn bắt đầu khi xảy ra sự kiện”.

Khi gặp nguy hiểm, việc bạn có thể di chuyển và làm điều gì đó để tự vệ hay không sẽ quyết định trải nghiệm kinh hoàng ấy có để lại vết sẹo lâu dài trong lòng bạn hay không.

Trong chương này, tôi sẽ đi sâu phân tích các phản ứng của não đối với sang chấn. Khoa học thần kinh càng phát hiện nhiều điều về bộ não, chúng ta càng nhận ra não là một mạng lưới rộng khắp các bộ phận kết nối được tổ chức để giúp chúng ta tồn tại và phát triển. Hiểu được cách thức các phần này làm việc cùng nhau sẽ giúp ta hiểu được sự ảnh hưởng của sang chấn đến từng bộ phận cơ thể và tìm được cách giải quyết stress do sang chấn.

⚝ ✽ ⚝

NÃO BỘ TỪ DƯỚI LÊN TRÊN

Nhiệm vụ quan trọng nhất của bộ não là đảm bảo sự sống còn của con người, ngay cả trong điều kiện khó khăn nhất. Để làm được điều đó, não bộ cần phải: (1) tạo ra các tín hiệu nội bộ ghi nhận những gì cơ thể chúng ta cần, chẳng hạn như thức ăn, nghỉ ngơi, bảo vệ, tình dục, và nơi trú ẩn; (2) tạo ra một bản đồ, chỉ đường cho chúng ta tới nơi cần đến để được thỏa mãn những nhu cầu đó; (3) tạo ra năng lượng và hành động cần thiết đưa chúng ta đến được nơi đó; (4) cảnh báo chúng ta về những nguy hiểm và cơ hội trên đường đi; và (5) điều chỉnh hành động của chúng ta dựa trên yêu cầu của từng thời điểm.

Vì con người là động vật hữu nhũ, loài sinh vật chỉ có thể tồn tại và phát triển theo nhóm, tất cả các yêu cầu này đòi hỏi sự phối hợp và hợp tác. Các vấn đề tâm lý xảy ra khi các tín hiệu nội tại của chúng ta không hoạt động, khi các bản đồ không dẫn chúng ta tới nơi cần phải tới, khi chúng ta quá tê liệt để di chuyển, khi hành động của chúng ta không tương ứng với nhu cầu, hoặc khi những mối quan hệ của chúng ta sụp đổ. Mỗi cấu trúc não tôi đề cập đến có một vai trò trong các chức năng thiết yếu này, và như chúng ta sẽ thấy, sang chấn có thể gây trở ngại cho từng loại cấu trúc một.

Phần não lý trí của chúng ta thực sự là bộ phận trẻ nhất của não bộ và chỉ chiếm khoảng 30% trong hộp sọ. Bộ não lý trí chủ yếu quan tâm đến thế giới bên ngoài: hiểu biết về cách thức mà mọi thứ và mọi người làm việc và tìm cách đạt được các mục tiêu, quản lý thời gian và sắp xếp hành động. Bên dưới phần não bộ này là hai phần não già hơn về mặt tiến hóa, và ở một mức độ nào đó, hai phần não này khác biệt hoàn toàn và đảm nhiệm tất cả những chức năng khác: ghi nhận từng thời khắc trôi qua và quản lý quá trình sinh lý của cơ thể cũng như xác định sự thoải mái, an toàn, đe dọa, đói khát, mệt mỏi, khao khát, phấn khởi, niềm vui, và đau đớn.

Bộ não được cấu thành từ dưới lên trên. Nó phát triển theo từng cấp từ khi đứa trẻ còn nằm trong bụng mẹ, không khác gì quy trình tiến hóa. Phần nguyên thủy nhất, phần hoạt động sẵn ngay khi chúng ta sinh ra, là não động vật cổ đại, thường gọi là phần não bò sát. Nó nằm ở thân não (brainstem), ngay phía trên vị trí tủy sống đi vào hộp sọ. Phần não bò sát đảm nhiệm tất cả những thứ mà trẻ sơ sinh có thể làm: ăn, ngủ, thức dậy, khóc, hít thở, cảm giác nhiệt độ, đói, ẩm ướt và đau, loại bỏ các chất độc bằng cách đi tiêu tiểu.

Thân não và vùng dưới đồi (hypothalamus) (nằm ngay bên trên) cùng nhau kiểm soát mức năng lượng của cơ thể. Chúng phối hợp hoạt động của tim và phổi, cũng như hệ thống nội tiết và miễn dịch, đảm bảo các hệ thống cơ bản giúp duy trì sự sống này được duy trì trong sự cân bằng nội tại tương đối ổn định, còn gọi là sự cân bằng nội môi.

Thở, ăn, ngủ, và tiêu tiểu là những chuyện cơ bản đến nỗi ý nghĩa của chúng dễ bị lãng quên khi chúng ta xem xét tính phức tạp của trí tuệ và hành vi. Tuy nhiên, nếu giấc ngủ của bạn bị xáo trộn hoặc ruột của bạn không hoạt động, hoặc nếu bạn luôn cảm thấy đói, hoặc nếu bị ai đó chạm vào là bạn chỉ muốn hét lên (đây là điều thường thấy ở những người bị sang chấn), thì toàn bộ cơ thể của bạn đã bị mất cân bằng. Ngạc nhiên thay, có biết bao nhiêu là vấn đề về tâm lý liên quan đến giấc ngủ, sự ngon miệng, xúc chạm, tiêu hóa, và hưng phấn. Bất kỳ phương pháp điều trị sang chấn có hiệu quả nào cũng phải giải quyết được những rối loạn chức năng cơ bản như thế của cơ thể.

Ngay trên phần não bò sát là hệ viền (limbic system). Nó còn được gọi là phần não động vật hữu nhũ, bởi vì tất cả các động vật sống thành nhóm và nuôi dưỡng con non của chúng đều có phần não này. Phần não động vật hữu nhũ chỉ thực sự phát triển sau khi đứa trẻ chào đời. Đó là vị trí của cảm xúc, giám sát nguy hiểm, nhận định cái gì là đáng vui hoặc đáng sợ, phán xét cái gì là quan trọng hoặc không quan trọng cho mục đích tồn tại. Đây cũng là một vị trí chỉ huy trung tâm để đương đầu với những thách thức của cuộc sống trong mạng lưới xã hội phức tạp của chúng ta.

Hệ viền được hình thành để đáp ứng với kinh nghiệm, cùng với bản chất di truyền và tính khí bẩm sinh của trẻ sơ sinh. (Như tất cả các bậc cha mẹ đều nhanh chóng nhận ra, rằng với cùng một sự kiện giống nhau thì mỗi trẻ sơ sinh có phản ứng khác nhau về mặt cường độ và tính chất.) Bất kể điều gì xảy ra với một đứa trẻ thì đều đóng góp vào quá trình hình thành tấm bản đồ cảm xúc và nhận thức về thế giới do bộ não đang phát triển của trẻ tạo ra. Theo cách giải thích của Bruce Perry, đồng nghiệp của tôi, các tế bào thần kinh được hình thành theo cách “sử dụng lẫn nhau - phụ thuộc vào nhau”. Đây là một cách khác để mô tả tính khả biến thần kinh (neuroplasticity), một khám phá tương đối gần đây phát hiện ra rằng các tế bào thần kinh “sáng lên cùng nhau, kết nối với nhau”. Khi một mạch thần kinh sáng lên nhiều lần, nó có thể trở thành một thiết lập mặc định – phản ứng hầu như chắc chắn xảy ra. Nếu bạn cảm thấy an toàn và được yêu thương, não của bạn tập trung sâu hơn vào việc khám phá, chơi đùa và hợp tác; nếu bạn sợ hãi và cảm thấy mình không được đón nhận, nó tập trung vào việc quản lý cảm giác sợ hãi và bị bỏ rơi.

