Chương 5 NHỮNG LIÊN KẾT GIỮA CƠ THỂ VÀ NÃO BỘ
Cuộc đời là một giai điệu. Chúng ta rung động, máu trong tim trào dâng. Chúng ta là những cỗ máy giai điệu, mà đúng là thế.
Mickey Hart
Năm 1872, Charles Darwin xuất bản tác phẩm The Expression. of the Emotions in Man and Animals (Biểu hiện của cảm xúc trong Con người và Động vật)'. Darwin quan sát thấy rằng con người chúng ta có một số dấu hiệu thể chất của cảm xúc giống ở động vật Ông tuyên bố: “Con người và những động vật cấp cao... [cũng có những bản năng chung. Tất cả đều có cùng một giác quan, trực giác, cảm giác, đam mê, tình cảm và cảm xúc, thậm chí những điều phức tạp hơn như ghen tuông, nghi ngờ, thi đua, tri ân và hào hiệp”. Cảm giác tóc gáy dựng đứng khi sợ hãi hoặc nghiến răng để lộ vài chiếc răng khi giận dữ chính là những dấu vết của quá trình tiến hóa lâu dài.
Đối với Darwin, cảm xúc của động vật có vú có nguồn gốc từ sinh học: Chúng là nguồn động lực cần thiết để bắt đầu hành động. Cảm xúc (từ tiếng Latin emovere, có nghĩa là di chuyển ra ngoài) \định hình và định hướng cho bất cứ điều gì chúng ta làm và biểu hiện chính của chúng là ở các cơ trên mặt và toàn thân. Những cử động của khuôn mặt và cơ thể truyền đạt trạng thái tinh thần và ý định của chúng ta đến người khác: Ta tỏ ra giận dữ, thể hiện điệu bộ đe dọa tức là cảnh báo người đối diện phải lùi lại. Vẻ buồn bã của ta sẽ thu hút sự quan tâm, chú ý của người khác. Vẻ sợ hãi cho thấy ta bất lực hoặc cảnh báo ta về nguy hiểm.
Theo bản năng, chúng ta đọc hiểu được động thái giữa hai con người đơn giản dựa trên sự căng thẳng hoặc thư thái của họ, tư thế và giọng điệu của họ, những biểu hiện thay đổi trên gương mặt họ. Khi bạn xem một bộ phim nước ngoài, dù không hiểu ngôn ngữ các nhân vật đang nói nhưng bạn vẫn có thể đoán được tính chất mối quan hệ giữa họ. Chúng ta cũng thường có thể đọc hiểu những động vật có vú khác (khỉ, chó, ngựa) theo cách tương tự.
Darwin tiếp tục quan sát được mục đích cơ bản của cảm xúc là kích hoạt quá trình khôi phục lại trạng thái an toàn và cân bằng thể chất cho sinh vật. Đây là bình luận của ông về nguồn gốc của cái mà ngày nay chúng ta gọi là PTSD:
Sự phát triển hành vi tránh né hoặc chạy trốn khỏi nguy hiểm rõ ràng là để giúp cho mỗi sinh vật cạnh tranh về mặt sống còn. Nhưng hành vi tránh né hoặc trốn chạy cứ kéo dài một cách phi lý lại gây bất lợi cho động vật. Vì để duy trì giống nòi thành công thì cần có sinh sản, mà sinh sản lại liên quan đến giao phối, lo miếng ăn, chốn ở, những thứ đối nghịch với việc lẩn tránh chạy hoặc trốn.
Nói cách khác, nếu một sinh vật cứ mải lo chuyện sinh tồn thì nó sẽ dồn hầu hết năng lượng vào cuộc chiến chống lại kẻ thù giấu mặt và không còn lại chút năng lượng nào cho việc nuôi dưỡng, chăm sóc và yêu đương. Đối với con người, điều này có nghĩa là chừng nào tâm trí chúng ta còn mải lo tự vệ, chống lại các cuộc tấn Công vô hình, thì những mối quan hệ gần gũi nhất của chúng ta sẽ bị đe dọa, cũng như khả năng tưởng tượng, lập kế hoạch, vui chơi, học hỏi và quan tâm đến nhu cầu của người khác đều bị đe dọa.