Khi còn là trẻ sơ sinh và chập chững tập đi, chúng ta tìm hiểu thế giới bằng cách bò chỗ này chỗ nọ, tóm lấy món nọ món kia, khám phá điều gì sẽ xảy ra khi chúng ta khóc, cười hoặc phản đối. Chúng ta liên tục thử nghiệm môi trường xung quanh – các tương tác của ta thay đổi cách cảm nhận của cơ thể chúng ta như thế nào? Khi chơi với một em bé 2 tuổi, bạn sẽ nhận ra bé có thể thoải mái đùa giỡn với bạn mà không nói. Những khám phá ban đầu này tạo thành cấu trúc viện dành cho cảm xúc và trí nhớ, nhưng những cấu trúc này cũng có thể bị thay đổi đáng kể bởi những kinh nghiệm sau này: Nó sẽ tốt hơn nhờ tình bạn thân thiết hoặc một tình yêu đầu đời đẹp đẽ, hoặc có thể xấu đi khi bé bị tấn công dữ dội, bị bắt nạt liên tục hoặc bị bỏ rơi.

Bộ não bò sát và hệ viền tạo thành cái mà tôi gọi là “bộ não cảm xúc” trong suốt cuốn sách này. Bộ não cảm xúc là trung tâm của hệ thống thần kinh trung ương, và nhiệm vụ chính của nó là quan tâm đến sự an nguy của bạn. Nếu phát hiện ra nguy hiểm hoặc cơ hội đặc biệt – chẳng hạn như một đối tượng đầy hứa hẹn – nó sẽ tiết ra một luồng hormone để cảnh báo bạn. Những cảm giác sinh ra từ bên trong này (từ sự lúng túng nhẹ nhàng đến cơn hoảng hốt trong lồng ngực) sẽ cản trở dòng tập trung của bạn đang hướng vào một điều gì đó và khiến bạn chuyển sự tập trung - về thể chất lẫn tinh thần - theo một hướng khác.

Ngay cả khi khó phát hiện nhất, những cảm giác này cũng ảnh hưởng lớn đến các quyết định lớn nhỏ mà chúng ta thực hiện trong suốt cuộc đời: những gì chúng ta chọn để ăn, nơi chúng ta thích ngủ và ngủ cùng ai, chúng ta thích loại nhạc nào, chúng ta thích làm vườn hay hát trong một dàn hợp xướng, và người mà chúng ta kết bạn cũng như người mà chúng ta ghét.

Tổ chức tế bào và hóa sinh học của bộ não cảm xúc đơn giản hơn các tế bào vỏ não, phần não duy lý của chúng ta, và nó đánh giá thông tin thu nhận được một cách tổng quát hơn. Kết quả là, nó \đưa ra những kết luận dựa trên những điểm tương đồng thô sơ, điều này tương phản với não duy lý, vốn được tổ chức để phân loại dựa trên một hệ thống các lựa chọn phức tạp (ví dụ, bạn sợ hãi giật bắn người khi trông thấy con rắn, sau đó mới nhận ra đó chỉ là một sợi dây thừng). Bộ não cảm xúc khởi xướng những kế hoạch thoát hiểm được lập trình từ trước, như phản ứng chiến đấu hay chạy trốn. Những phản ứng cơ bắp và sinh lý này là tự động, chúng xảy ra mà không cần chúng ta phải suy nghĩ hay lên kế hoạch gì cả.

Cuối cùng, chúng ta đến được lớp trên cùng của não, phần vỏ não mới (neocortex). Lớp bên ngoài này của chúng ta giống với các loài động vật có vú khác, nhưng của chúng ta dày hơn nhiều. Khi ta 2 tuổi, thùy trán – vốn chiếm phần lớn trong vỏ não mới của chúng ta – bắt đầu phát triển với tốc độ chóng mặt. Các triết gia cổ đại gọi tuổi lên 7 là “tuổi duy lý” (the age of reason). Đối với chúng ta, lớp 1 là tiền đề cho mọi thứ sau này, một cuộc sống được tổ chức xung quanh các năng lực của thùy trán như: ngồi yên, sử dụng lời nói thay vì cử chỉ, hiểu các ý tưởng trừu tượng và biểu tượng, lập kế hoạch cho ngày mai, hòa hợp với giáo viên và bạn học.

Các thùy trán chịu trách nhiệm về những phẩm chất làm cho chúng ta trở nên độc nhất trong vương quốc động vật. Chúng cho phép chúng ta sử dụng ngôn ngữ và tư duy trừu tượng. Chúng cho ta khả năng tiếp thu và tích hợp một lượng lớn thông tin và gán ý nghĩa cho chúng. Mặc dù chúng ta thích thú trước khả năng nổi trội của các loài khỉ tinh tinh và khỉ vàng trong việc học hỏi ngôn ngữ nhưng chỉ có con người mới có khả năng điều khiển ngôn ngữ và những ký hiệu cần thiết để tạo ra những bối cảnh sinh hoạt công cộng, đời sống tinh thần và hoàn cảnh lịch sử đã hình thành nên cuộc sống của chúng ta

Thùy trán cho phép chúng ta lập kế hoạch và phản ánh, tưởng tượng và phát triển các kịch bản tương lai. Chúng giúp ta dự đoán điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta thực hiện một hành động này (như xin việc làm) hoặc bỏ qua một hành động khác (như không trả tiền thuê nhà).

Các thùy trán khiến những lựa chọn của chúng ta trở nên khả thi và làm nền tảng cho những sáng tạo đầy kinh ngạc của chúng ta. Hàng thế hệ thùy tràn hoạt động liên kết chặt chẽ đã tạo nên những nền văn hóa, giúp chúng ta phát triển từ những chiếc xuồng đẽo từ thân cây, CỖ xe ngựa kéo, thư tay lên tới máy bay phản lực, xe hybrid (sử dụng kết hợp động cơ đốt trong với động cơ điện) và thư điện tử. Chúng cũng cho chúng ta thấy được những chiếc đệm lò xo cứu nạn của Noam.

NOI GƯƠNG LẪN NHAU: SINH HỌC THẦN KINH LIÊN CÁ NHÂN

Là một yếu tố rất quan trọng để hiểu được sang chấn, thùy trán cũng là vị trí của sự thấu cảm – khả năng “cảm nhận về” ai đó của chúng ta. Một trong những khám phá thực sự của khoa học thần kinh hiện đại đã diễn ra vào năm 1994, khi một nhóm chuyên gia người Ý xác định được các tế bào chuyên biệt ở vỏ não được biết đến như là những tế bào thần kinh gương (mirror neuron)”.