Darwin cũng viết về các liên kết giữa cơ thể và não bộ mà chúng ta vẫn đang khám phá ngày nay. Cảm xúc mãnh liệt không chỉ liên quan đến tâm hồn mà còn cả ruột và tim: “Trái tim, ruột và não liên lạc chặt chẽ thông qua dây thần kinh phế vị, loại thần kinh quan trọng liên quan đến việc biểu hiện và quản lý cảm xúc ở cả người lẫn động vật. Khi tâm trí của ta mạnh mẽ, nó ngay lập tức ảnh hưởng đến trạng thái của nội tạng; để trong trường hợp phấn khích sẽ có nhiều hành động và phản ứng lẫn nhau giữa hai cơ quan này, vốn là hai cơ quan quan trọng nhất của cơ thể”.
Tôi đã rất phấn chấn khi lần đầu đọc đoạn viết trên. Khi rơi vào cùng cực đau khổ, ta cảm thấy tim như vỡ ra, ruột đau thắt. Chúng ta có thể kiểm soát được những cảm xúc diễn ra trong đầu, nhưng những cảm giác như tức vỡ ngực hoặc ruột bị ai đấm thật không thể chịu đựng nổi. Chúng ta sẽ làm bất cứ điều gì để thổi bay những cảm giác khủng khiếp này, từ bám víu lấy một ai đó trong vô vọng, dùng ma túy, uống rượu, lấy dao tự cắt da thịt mình nhằm thay thế những cảm xúc dữ dội bằng những cảm giác có thể gọi tên. Có bao nhiêu vấn đề sức khỏe tinh thần, từ nghiện ma túy đến hành vi tự gây thương tích cho bản thân đều bắt nguồn từ việc đối phó với những cảm xúc đau đớn thể chất không thể chịu đựng nổi?
Những phản ứng trao đổi qua lại giữa cơ thể và trí não đã thay đổi sự hiểu biết của chúng ta về sang chấn và hồi phục.
⚝ ✽ ⚝
CÁNH CỬA SỔ DẪN TỚI HỆ THẦN KINHTất cả các dấu hiệu nhỏ chúng ta tự nhiên ghi nhận trong một cuộc trò chuyện – chuyển động và sự căng cơ mặt của người kia, các cử động mắt và đồng tử giãn nở, cao độ và tốc độ của giọng nói cũng như sự biến động bên trong chúng ta – tiết nước bọt, nuốt, thở và nhịp tim – đều liên kết với một hệ điều hòa duy nhất. Tất cả đều là những sản phẩm từ sự đồng bộ giữa hai nhánh của hệ thần kinh tự chủ (autonomic nervous system – ANS): hệ giao cảm (sympathetic) - hoạt động như bộ phận tăng tốc của cơ thể – và hệ đối giao cảm (parasympathetic), hoạt động như phanh hãm. Đây là những “sự tương hỗ” mà Darwin đã đề cập, và cùng nhau làm việc, chúng đóng một vai trò quan trọng trong quản lý dòng chảy năng lượng của cơ thể, một là chuẩn bị cho việc sử dụng, một là cho sự bảo tồn của nó.
Hệ thống thần kinh giao cảm (sympathetic nervous system SNS) có trách nhiệm kích thích, kể cả phản ứng chiến đấu hay chạy trốn (Darwin gọi là “hành vi chạy trốn hoặc lẩn tránh”). Gần 2.000 năm trước, vị bác sĩ người Roma tên Galen đã gán cho nó cái tên “giao cảm” bởi vì ông ta quan sát thấy nó hoạt động với cảm xúc (sym pathos). SNS bơm máu đến các cơ để hành động nhanh, một phần bằng cách kích hoạt các tuyến thượng thận tiết ra adrenaline, làm tăng nhịp tim và huyết áp.
Nhánh thứ hai của ANS là hệ thần kinh đối giao cảm (“chống lại cảm xúc”, parasympathetic nervous system - PNS, còn gọi là hệ thần kinh phó giao cảm), nó kích thích chức năng tự bảo tồn như tiêu hóa và làm lành vết thương. Nó kích hoạt quá trình phóng thích acetylcholine để kìm hãm việc nhớ lại, hạ nhịp tim, thư giãn cơ và hít thở bình thường. Như Darwin đã nói “ăn, ở và các hoạt động giao phối” phụ thuộc vào PNS.
Có một cách đơn giản để bạn tự trải nghiệm hai hệ thống này: Bất cứ khi nào bạn hít một hơi thật sâu, tức là bạn đã kích hoạt SNS. Adrenaline được phóng thích làm tăng nhịp tim của bạn, điều này giải thích tại sao nhiều vận động viên hít thở nhanh và sâu trước khi bắt đầu cuộc thi. Ngược lại, thở ra sẽ kích hoạt PNS, làm nhịp tim chậm lại. Khi bạn tập yoga hoặc thiền, các giáo viên thường khuyên bạn chú ý đến hơi thở, tập cách hít thở sâu, dài, điều này sẽ giúp bạn bình tĩnh. Khi chúng ta hít thở, chúng ta liên tục làm tăng và giảm nhịp tim, và do đó, khoảng giữa hai nhịp tim liên tiếp không bao giờ giống nhau chính xác. Phương pháp đo biến thiên nhịp tim (heart rate variability - HRV) có thể dùng để kiểm tra sự linh hoạt của hệ thống này, và HRV tốt – sự biến động càng nhiều càng tốt – là một dấu hiệu cho thấy phần phanh hãm và phần gia tốc trong hệ thống kích thích của bạn hoạt động bình thường và cân bằng. Chúng tôi đã có một bước đột phá khi mua dụng cụ để đo HRV. Tôi sẽ giải thích trong chương 16 cách dùng HRV trong điều trị PTSD.
⚝ ✽ ⚝
MẬT MÃ TÌNH YÊU CỦA HỆ THẦN KINHNăm 1994, Stephen Porges - nhà nghiên cứu tại Đại học Maryland – đã giới thiệu Lý thuyết Polyvagal, dựa trên sự kết hợp giữa các quan sát của Darwin và 140 năm khám phá khoa học khác (Polyvagal đề cập đến nhiều nhánh của dây thần kinh vagus – “dây thần kinh phế vị” của Darwin – kết nối nhiều cơ quan, bao gồm não, phổi, tim, dạ dày và ruột).
Lý thuyết Polyvagal cung cấp cho chúng ta một sự hiểu biết tinh vị hơn về mặt sinh học của an toàn và nguy hiểm, dựa trên sự tương tác tinh tế giữa những trải nghiệm nội tạng của cơ thể chúng ta với giọng nói và khuôn mặt của những người xung quanh chúng ta. Nó giải thích tại sao một khuôn mặt hiền hậu, một giọng nói nhẹ nhàng có thể làm thay đổi đáng kể cảm nhận của chúng ta. Nó cũng làm rõ lý do tại sao ta cảm thấy an toàn, vững tâm khi biết rằng những người quan trọng trong đời ta đang lắng nghe ta, nhìn thấy ta, tại sao ta cảm thấy suy sụp, phản ứng dữ dội khi cảm thấy mình bị phớt lờ, xem nhẹ. Lý thuyết này cũng giúp ta hiểu tại sao tập trung vào việc hòa hợp, gắn kết với một người khác có thể giúp ta thoát khỏi những trạng thái rối loạn, thiếu kiểm soát và sợ hãiº.
Nói tóm lại, lý thuyết của Porges làm cho chúng ta nhìn xa hơn những ảnh hưởng của phản xạ chiến đấu hay chạy trốn, và đưa mối quan hệ xã hội lên vị trí hàng đầu và trung tâm trong sự hiểu biết của chúng ta về sang chấn. Lý thuyết này cũng đề xuất cách tiếp cận mới trong chữa trị sang chấn: tập trung tăng cường hệ thống của cơ thể để điều hòa các kích thích.
Loài người thích ứng đến mức kinh ngạc với những chuyển đổi cảm xúc tinh tế của những người và động vật) xung quanh họ. Những thay đổi nhẹ trong cái nhíu mày, nếp nhăn xung quanh mắt, độ cong của môi và góc xoay cổ của người khác giúp ta lập tức biết người đó đang cảm giác thoải mái, nghi ngờ, thư giãn hoặc sợ hãi”. Các tế bào thần kinh gương của chúng ta ghi nhận kinh nghiệm bên trong, và cơ thể của chúng ta thực hiện điều chỉnh nội tại đối với bất cứ điều gì chúng ta nhận thấy. Như vậy, Cơ mặt chúng ta sẽ giúp người khác biết ta đang bình tĩnh hay đang kích động, tim ta đang đập như trong trận hay đang đập đều đều, ta sẵn sàng tấn công hay sắp sửa bỏ chạy. Khi thông điệp chúng ta nhận được từ người khác là “Bạn an toàn khi ở với tôi”, chúng ta sẽ thư giãn. Nếu chúng ta may mắn có những mối quan hệ tốt đẹp, khi chúng ta nhìn vào khuôn mặt và đôi mắt của người ta yêu thương, ta sẽ cảm thấy mình được chăm sóc, hỗ trợ và ta sẽ phục hồi lại.