Các nhà nghiên cứu đã gắn điện cực vào vùng não tiền vận động của một con khỉ để theo dõi chính xác những tế bào thần kinh nào được kích hoạt khi con khỉ nhặt đậu phộng hoặc cầm quả chuối. Vào thời điểm nhà nghiên cứu đặt những viên thức ăn vào hộp, họ nhận thấy các tế bào não của con khỉ đã phát sáng ở chính xác vị trí các tế bào thần kinh ra lệnh vận động, dù con khỉ không ăn hay di chuyển. Nó chỉ đang quan sát nhà nghiên cứu và bộ não của nó đã gián tiếp phản ánh hành động của nhà nghiên cứu.

Nhiều thí nghiệm khác bắt đầu được triển khai trên khắp thế giới, và chẳng bao lâu sau, chúng ta đã thấy rõ ràng các tế bào thần kinh gương đã lý giải được nhiều khía cạnh của tâm trí mà trước đây ta không thể nào giải thích được, chẳng hạn như sự đồng cảm, bắt chước, đồng bộ, sự phát triển của ngôn ngữ. Một nhà văn đã so sánh tế bào thần kinh gương với “mạng không dây của não bộ” - chúng ta tiếp nhận không chỉ cử chỉ của những người khác mà cả tình cảm và ý định của họ nữa.

Giữa những người có sự gắn kết với nhau, họ có xu hướng đứng hoặc ngồi tương tự nhau, giọng nói của họ có cùng nhịp điệu. Nhưng các tế bào thần kinh gương của chúng ta cũng làm cho chúng ta dễ bị tổn thương trước tình tiêu cực của người khác, để chúng ta phản ứng với sự giận dữ của họ bằng Cơn thịnh nộ hay bị nỗi buồn của họ làm mất tinh thần.

Tôi sẽ nói nhiều hơn về tế bào thần kinh gương trong những trang sau vì sang chấn là điều vô hình, hầu như không nhìn thấy được, không thể bị phản ánh và không thể được chú ý đến. Việc điều trị cần phải kích hoạt lại khả năng phản ánh một cách an toàn, và được phản ánh lại bởi những người khác, nhưng cũng phải chống lại sự lây nhiễm cảm xúc tiêu cực từ người khác.

Sự hoạt động của thùy trán có vai trò rất quan trọng trong những mối quan hệ hài hòa giữa người với người. Với trẻ em 2-3 tuổi, khi chúng nhận ra những người khác có thể suy nghĩ và cảm nhận khác biệt với mình thì đó là một bước phát triển to lớn. Trẻ học cách nắm bắt động cơ của người khác để có thể thích nghi và sống an toàn trong những nhóm người có nhận thức, kỳ vọng và giá trị khác với chúng.

Nếu không có thùy trán chủ động và linh hoạt, con người sẽ trở thành loài động vật chỉ hành động dựa theo thói quen, những mối quan hệ của họ trở nên nông cạn, hời hợt, rập khuôn. Và rồi thế giới sẽ thiếu đi những phát minh, đổi mới, phát kiến và kỳ quan.

Thùy trán của chúng ta đôi khi (chứ không phải luôn luôn) ngăn chúng ta khỏi những hành động khiến ta xấu hổ hoặc gây tổn thương người khác. Không phải lúc nào ta cũng ăn khi đói, không phải hễ thích ai đó là ta hôn họ, không phải giận là ta nổi cơn tam bành. Nhưng những rắc rối của chúng ta sẽ nảy sinh ngay lằn ranh giữa cơn bốc đồng và kiểu hành xử được chấp nhận. Cảm giác đầu vào càng mạnh càng kích thích phần não cảm xúc, càng lấn át khả năng của phần não lý trí.

Thuyết bộ não 3 trong 1: Bộ não phát triển từ dưới lên. Phần não bò sát (thân não) phát triển khi thai nhi còn trong tử cung và chịu trách nhiệm tổ chức những chức năng cơ bản để duy trì sự sống. Nó đáp ứng mạnh với mối đe dọa trong suốt cuộc đời chúng ta. Hệ viền (vùng não limbic) được tổ chức chủ yếu trong sáu năm đầu đời nhưng tiếp tục phát triển theo cách sử dụng - phụ thuộc. Sang chấn có thể gây tác động mạnh lên chức năng của hệ viền trong suốt cuộc đời. Vỏ não trán trước phát triển sau cùng và cũng chịu ảnh hưởng từ sang chấn, bao gồm việc mất khả năng chọn lọc ra những thông tin có liên quan. Suốt cuộc đời, vỏ não trán trước dễ chịu tổn thương dẫn đến việc bị ức chế khi nó đáp ứng với mối đe dọa.

NHẬN DIỆN NGUY HIỂM: NGƯỜI ĐẦU BẾP VÀ HỆ THỐNG BÁO ĐỘNG

Nguy hiểm là một phần bình thường của cuộc sống. Bộ não có trách nhiệm giúp ta phát hiện nguy hiểm và phản ứng lại. Chúng ta tiếp nhận thông tin giác quan về thế giới bên ngoài thông qua mắt, mũi, tai và da. Những cảm giác hội tụ trong vùng đồi thị (thalamus), một khu vực bên trong hệ viền, đóng vai trò như một “người đầu bếp” trong não bộ. Vùng đồi thị khuấy đều tất cả thông tin đầu vào từ nhận thức của chúng ta thành một “món súp tự truyện”, một kinh nghiệm liên kết và mạch lạc của “đây là những gì đang xảy ra với tôi”10. trải qua Các cảm giác sau đó được dẫn truyền theo hai hướng: (1) hướng đi xuống hạch hạnh nhân nằm sâu trong vùng viền, phần não vô thức, hoặc (2) hướng đi lên thùy trán, phần não nhận thức ý thức. Nhà thần kinh học Joseph LeDoux gọi con đường tới hạch hạnh nhân là “đường tắt”, cực kỳ nhanh, và con đường tới vùng vỏ não trán là “đường chính”, chậm hơn vài mili giây khi con người đang mối đe dọa tuyệt đối. Tuy nhiên, quá trình khuấy đều thông tin của vùng đồi thì có thể bị phá vỡ. Hình ảnh, âm thanh, mùi vị và xúc giác bị mã hóa thành các mảnh cô lập, rời rạc, và quá trình xử lý bộ nhớ bình thường bị tan vỡ. Thời gian đóng băng, do đó người ta cảm thấy mối nguy hiểm hiện tại sẽ kéo dài mãi mãi.

Chức năng trung tâm của hạch hạnh nhân, mà tôi gọi là hệ thống báo động của não, là xác định xem những thông tin đầu vào có liên quan đến sự sống còn của chúng ta hay không. Nó hoạt động nhanh chóng và tự động, được trợ giúp bởi phản hồi từ hồi hải mã (hippocampus), một cấu trúc nằm lân cận có liên quan đến việc liên hệ những thông tin mới mẻ với các trải nghiệm trong quá khứ. Nếu hạch hạnh nhân cảm thấy mối đe dọa – chuẩn bị va chạm với chiếc xe phía trước chẳng hạn – nó sẽ gửi một thông điệp tức thời xuống vùng dưới đồi (hypothalamus) và thân não, kêu gọi hệ thống hormone của stress và hệ thần kinh tự chủ (autonomic nervous system – ANS) nhằm sắp xếp một phản ứng cơ thể toàn diện.