Văn hóa của chúng ta dạy chúng ta tập trung vào tính độc đáo cá nhân, nhưng ở một mức độ sâu hơn, chúng ta hầu như không tồn tại như các cá thể độc lập. Não bộ được xây dựng để giúp chúng ta hoạt động như thể là thành viên của một bộ lạc. Chúng ta là một phần của bộ lạc đó ngay cả khi chúng ta đang ở một mình, dù đang nghe nhạc (do những người khác sáng tác và trình diễn), xem một trò chơi bóng rổ trên truyền hình (cơ bắp của chúng ta căng thẳng khi thấy các vận động viên chạy nhảy) hoặc chuẩn bị bảng tính cho một cuộc họp kinh doanh (ta dự đoán những phản ứng của sếp). Ta dành hầu hết năng lượng của mình để kết nối với những người khác.
Nếu xem xét danh sách các triệu chứng cụ thể dẫn đến chẩn đoán tâm thần chính quy, chúng ta sẽ thấy hầu hết những ảnh hưởng về tinh thần đều liên quan đến việc gặp trục trặc khi xây dựng các mối quan hệ có hiệu quả và không được thỏa mãn hoặc gặp khó khăn trong việc làm chủ bản thân trước những kích thích (ví dụ: thường nổi giận, thu mình, quá kích động hoặc vô tổ chức). Thông thường, nó là sự kết hợp của cả hai yếu tố này. Việc cứ cố tìm ra một loại thuốc thích hợp để điều trị một “rối loạn” cụ thể sẽ chỉ khiến ta ít chú ý đến việc những sang chấn của con người gây trở ngại thế nào đến chức năng của họ với tư cách là một thành viên của xã hội.
⚝ ✽ ⚝
AN TOÀN VÀ TƯƠNG HỖCách đây vài năm, tôi nghe Jerome Kagan - Giáo sư ngành tâm lý trẻ em tại Đại học Harvard - nói với Đức Đạt Lai Lạt Ma rằng ứng với mỗi hành động tàn ác trên thế giới này là hàng trăm hành động nho nhỏ của tử tế và kết nối. Ông kết luận: “Trở nên từ bi chứ không phải trở nên độc ác có lẽ là một bản chất thực sự của loài người”.
Có lẽ việc cảm thấy an toàn với người khác chính là điều quan trọng nhất cho sức khỏe tinh thần của chúng ta. Những mối liên hệ an toàn là nền tảng để ta có được một cuộc sống ý nghĩa và hài lòng. Rất nhiều nghiên cứu về phản ứng của con người trước thiên tai trên khắp thế giới đã cho thấy sự hỗ trợ xã hội là lớp bảo vệ mạnh mẽ nhất giúp chúng ta chống lại những căng thẳng và sang chấn.
Hỗ trợ xã hội không giống với chuyện có người khác hiện diện bên cạnh ta. Vấn đề quan trọng ở đây là sự tương hỗ: Thực sự được những người xung quanh lắng nghe ta và nhìn thấy ta, cảm thấy rằng ta được hiện diện trong tâm trí và trái tim người khác. Để cơ thể của chúng ta bình tĩnh, chữa lành và phát triển, chúng ta cần một cảm nhận bên trong về sự an toàn. Không bác sĩ nào có thể kê đơn cho loại thuốc mang tên “tình bạn và tình yêu”. Đây là những năng lực phức tạp và khó kiếm. Bạn không cần phải từng bị sang chấn mới cảm thấy được sự tự ý thức, và thậm chí là thấy hoảng hốt khi tham gia một bữa tiệc đầy người lạ mặt, nhưng sang chấn có thể khiến bạn thấy thế giới xung quanh như thể toàn người ngoài hành tinh.