Vì hạch hạnh nhân xử lý thông tin mà nó nhận được từ vùng đồi thì nhanh hơn thùy trán, nên nó quyết định liệu thông tin đó có phải là mối đe dọa đối với sự sống còn của chúng ta hay không, ngay cả trước khi chúng ta nhận thức được sự nguy hiểm. Đến khi chúng ta kịp nhận biết điều gì đang xảy ra thì cơ thể chúng ta có thể đã hành động mất rồi.

Phần não cảm xúc là bộ phận đầu tiên diễn dịch những thông tin thu nhận được

Thông tin giác quan về môi trường và tình trạng cơ thể được tiếp nhận qua mắt, ta mũi, cảm giác vận động hội tụ ở vùng đồi thị, nơi nó được xử lý rồi chuyển qua hạch hạnh nhân để giải thích ý nghĩa cảm xúc của nó. Quá trình này diễn ra nhanh như chớp. Nếu phát hiện mối đe dọa, hạch hạnh nhân sẽ gửi thông điệp đến vùng dưới đồ để tiết ra các hormone của stress nhằm chống lại mối đe dọa đó. Nhà thần kinh học Joseph LeDoux gọi đây là “đường tắt”. Con đường thần kinh thứ hai, “đường chính” chạy từ vùng đồi thị, qua hồi hải mã và vùng trước của hội đại, tới vỏ não trán trước bộ não lý trí, để đưa ra những diễn dịch có ý thức và tinh tế hơn. Quá trình này kéo dài hơn vài mili giây. Nếu việc giải thích mối đe dọa của hạch hạnh nhân quả mãnh liệt và/hoặc hệ thống chọn lọc của những vùng não cao hơn quá yếu, như thường xảy ra trong PTSD, người ta sẽ mất khả năng kiểm soát các phản ứng khẩn cấp tự động (như những cơn giật mình kéo dài hoặc các cơn bùng nổ dữ dội).

Các tín hiệu nguy hiểm của hạch hạnh nhân kích hoạt quá trình phóng thích các hormone của stress, bao gồm cortisol và adrenaline, làm tăng nhịp tim, huyết áp và tốc độ hô hấp, chuẩn bị cho chúng ta chiến đấu hoặc chạy trốn. Một khi nguy hiểm đã qua, cơ thể sẽ trở lại trạng thái bình thường khá nhanh. Nhưng khi quá trình hồi phục này bị chặn lại, cơ thể được kích hoạt để bảo vệ chính nó, làm cho người ta cảm thấy khó chịu và kích động.

Trong khi “hệ thống báo động” khá hữu hiệu trong việc nắm bắt những mầm mống hiểm nguy, thì sang chấn lại làm gia tăng nguy cơ diễn giải sai một tình huống cụ thể là an toàn hay nguy hiểm. Bạn có thể hòa hợp với người khác chỉ khi bạn có thể đánh giá chính xác liệu ý định của họ là tốt hay xấu. Ngay cả một nắm bắt sai lệch nhỏ cũng có thể dẫn đến hiểu lầm đau đớn trong các mối quan hệ gia đình và tại nơi làm việc. Hoạt động hiệu quả trong một môi trường làm việc phức tạp hoặc một gia đình đầy trẻ em ương ngạnh đòi hỏi bạn phải có khả năng đánh giá nhanh chóng cảm nhận của mọi người và liên tục điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp. Hệ thống báo động bị lỗi có thể dẫn đến sự bùng nổ hay ngắt kết nối hoàn toàn khi bạn phản ứng lại những lời nhận xét hay biểu lộ cảm xúc hoàn toàn vô hại từ người khác.

KIỂM SOÁT PHẢN ỨNG STRESS: THÁP CANH

Nếu hạch hạnh nhân là hệ thống báo động của não, thì các vùng thùy trán, đặc biệt là vùng giữa của vỏ não trán trước (medial prefrontal cortex – MPFC)'?, nằm ngay phía trên mắt chúng ta chính là tháp canh, giúp quan sát mọi việc từ trên cao. Mùi khói bạn ngửi thấy là do nhà bạn đang cháy, bạn cần chạy ra khỏi nhà ngay, hay khói là do món bít-tết bạn làm bị quá lửa? Hạch hạnh nhân không đưa ra những phán đoán như vậy, nó chỉ giúp bạn sẵn sàng chiến đấu hoặc trốn thoát, thậm chí trước khi thùy trán có cơ hội cân nhắc. Miễn là bạn không quá khó chịu, thùy trán của bạn có thể khôi phục lại sự cân bằng bằng cách giúp bạn nhận ra mình đang phản ứng với một báo động giả và hủy bỏ phản ứng stress.

Thông thường, khả năng điều hành của vỏ não trán trước cho phép mọi người quan sát những gì đang diễn ra, dự đoán điều gì sẽ xảy ra nếu họ làm một hành động nào đó và thực hiện một sự lựa chọn có ý thức. Việc có khả năng giữ bình tĩnh và khách quan trước những suy nghĩ, cảm xúc và tình cảm của mình (tôi sẽ gọi khả năng này là chánh niệm xuyên suốt cuốn sách này) và sau đó mới dành thời gian để đáp ứng cho phép não bộ ức chế, tổ chức và điều chỉnh các phản ứng tự động đã được lập trình sẵn trong bộ não cảm xúc. Năng lực này rất quan trọng để bảo vệ mối quan hệ giữa người với người. Miễn là thùy trán của chúng ta hoạt động bình thường, chúng ta sẽ không mất bình tĩnh mỗi khi người phục vụ bàn chậm trễ hoặc đại lý bảo hiểm bắt chúng ta chờ lâu. (Tháp canh cũng cho chúng ta biết cơn giận dữ và mối đe dọa của người khác là một chức năng của tình trạng cảm xúc của họ.) Khi hệ thống đó sụp đổ, chúng ta trở nên giống động vật có điều kiện: Ngay khi phát hiện ra nguy hiểm, chúng ta sẽ tự động chuyển sang chế độ chiến đấu hoặc trốn chạy.

Đối với PTSD, sự cân bằng thiết yếu giữa hạch hạnh nhân (hệ thống báo động) và MPFC (tháp canh) thay đổi rất nhiều, điều này khiến việc kiểm soát cảm xúc và sự bốc đồng trở nên khó khăn hơn.

Các nghiên cứu chẩn đoán hình ảnh thần kinh của con người ở những trạng thái xúc động cao độ cho thấy nỗi sợ hãi, buồn bã và tức giận dữ dội làm tăng hoạt động của các vùng não dưới vỏ não liên quan đến cảm xúc và làm giảm hoạt động ở các khu vực khác nhau ở thùy trán, đặc biệt là MPFC. Khi điều đó xảy ra, khả năng ức chế của thùy trán bị phá vỡ, và mọi người “tách rời khỏi giác quan của họ”: Họ có thể giật mình khi nghe bất kỳ tiếng động lớn nào, trở nên tức giận chỉ vì những thất vọng nhỏ nhặt hoặc cứng đờ người khi ai đó chạm vào cơ thể họ.

Đối phó hiệu quả với stress phụ thuộc vào sự cân bằng giữa hệ thống báo động và tháp canh. Nếu bạn muốn quản lý tốt hơn những cảm xúc của mình, não của bạn sẽ cho bạn hai lựa chọn: Bạn có thể học cách điều chỉnh chúng từ trên xuống hay từ dưới lên trên.

Biết được sự khác nhau giữa cơ chế điều chỉnh từ trên xuống và từ dưới lên là trọng tâm để hiểu và điều trị chứng rối loạn stress do sang chấn. Điều chỉnh từ trên xuống liên quan đến việc tăng cường năng lực của tháp canh để theo dõi cảm giác của cơ thể. Thiền chánh niệm và yoga có thể giúp ích cho việc này.

Điều chỉnh từ dưới lên bao gồm việc hiệu chỉnh hệ thống thần kinh tự chủ (hệ thống bắt nguồn từ thân não). Chúng ta có thể truy cập vào ANS thông qua hơi thở, chuyển động hoặc xúc chạm. Hít thở là một trong số ít các chức năng cơ thể được kiểm soát bằng ý thức lẫn tự chủ. Nội dung này sẽ được trình bày kỹ trong chương 5.

⚝ ✽ ⚝

CON NGỰA VÀ NGƯỜI CƯỠI NGỰA

Đến đây, tôi muốn nhấn mạnh rằng cảm xúc không đối kháng với tư duy, cảm xúc của ta làm tăng giá trị của những kinh nghiệm và như vậy nó là nền tảng của tư duy.

Kinh nghiệm là sản phẩm của sự cân bằng giữa bộ não lý trí và bộ não cảm xúc của chúng ta. Khi hai hệ thống này cân bằng, chúng ta “cảm thấy là chính mình”. Tuy nhiên, khi sự sống còn của chúng ta bị đe dọa, các hệ thống này có thể hoạt động tương đối độc lập.

Ví dụ, bạn vừa lái ô-tô vừa trò chuyện với bạn bè, một chiếc xe tải đột nhiên xuất hiện ở góc mắt của bạn, bạn lập tức ngừng nói chuyện, đạp nhẹ phanh và xoay tay lái để tránh nguy hiểm. Nếu hành động bản năng này giúp bạn hoàn toàn an toàn, bạn sẽ tiếp tục trò chuyện với bạn bè. Khả năng này phụ thuộc phần lớn vào các phản ứng sống còn bên trong của bạn làm giảm bớt mối đe dọa nhanh chóng như thế nào.

Nhà thần kinh học Paul MacLean đã so sánh mối quan hệ giữa bộ não lý trí và bộ não cảm xúc với mối quan hệ giữa người ít nhiều đã biết cưỡi ngựa và con ngựa chứng. Miễn là thời tiết đẹp và con đường không quá gập ghềnh, người cưỡi ngựa luôn cảm thấy mọi việc đang trong tầm kiểm soát. Nhưng khi có một âm thanh bất ngờ hoặc có con vật nào đó lao ra đe dọa con ngựa, khiến con ngựa giật nẩy mình, thì người cưỡi phải ghì chặt dây cương nếu không muốn bị té ngã. Tương tự, khi một người cảm thấy sự sống còn của họ bị đe dọa hoặc thấy mình đang chìm đắm trong những cơn thịnh nộ, khao khát, sợ hãi hoặc ham muốn tình dục, họ sẽ ngừng lắng nghe tiếng nói của lý trí, thế nên sẽ chẳng ích gì khi ta cố tranh cãi với họ trong lúc này. Bất cứ khi nào hệ viền quyết định một vấn đề nào đó là sống hay chết thì những con đường liên kết giữa thùy trán (phần lý trí) và hệ viền (phần cảm xúc) trở nên rất mong manh.

Các nhà tâm lý học thường cố gắng giúp mọi người vận dụng sự hiểu biết sâu sắc của bản thân để quản lý các hành vi của họ. Tuy nhiên, khoa học thần kinh cho thấy có rất ít vấn đề tâm lý lại là kết quả của việc thiếu hiểu biết điều gì đó. Hầu hết các vấn đề tâm lý bắt nguồn từ những áp lực từ các vùng sâu trong não vốn điều khiển nhận thức và chú ý. Khi chuông báo động của bộ não cảm xúc cứ liên tục cảnh báo bạn đang gặp nguy hiểm thì sẽ chẳng có hiểu biết sâu sắc nào có thể tắt cái chuông ấy đi.

Khi bộ não cảm xúc xung đột với bộ não lý trí (ví dụ: ta nổi giận với người ta yêu thương, ta sợ hãi một người ta đang phụ thuộc), thì sẽ xảy ra một cuộc giằng co. Cuộc chiến này chủ yếu diễn ra trong các cơ quan nội tạng như ruột, tim, phổi, khiến cả thể lý lẫn tâm lý của ta cảm thấy khó chịu, đau đớn. Chương 6 sẽ thảo luận cách bộ não và cơ quan nội tạng tương tác với nhau trong những tình huống an toàn và nguy hiểm, đây là chìa khóa để hiểu được nhiều biểu hiện thể chất của sang chấn.

Tôi muốn kết thúc chương này bằng việc xem xét thêm hai hình quét não để minh họa cho một số đặc điểm cơ bản của stress do sang chấn: Những ký ức có thể sống lại, bất kể đã xảy ra cách đây bao lâu; con người tại trải nghiệm những hình ảnh, âm thanh, cảm xúc hệt như khi bị sang chấn; và sự phân ly (dissociation).

⚝ ✽ ⚝

BỘ NÃO BỊ SANG CHẤN CỦA STAN VÀ UTE

Vào một buổi sáng đẹp trời tháng 9/1999, cặp vợ chồng khoảng 40 tuổi Stan và Ute Lawrence sống ở London, Ontario, lái xe đi tham dự một cuộc họp kinh doanh tại Detroit. Được nửa đường, họ gặp sương mù dày đặc, gần như không nhìn thấy gì. Stan lập tức hãm phanh, dừng xe bên đường cao tốc để né một chiếc xe tải lớn. Một chiếc xe 18 bánh tông mạnh vào đuôi xe họ, những chiếc xe hơi và xe tải đâm liên tiếp vào nhau và đầm cả vào xe họ. Nhiều người lao ra khỏi xe để thoát thân. Tiếng xe va vào nhau đinh tai nhức óc cứ tiếp diễn khiến Stan và Ute thấy mình như sắp chết. Stan và Ute kẹt trong chiếc xe thứ 13 của mớ hỗn độn 87 chiếc xe. Đây là thảm họa đường bộ lớn nhất trong lịch sử Canada 15.

Sau tiếng động định tại là sự im lặng đến rợn người, Stan cố gắng mở cửa xe và cửa sổ nhưng chiếc xe 18 bánh đang ép sát vào thân xe họ. Đột nhiên, có ai đó đập lên vòm xe của họ. Tiếng một cô gái vang lên thất thanh: “Làm ơn đưa tôi ra! Xe tôi đang cháy!”. Hai người bất lực chứng kiến cô gái chết dần trong quả cầu lửa.

Điều tiếp theo họ nhớ là một người lái xe tải đứng lên mui xe họ, tay cầm bình chữa cháy. Anh ta đập vỡ cửa kính, giải thoát cho họ. Stan leo ra rồi quay lại giúp vợ mình, anh trông thấy Ute ngồi bất động trong xe. Anh và người tài xế xe tải đưa Ute ra. Ngay lập tức, hai vợ chồng Stan và Ute được đưa đến phòng cấp cứu, may mắn là họ chỉ bị trầy xước nhẹ.