Nhiều người bị sang chấn thường thấy mình không kết nối được với những người xung quanh. Một số người cảm thấy thoải mái khi trong các nhóm người cùng cảnh ngộ, tức nơi họ có thể tái hiện lại trải nghiệm chiến đấu trong chiến tranh, bị hãm hiếp hoặc bị tra tấn. Khi ở trong những nhóm nạn nhân cùng hoàn cảnh, họ thấy mình bớt bị cô lập, nhưng cái giá phải trả thường là sự phủ nhận những khác biệt cá nhân của họ: Các thành viên chỉ có thể tham gia nhóm khi họ tuân theo quy tắc chung.
Tự cô lập mình vào một nhóm nạn nhân xác định sẽ khiến họ thấy an toàn chỉ khi ở trong nhóm và thấy nguy hiểm khi tiếp xúc những người bên ngoài, cuối cùng càng khiến họ thêm xa lánh người khác. Các băng đảng, các nhóm chính trị cực đoan và các giáo phái có thể đem đến sự an ủi, nhưng hiếm khi thúc đẩy sự linh hoạt tinh thần cần thiết để con người mở mang hoàn toàn bản thân trước cuộc sống và vì thế không thể giải phóng các thành viên của nhóm khỏi những sang chấn của họ. Những người hoạt động tốt có thể chấp nhận những khác biệt cá nhân và thừa nhận nhân tính của người khác.
Trong hai thập niên vừa qua, người ta đã nhận ra rằng sự liên kết với các loài động vật có vú như chó, ngựa, cá heo có thể giúp con người cảm thấy an toàn, nhất là những người có tâm trạng thất thường, hay lo lắng, sợ hãi, ngại ngần kết nối với con người. Chó và ngựa hiện đang được sử dụng rộng rãi để điều trị một số nhóm bệnh nhân sang chấn 10.
⚝ ✽ ⚝
BA MỨC ĐỘ AN TOÀNSau sang chấn, người ta trải nghiệm thế giới với một hệ thần kinh khác, có sự thay đổi trong nhận thức về an toàn và nguy hiểm. Porges đặt ra từ “nhận thức thần kinh” (neuroception) để mô tả khả năng đánh giá mức độ nguy hiểm và an toàn tương đối trong môi trường của một người. Khi chúng ta cố gắng giúp những người bị lỗi về nhận thức thần kinh, thách thức lớn nhất là tìm ra cách thiết lập lại các quá trình sinh lý của họ, để cơ chế sinh tồn của họ ngừng hoạt động theo cách chống lại họ. Điều này nghĩa là giúp họ phản ứng một cách hợp lý đối với nguy hiểm, phục hồi khả năng trải nghiệm sự an toàn, thư giãn và sự tương hỗ thực sự.
Tôi đã trò chuyện và chữa trị chuyên sâu cho 6 người sống sót sau những vụ tai nạn máy bay. Có hai người thuật lại rằng họ đã mất ý thức trong quá trình xảy ra vụ việc, dù không bị tổn thương về thể xác nhưng họ đã suy sụp tinh thần. Có hai người hoảng loạn và cuống cuồng cho đến khi chúng tôi bắt đầu điều trị. Còn lại hai người vẫn bình tĩnh và xoay xở giúp di tản các hành khách khỏi đống đổ nát. Tôi nhận thấy một loạt các phản ứng tương tự ở những người sống sót sau những vụ hãm hiếp, tai nạn xe hơi và bị tra tấn. Ở chương trước, chúng ta đã thấy phản ứng khác nhau của Stan và Ute khi họ trải qua cùng một ký ức kinh hoàng của vụ tai nạn xe hơi. Điều gì lý giải cho những phản ứng khác nhau này: tập trung, suy sụp hoặc cuống cuồng?
Lý thuyết của Porges đưa ra một lời giải thích: Hệ thần kinh tự chủ điều chỉnh ba trạng thái sinh lý cơ bản. Mức độ an toàn xác định trạng thái sinh lý nào cần được kích hoạt trong một thời điểm nhất định. Bất cứ khi nào chúng ta cảm thấy bị đe dọa, theo bản năng, chúng ta chuyển sang mức độ đầu tiên: tương trợ xã hội (social engagement). Chúng ta kêu gọi sự giúp đỡ, hỗ trợ và an ủi từ những người xung quanh. Nhưng nếu không có ai giúp đỡ, hoặc chúng ta đang gặp nguy hiểm trước mắt, cơ thể sẽ quay lại một cách nguyên thủy để sống sót: chiến đấu hoặc chạy trốn. Chúng ta chiến đấu chống lại kẻ tấn công, hoặc chạy đến một nơi an toàn. Tuy nhiên, nếu điều này không thành công - nghĩa là chúng ta không thể thoát khỏi, chúng ta sẽ bị giữ lại hoặc bị mắc kẹt – cơ thể cố gắng tự bảo vệ mình bằng cách “tắt máy” và tiêu hao càng ít năng lượng càng tốt. Sau đó, chúng ta rơi vào trạng thái đóng băng hoặc suy sụp.