Tối hôm đó, khi đã ở trong căn nhà của mình, hai vợ chồng đều không muốn ngủ vì cảm thấy rằng nếu nhắm mắt thì họ sẽ chết mất. Họ cảm thấy khó chịu, dễ giật mình và luôn cảnh giác. Đêm hôm đó và nhiều đêm tiếp theo, họ uống rất nhiều rượu để nhấn chìm cơn sợ hãi. Họ không thể ngăn những hình ảnh kinh hoàng của vụ tại nạn cứ quay cuồng trong đầu óc, họ cũng không thể ngừng bật lên trong đầu những câu hỏi: Nếu họ đi sớm hơn thì sao? Nếu họ không dừng lại đổ xăng thì sao?

Ba tháng sau vụ tai nạn, hai người tìm đến tiến sĩ Ruth Lannis, một bác sĩ tâm thần ở Đại học Tây Ontario, để nhờ giúp đỡ. Tiến sĩ Lanius nói với hai vợ chồng rằng cô muốn chụp MRI não bộ của họ trước khi bắt đầu điều trị. fMRI đo hoạt động thần kinh bằng cách theo dõi những thay đổi của dòng máu lưu thông trong não, và không giống như chụp PET (Positron Emission Tomography - chụp xạ hình cắt lớp Positron), người chụp không phải tiếp xúc với bức xạ. Tiến sĩ Lanius đã dùng phương pháp kịch bản như chúng tôi đã dùng tại Harvard, nghĩa là thu thập lại những hình ảnh, âm thanh, mùi hương và những cảm giác khác mà Stan và Ute đã trải qua khi mắc kẹt trong xe.

Stan là người đầu tiên bước vào máy quét. Anh hồi tưởng ngay lập tức vụ tai nạn đó. Khi ra khỏi máy quét, người anh ướt đẫm mồ hôi, nhịp tim nhanh mạnh, huyết áp tăng cao. Anh nói: “Đây chính là cảm giác của tôi khi trải qua tai nạn. Tôi đã chắc rằng mình sẽ chết và không thể làm gì để tự cứu mình”. Stan đã làm sống lại vụ tai nạn này mà không nhớ rằng nó đã xảy ra những ba tháng trước.

⚝ ✽ ⚝

PHÂN LY VÀ LÀM SỐNG LẠI

Sự phân ly là một bản chất của sang chấn. Những trải nghiệm dữ dội được tách ra và phân mảnh khiến cho những cảm xúc, âm thanh, hình ảnh, ý nghĩ và những cảm giác cơ thể liên quan đến sang chấn có cuộc sống riêng của chúng. Các mảnh cảm giác của bộ nhớ xâm nhập vào hiện tại - nơi chúng được tái hiện theo nghĩa đen. Chừng nào sang chấn còn chưa được giải quyết thì các hormone của stress được tiết ra để tự vệ sẽ vẫn tiếp tục lưu thông trong cơ thể, những chuyển động phòng thủ và những phản hồi cảm xúc sẽ tiếp tục được phát đi phát lại.

Tuy nhiên, không giống Stan, nhiều người không nhận thức được mối liên hệ giữa những cảm giác, phản ứng “điên rồ” với những sự kiện sang chấn đang được “phát lại”. Họ không biết vì sao mình lại phản ứng “lồng lộn” như thể họ sắp bị tiêu diệt.

Những hồi tưởng thậm chí còn tệ hơn cả chính sang chấn. Một sự kiện sang chấn có khởi đầu, có kết thúc, và đến lúc nào đó sẽ qua đi. Nhưng đối với những người bị PTSD, họ có thể hồi tưởng sự kiện vào bất cứ lúc nào, bất kể đang tỉnh táo hay đang ngủ. Họ không cách nào biết được khi nào họ sẽ lại hồi tưởng và sẽ hồi tưởng trong bao lâu. Những người này thường tìm cách tránh xa những cuộc hồi tưởng bằng cách tập gym, dùng ma túy, chơi những trò cảm giác mạnh để đạt được cảm giác hão huyền rằng mình đang tự chủ được trong những tình huống vô cùng nguy hiểm (ví dụ như đua xe máy, nhảy bungee, làm tài xế xe cứu thương). Họ kiệt sức, tuyệt vọng, mỏi mệt vì cứ phải chống lại những hiểm họa vô hình.

Nếu các yếu tố của sang chấn lặp đi lặp lại, các hormone của stress đi kèm sẽ khắc những ký ức đó sâu hơn vào tâm trí họ, khiến họ ngày càng ít tha thiết với những hoạt động thường ngày. Họ không thực sự cảm thấy mình đang sống vì họ không hiểu rõ những gì đang xảy ra xung quanh. Họ khó cảm thấy vui, buồn, khó tập trung vào những công việc hiện tại. Không được sống trọn vẹn trong hiện tại khiến họ càng bị giam giữ gắt gao hơn trong “nhà tù” mang tên Quá Khứ.

Các yếu tố kích hoạt những cảm xúc trong người bị sang chấn vốn rất đa dạng. Các cựu chiến binh có thể phản ứng lại trước những tín hiệu nhỏ nhặt nhất như tiếng xe cán phải ổ gà, nhìn thấy một đứa trẻ đang chơi trên đường. Những âm thanh, hình ảnh này khiến họ cảm thấy như thể đang ở trong vùng chiến tranh, thế là họ giật bắn mình, nổi giận điên cuồng hoặc bị tê liệt.

Nạn nhân bị lạm dụng tình dục khi còn nhỏ có thể sẽ bị tê liệt ham muốn tình dục, cảm thấy hổ thẹn khi thấy mình phấn khích trước những cảm giác hoặc hình ảnh gợi nhớ đến vụ lạm dụng tình dục năm xưa, ngay cả khi các cảm giác đó là hoàn toàn tự nhiên và bản năng.

Nếu những người sống sót sau sang chấn bị ép phải thảo luận về những kinh nghiệm của mình, có người lập tức bị tăng huyết áp, có người bị đau nửa đầu, có người “tắt ngấm” mọi cảm xúc, cũng có người chẳng tỏ ra bất cứ thay đổi gì. Tuy nhiên, trong phòng thí nghiệm, chúng tôi thường dễ dàng phát hiện nhịp tim họ tăng nhanh và các hormone của stress được tiết ra.

Những phản ứng này vốn không phải do lý trí kiểm soát và phần lớn nằm ngoài tầm kiểm soát của con người. Những thúc giục và cảm xúc mạnh mẽ, khó kiểm soát dễ khiến người ta điên tiết và cảm thấy mình như chợt biến thành quái vật. Kết quả là cảm giác xấu hổ bao trùm lấy họ, che phủ luôn nguyên nhân thật sự khiến họ kích động mạnh như vậy.

Họ thường ít khi tìm hiểu lý do sâu xa của triệu chứng này. Các liệu pháp điều trị có thể giúp họ cảm nhận lại những cảm xúc do sang chấn gây ra, giúp họ có thể tự quan sát được bản thân. Tuy nhiên, điểm mấu chốt là hệ thống nhận thức về nguy hiểm trong bộ não của họ đã bị thay đổi, và các phản ứng thể chất của họ đã được quyết định bởi dấu ấn của quá khứ.