Đây là lúc hệ thần kinh phế vị nhiều nhánh hoạt động, và tôi sẽ mô tả khái quát cấu trúc giải phẫu của nó vì nó là trung tâm để hiểu cách thức mọi người đối phó với sang chấn. Hệ thống tương trợ xã hội phụ thuộc vào các hệ thần kinh bắt nguồn từ các trung tâm điều hòa thân não, chủ yếu là thần kinh phế vị - còn gọi là dây thần kinh số mười – cùng với các dây thần kinh liền kề kích hoạt các cơ trên mặt, cổ họng, tai giữa và thanh quản.
Khi “phức hợp bụng phế vị” (ventral vagal complex - VVC) nắm quyền điều hành, ta mỉm cười khi người khác mỉm cười với ta, ta gật đầu khi đồng ý, ta cau mày khi nghe bạn bè kể về những bất hạnh của họ. Khi VVC hoạt động, nó cũng gửi tín hiệu xuống tim và phổi, làm chậm nhịp tim và tăng độ sâu của hơi thở. Kết quả là ta cảm thấy bình tĩnh, thư giãn, được quan tâm hoặc hưng phấn vui vẻ.
Bất kỳ mối đe dọa nào tới sự an toàn hoặc các mối quan hệ xã hội của chúng ta đều kích hoạt những thay đổi trong các khu vực được điều khiển bởi VVC. Khi một điều gì đó đáng buồn xảy ra, chúng ta tự động biểu hiện nỗi phiền muộn của mình bằng những biểu cảm trên gương mặt và giọng nói. Những thay đổi này có ý nghĩa kêu gọi sự trợ giúp từ những người khác... Tuy nhiên, nếu không ai hồi âm lời yêu cầu giúp đỡ của chúng ta, mối đe dọa sẽ gia tăng, vùng não limbic nguyên thủy sẽ nhảy vào. Hệ thống thần kinh giao cảm nắm quyền điều khiển, huy động các cơ, tim và phổi để chiến đấu hoặc chạy trốn"?. Giọng nói của ta trở nên gấp gáp và cao hơn, tim ta đập nhanh hơn. Nếu lúc đó trong phòng có một con chó thì nó sẽ bị kích động, bắt đầu gầm gừ vì nó có thể ngửi thấy mùi mồ hôi của ta.
Cuối cùng, nếu không có cách nào khác, chúng ta sẽ kích hoạt hệ thống khẩn cấp cuối cùng: phức hợp lưng phế vị (dorsal vagal complex - DVC). Hệ thống này nối từ dưới cơ hoành xuống dạ dày, thận và ruột và làm giảm đáng kể quá trình trao đổi chất trong cơ thể. Nhịp tim giảm (chúng ta cảm thấy muốn “đứng tim”), chúng ta không thể thở, và ruột của chúng ta ngừng hoạt động hoặc trống rỗng (ta thấy “sợ chết khiếp”). Đây là lúc chúng ta sụp đổ hoặc đóng băng.
⚝ ✽ ⚝
CHIẾN ĐẤU HOẶC CHẠY TRỐN VỚI SỤP ĐỔNhư chúng ta đã thấy trong kết quả quét não của vợ chồng Stan và Ute, biểu hiện sang chấn không chỉ là chiến đấu hoặc chạy trốn mà còn là tắt nguồn và không gắn kết được vào hiện tại. Não có mức độ hoạt động khác nhau liên quan đến từng cách phản ứng: Hệ thống chiến đấu hay chạy trốn của động vật có vú có khả năng bảo vệ và ngăn không cho chúng ta bị tắt nguồn, và bộ não bò sát tạo ra phản ứng sụp đổ. Bạn có thể thấy sự khác biệt giữa hai hệ thống này tại cửa hàng thú nuôi. Mèo con, cún con và chuột nhảy liên tục chơi đùa. Khi mệt, chúng cuộn vào nhau, cọ da vào nhau, nằm chồng lên nhau. Ngược lại, rắn và thằn lằn nằm bất động ở các góc lồng, không phản ứng với môi trường. Bộ não bò sát tạo ra sự bất động này, đây cũng là phản ứng đặc trưng ở nhiều người bị sang chấn kinh niên.