Sang chấn vốn bắt nguồn từ “bên ngoài”, giờ đây trở thành “nội chiến” ngay trong cơ thể họ. Điều quan trọng không hẳn là học cách chấp nhận những chuyện khủng khiếp đã xảy ra mà chính là học cách làm chủ những cảm xúc và cảm giác bên trong mình. Cảm nhận, gọi tên và xác định những gì đang xảy ra bên trong cơ thể mình chính là bước đầu tiên cần thực hiện để phục hồi.

⚝ ✽ ⚝

HỆ THỐNG BÁO ĐỘNG HOẠT ĐỘNG QUÁ MỨC

Quá trình quét não của Stan cho thấy hoạt động hồi tưởng của anh (hình trang bên). Đây là những gì diễn ra trong não của Stan khi anh hồi tưởng lại sang chấn: có sự sáng lên ở vùng góc dưới bên phải, một khoảng trống phía dưới bên trái, và bốn điểm trắng đối xứng gần trung tâm (bạn có thể nhận ra vùng hạch hạnh nhân sáng lên và vùng não bộ bên trái không hoạt động giống như trong nghiên cứu ở Harvard đã được đề cập trong chương 3). Hạch hạnh nhân của Stan không phân biệt giữa quá khứ và hiện tại. Nó kích hoạt như thể vụ tai nạn xe hơi đang xảy ra trong máy quét vậy, làm phóng thích mạnh mẽ các hormone của stress và đáp ứng của hệ thần kinh. Kết quả là Stan đổ mồ hôi, run rẩy, tim đập nhanh mạnh, huyết áp tăng cao - nghĩa là toàn bộ những phản ứng cứu sinh hoàn toàn bình thường của cơ thể khi một chiếc xe tải húc vào xe của bạn.

Điều quan trọng là bạn phải có một hệ thống báo động hiệu quả để không bị bất ngờ khi hỏa hoạn xảy ra. Nhưng nếu cứ hễ ngửi thấy mùi khói là bạn hoảng loạn điên cuồng thì sẽ khiến mọi chuyện cực kỳ rối loạn.

Đúng là bạn cần nhận biết có ai đó đang giận bạn hay không, nhưng nếu hạch hạnh nhân của bạn hoạt động quá mức, bạn sẽ luôn nơm nớp sợ ai cũng ghét bạn hoặc cảm thấy mọi người định hãm hại bạn.

⚝ ✽ ⚝

KHI BỘ PHẬN CANH GIỮ THỜI GIAN CỦA NÃO BỊ HỎNG

Sau vụ tai nạn, hai vợ chồng Stan và Ute trở nên nhạy cảm quá mức và hay cáu kỉnh. Điều này cho thấy vỏ não trán trước của họ đang vật lộn để duy trì sự kiểm soát khi đối mặt với căng thẳng. Sự hồi tưởng của Stan dẫn đến một phản ứng cực đoan hơn.

Hai vùng trắng ở phía trước của não (vùng phía trên trong hình) là vỏ não trán trước và bên trái. Khi những khu vực này bị vô hiệu hóa, mọi người mất ý thức về thời gian và bị mắc kẹt trong thời điểm này, không có cảm giác quá khứ, hiện tại hoặc tương lai 16.

Có hai hệ thống não liên quan đến việc xử lý sang chấn tinh thần: hệ thống đối phó với cường độ cảm xúc và hệ thống xử lý ngữ cảnh tạo ra cảm xúc. Cường độ cảm xúc được xác định bởi hạch hạnh nhân, hệ thống báo động, và vùng giữa của vỏ não trán trước (MPFC), tháp canh. Còn ngữ cảnh và ý nghĩa của một trải nghiệm được xác định bởi vùng lưng-bên của vỏ não trán trước (dorsolateral prefrontal cortex – DLPFC) và hồi hải mã.

DLPFC cho chúng ta thấy trải nghiệm hiện tại của chúng ta liên quan đến quá khứ như thế nào và có thể ảnh hưởng đến tương lai ra sao. Bạn cứ nghĩ DLPFC như bộ phận canh giữ thời gian của não vậy. Nếu biết rằng bất cứ điều gì đang diễn ra cũng là hữu hạn và sớm muộn gì cũng kết thúc thì bạn dễ chấp nhận được hầu hết những trải nghiệm ấy. Điều ngược lại cũng đúng, chúng ta sẽ không chịu đựng được nếu cảm thấy tình huống đó kéo dài vô tận.

Ai cũng biết rằng những trải nghiệm đau đớn khủng khiếp thường khiến người trong cuộc cảm thấy tình trạng thống khổ này sẽ còn mãi, và họ không thể vượt qua được nỗi mất mát. Nói ngắn gọn, sang chấn là sự trải nghiệm cùng cực của tình trạng “tồn tại vĩnh viễn”.

Bản quét não của Stan tiết lộ lý do mọi người chỉ có thể hồi phục sau sang chấn nếu các cấu trúc não (những phần đã bị ức chế vào thời điểm trải nghiệm đầu tiên khiến cho sự kiện được não ghi nhận thành sang chấn) hoạt động đầy đủ. Liệu pháp hồi tưởng quá khứ chỉ nên được thực hiện khi con người, về mặt sinh học, bám thật vững vào hiện tại và cảm thấy bình tĩnh, an toàn và có căn cứ nhất có thể (“có căn cứ” nghĩa là bạn có thể cảm nhận mông mình trên ghế, nhìn thấy ánh sáng rọi vào từ cửa sổ, cảm nhận được những thở cơ đang căng lên, nghe được tiếng gió xào xạc bên ngoài). Nhận thức vững vàng trong hiện tại khi xem xét lại sang chấn giúp người ta hiểu sâu sắc rằng những sự kiện khủng khiếp ấy là thuộc về quá khứ. Để điều đó xảy ra, “tháp canh”, “đầu bếp”, “bộ phận canh giữ thời gian” của não cần phải hoạt động đầy đủ. Liệu pháp sẽ không hiệu quả chừng nào mà người ấy vẫn bị kéo ngược lại quá khứ.

⚝ ✽ ⚝

VÙNG ĐỒI THỊ NGƯNG HOẠT ĐỘNG

Nhìn lại hình ảnh chụp não của Stan khi hồi tưởng, bạn có thể thấy thêm hai lỗ trắng ở nửa dưới của não. Đây là vùng dưới đồi thị phải và trái của anh - hoàn toàn không hoạt động trong quá trình hồi tưởng như khi chúng trải qua sang chấn vào lần đầu tiên. Như tôi đã nói, vùng đồi thị có chức năng như một “đầu bếp” – trạm tiếp sức thu thập cảm giác từ tai, mắt và da và tích hợp chúng vào “món súp tự truyện” của chúng ta. Sự ngưng hoạt động của vùng đồi thị lý giải vì sao người ta nhớ về sang chấn không phải là một câu chuyện có mở đầu, diễn biến, và kết thúc, mà là những dấu ấn cảm giác bị cô lập: hình ảnh, âm thanh và cảm giác thể chất kèm theo cảm xúc mãnh liệt, thường là sự kinh sợ và bất lực 17.