Điều này ngược lại với sự hoảng loạn và các cơn thịnh nộ của động vật có vú, nó khiến những người sống sót sau sang chấn vừa mới xảy ra cảm thấy rất sợ hãi và kích động.
Nguy hiểm sẽ tắt hệ thống tương trợ xã hội của chúng ta, làm giảm phản ứng của chúng ta trước tiếng nói của con người và làm tăng độ nhạy cảm đối với những âm thanh đe dọa. Khi gặp nguy hiểm, nhiều người thường hoảng loạn, thịnh nộ hơn là tắt ngấm não bộ và trở nên vô cảm với cuộc sống xung quanh. Kích hoạt phản ứng chiến đấu/chạy trốn ít ra khiến con người cảm thấy có sinh lực. Đó là lý do tại sao nhiều người bị lạm dụng và sang chấn cảm thấy mình còn tồn tại khi đối mặt với nguy hiểm thực sự, nhưng họ lại tê liệt trong các tình huống phức tạp hơn nhưng hoàn toàn an toàn, ví dụ như dự tiệc sinh nhật hoặc ăn tối cùng gia đình.
Khi chiến đấu hoặc bỏ chạy không giải quyết được mối đe dọa, chúng ta sẽ kích hoạt chế độ cuối cùng - bộ não bò sát – hệ thống khẩn cấp cuối cùng. Hệ thống này có nhiều khả năng tham gia vào khi chúng ta bị bất động về thể chất, như bị kẻ tấn công giữ chặt lại hoặc một đứa trẻ không thể thoát khỏi người chăm sóc đáng sợ. Sự sụp đổ và đầu hàng được kiểm soát bởi DVC, một phần cổ xưa đã tiến hóa của hệ thần kinh đối giao cảm, có liên quan đến các triệu chứng tiêu hóa như tiêu chảy và buồn nôn. Nó cũng làm hạ nhịp tim, hơi thở nông. Một khi hệ thống này chiếm lĩnh, những người khác, và chính bản thân chúng ta, sẽ chẳng còn ý nghĩa gì nữa. Nhận thức không hoạt động và chúng ta thậm chí không còn tiếp nhận được cảm giác đau đớn về thể xác nữa.
ĐIỀU GÌ KHIẾN CHÚNG TA LÀ CON NGƯỜI?
Trong lý thuyết vĩ đại của Porges, VVC phát triển ở động vật có vú để hỗ trợ cuộc sống xã hội ngày càng phức tạp. Tất cả các loài động vật có vú, bao gồm cả loài người, cùng nhau kết bạn, nuôi dưỡng con trẻ, bảo vệ nhau khỏi những kẻ thù chung và phối hợp trong việc săn bắt, tìm kiếm thức ăn. VVC đồng bộ hoạt động của hệ thống thần kinh giao cảm và đối giao cảm càng hiệu quả, sinh lý học của mỗi cá thể sẽ tương thích với các thành viên khác trong bộ lạc càng tốt.
Suy nghĩ về VVC theo cách này sẽ làm sáng tỏ cách thức cha mẹ tự nhiên giúp con mình tự điều chỉnh. Những đứa trẻ sơ sinh không có tính xã hội, chúng dành hầu hết thời gian để ngủ, thức giấc khi đói hay tã bị ướt. Sau khi ăn no, trẻ có thể dành ít thời gian nhìn ngó xung quanh, quấy rầy người lớn một chút hoặc nhìn chằm chằm, sau đó lại ngủ, tuân theo nhịp điệu nội tại của chúng. Ngay từ những năm tháng đầu đời, trẻ chịu sự quản lý luân phiên của những luồng hệ thống thần kinh giao cảm và đối giao cảm và phần lớn do bộ não bò sát của chúng chịu trách nhiệm.