Trong tình huống bình thường, vùng đồi thì cũng hoạt động như một bộ lọc hoặc người gác cổng. Điều này khiến nó trở thành một phần trung tâm của năng lực chú ý, tập trung và học tập cái mới – những chức năng hoạt động bị sang chấn làm tổn hại. Khi bạn ngồi ở đây đọc sách, bạn có thể nghe nhạc nền hoặc tiếng xe cộ chạy ầm ầm hoặc cảm thấy dạ dày sôi lên cho bạn biết đã đến lúc phải ăn. Nếu bạn có thể tập trung vào trang sách, vùng đồi thị đang giúp bạn phân biệt giữa thông tin giác quan có liên quan và thông tin mà bạn có thể an toàn bỏ qua.

Những người bị PTSD có cửa xả lũ cảm giác luôn mở rộng. Thiếu bộ lọc, họ luôn bị quá tải cảm giác. Để đối phó, họ cố gắng ngắt luồng thông tin cảm giác và phát triển kênh thông tin thị giác của hình ảnh gây sang chấn và tập trung quá mức vào hình ảnh đó.

Nếu không thể ngừng hoạt động của chúng một cách tự nhiên, họ sẽ dùng ma túy hoặc bia rượu. Bi kịch ở chỗ, cái giá cho việc đóng sập tâm hồn là gạt bỏ luôn niềm vui và sự sung sướng.

HỘI CHỨNG GIẢI THỂ NHÂN CÁCH: TÁCH RỜI KHỎI CHÍNH MÌNH

Bây giờ, chúng ta hãy theo dõi trải nghiệm của Ute trong máy quét. Không phải tất cả mọi người đều phản ứng như nhau với sang chấn, nhưng trong trường hợp vụ tai nạn giao thông này thì sự khác biệt khá đáng kể vì Ute ngồi ngay cạnh chồng trong chiếc xe nát bét. Cô phản ứng với kịch bản sang chấn của mình bằng cách đờ người ra: Tâm trí cô trống rỗng, gần như mọi vùng não của cô đều giảm hoạt động đáng kể, nhịp tim và huyết áp không tăng. Khi được hỏi cô cảm thấy như thế nào trong quá trình quét, cô trả lời: “Tôi chẳng cảm thấy gì cả. Lúc xảy ra tai nạn tôi cũng như thế”.

Thuật ngữ y khoa gọi phản ứng của Ute là giải thể nhân cách (depersonalization).8. Bất cứ ai, đàn ông, phụ nữ, trẻ em bị sang chấn sớm muộn gì đều rơi vào cảnh nhìn mọi thứ với đôi mắt trống rỗng, vô hồn, tâm trí “đi vắng”, biểu hiện sinh học bề ngoài là họ đờ người ra. Giải thể nhân cách là một triệu chứng của sự phân ly toàn bộ do sang chấn gây ra. Khi bị kích thích hồi tưởng lại tai nạn năm xưa, Stan có những cảm xúc thể hiện khát khao thoát khỏi vụ tai nạn. Trong khi đó, thay vì đấu tranh để trốn thoát, Ute đã phân ly nỗi sợ hãi của mình và không cảm thấy gì cả.

Tôi thường xuyên gặp tình trạng giải thể nhân cách khi bệnh nhân kể cho tôi những câu chuyện kinh khủng trong sự vô cảm. Tôi phải rất cố gắng mới có thể tiếp tục tập trung. Một bệnh nhân vô hồn buộc ta phải làm việc vất vả hơn để có thể trị liệu hiệu quả.

Sau khi nhìn thấy hình ảnh quét não của Ute (hình trang bên), tôi bắt đầu tiếp cận những bệnh nhân trống rỗng đầu óc bằng cách khác. Họ rõ ràng là không thể suy nghĩ, cảm thấy sâu sắc, nhớ hoặc hiểu được những gì đang diễn ra với họ. Trong những trường hợp này, liệu pháp trò chuyện thông thường hoàn toàn vô dụng.

Trong trường hợp của Ute, ta có thể đoán được tại sao cô ấy lại phản ứng khác với Stan. Cô đã sử dụng một chiến lược sinh tồn mà não cô đã học được từ thời thơ ấu để đối phó với người mẹ khắc nghiệt. Cha của Ute qua đời khi cô mới được chín tuổi. Cô thường bị mẹ đay nghiến, nhục mạ. Bị mắng chửi quá nhiều, đến một lúc, Ute phát hiện mình có thể tự khiến đầu óc trống rỗng mỗi khi bị mẹ la mắng. Ba mươi lăm năm sau, khi bị mắc kẹt trong vụ tai nạn xe hơi liên hoàn, não của cô đã tự động đi vào chế độ sinh tồn tương tự: Cô đã khiến mình biến mất.

Điều mà những người như cố Ute cần làm để quay lại cuộc sống bình thường chính là được trở nên cảnh giác và gắn kết với thực tế (Ute hiện đã hồi phục, cô đã xuất bản một cuốn sách viết về những trải nghiệm của mình và khởi nghiệp thành công một tạp chí tên là Mental Fitness).

Đây là lúc cần cách tiếp cận trị liệu từ dưới lên. Mục đích thực sự là làm thay đổi sinh lý học của bệnh nhân, mối quan hệ của họ với cảm giác của cơ thể. Tại Trung tâm Điều trị Sang chấn (Trauma Center), chúng tôi đo nhịp tim và nhịp thở của bệnh nhân. Chúng tôi giúp bệnh nhân gợi lên và cảm nhận những cảm giác của cơ thể bằng cách xoa ấn huyệt”. Tương tác nhịp nhàng với những người khác cũng có hiệu quả, ví dụ ném một quả bóng qua lại, ngồi lên một quả bóng nảy, đánh trống hoặc khiêu vũ với âm nhạc.

Cảm giác trống rỗng là một khía cạnh khác của PTSD. Nhiều người sống sót sau tai nạn không được điều trị sẽ dễ lâm vào hoàn cảnh như Stan: hồi tưởng sống động về quá khứ, sau đó thì thấy trống rỗng trong hiện tại. Mặc dù việc sống lại sang chấn thương vô cùng xúc động, đáng sợ và tiềm ẩn sự tự hủy hoại, nhưng qua thời gian, thiếu đi sự nhận biết về hiện tại còn gây thương tổn nhiều hơn. Đây là vấn đề đặc biệt nghiêm trọng đối với những đứa trẻ bị sang chấn. Những trẻ phản ứng thái quá thường thu hút sự chú ý, từ đó, chúng được chăm sóc và chữa trị; còn những trẻ trống rỗng, chẳng làm phiền đến ai thì sẽ bị bỏ mặc và chúng dần dần đánh mất tương lai.

⚝ ✽ ⚝

HỌC CÁCH SỐNG TRONG HIỆN TẠI

Điều trị sang chấn không chỉ là chữa lành vết thương trong quá khứ mà còn là nâng cao chất lượng trải nghiệm đời sống hằng ngày cho bệnh nhân. Một lý do khiến những ký ức sang chấn trở nên nổi trội trong PTSD là bệnh nhân rất khó cảm thấy mình đang thật sự sống. Khi bạn không hoàn toàn sống trong thực tại, bạn sẽ đi đến những nơi khiến bạn cảm thấy mình như đang sống, kể cả khi đó là những nơi đây kinh hoàng, khổ đau.

Nhiều phương pháp tiếp cận điều trị stress do sang chấn tập trung vào việc làm giảm độ nhạy cảm của bệnh nhân đối với quá khứ của họ, với hy vọng rằng sẽ giúp họ bớt nhớ lại chuyện cũ và có nhớ lại thì sẽ"bớt xúc động mạnh. T