Nhưng ngày qua ngày, khi chúng ta âu yếm, mỉm cười và tạo ra những tiếng động thân thương với trẻ, tức là chúng ta kích thích gia tăng sự đồng bộ trong quá trình phát triển VVC. Những tương tác này giúp đưa các hệ thống kích thích tình cảm của trẻ sơ sinh đồng bộ với môi trường xung quanh. VVC kiểm soát việc mút, nuốt, biểu hiện trên khuôn mặt, và tạo âm thanh từ thanh quản. Khi các chức năng này ở trẻ sơ sinh được kích thích, chúng kèm theo cảm giác vui vẻ và an toàn, giúp tạo nền tảng cho tất cả các hành vi xã hội trong tương lai. Ed Tronick – một người bạn của tôi – đã dạy tôi rằng não là một cơ quan văn hóa, được hình thành từ những trải nghiệm.
Ta sẽ luôn được tưởng thưởng khi hòa hợp với những thành viên khác trong xã hội. Ngày bé thơ, ta chơi đùa với mẹ, lớn lên thì ta chơi bóng rổ với bạn bè, nhảy tango, tham gia dàn hợp xướng, chơi một khúc nhạc jazz hay nhạc thính phòng - tất cả những hoạt động này đều giúp ta cảm thấy vui vẻ và kết nối với người xung quanh.
Chúng ta có thể nói về sang chấn khi hệ thống đó thất bại: Bạn tha thiết van xin được tha mạng, nhưng kẻ tấn công phớt lờ; khi còn bé, bạn sợ hãi nằm trên giường nghe tiếng mẹ mình hét lên vì bị bạn trai đánh đập, bạn run rẩy khi thấy người bạn bị một tấm kim loại nặng đè lên mà bạn không đủ sức nhấc nó lên để cứu bạn mình. Bất động là nguồn gốc của phần lớn sang chấn. Tim đập chậm, hơi thở nông, bạn như mất kết nối với cơ thể và môi trường xung quanh. Bạn phân ly, kiệt sức và ngất xỉu.
TỰ VỆ HAY THƯ GIÃN?
Steve Porges đã giúp tôi nhận ra trạng thái tự nhiên của động vật có vú thường có phần mang tính tự vệ. Tuy nhiên, để cảm thấy gần gũi với người khác về mặt tình cảm, hệ thống phòng thủ của chúng ta phải tạm thời ngưng hoạt động. Để ta có thể chơi đùa, giao phối và nuôi dưỡng con nhỏ, não cần tắt chế độ cảnh giác tự nhiên của nó.
Có nhiều người bị sang chấn trở nên cảnh giác quá mức để có thể tận hưởng niềm vui bình thường mà cuộc sống mang lại. Cũng có những bệnh nhân quá tê liệt nên không thể tiếp nhận những trải nghiệm mới hoặc không còn biết cảnh giác với những dấu hiệu nguy hiểm thực sự. Khi hệ thống báo động của não bị hỏng, người ta không còn bỏ chạy khi cần phải thoát thân, không còn chống cự khi cần phải tự vệ.
Nghiên cứu bước ngoặt về Những trải nghiệm bất lợi thời thơ ấu (Adverse Childhood Experiences – ACE) mà tôi sẽ thảo luận chi tiết hơn trong chương 9 cho thấy những phụ nữ có tiền sử bị lạm dụng và bỏ mặc thường có nguy cơ bị cưỡng hiếp ở tuổi trưởng thành cao gấp 7 lần. Những phụ nữ khi còn nhỏ đã chứng kiến cảnh mẹ của mình bị người tình tấn công thì họ có khả năng sẽ là nạn nhân của bạo lực gia đình cao hơn rất nhiều.
Nhiều người cảm thấy an toàn khi chỉ giao tiếp với người khác bằng lời nói, nhưng khi bị đụng chạm cơ thể, họ sẽ phản ứng dữ dội. Tuy nhiên, như Porges đã chỉ ra, muốn có được sự thân mật nào đó, ví dụ một cái ôm thật chặt, ngủ với người yêu, có những đòi hỏi tình dục, thì con người phải cho phép bản thân mình cảm thấy bất động mà không sợ hãi. Điều này đặc biệt khó khăn đối với những người bị sang chấn khi phải phân biệt lúc nào thì họ thực sự an toàn, lúc nào thì họ đang gặp nguy hiểm để có thể kích hoạt hệ thống phòng thủ đúng lúc. Điều này đòi hỏi họ phải có những trải nghiệm có thể giúp họ khôi phục lại cảm giác an toàn về thể chất.
⚝ ✽ ⚝
NHỮNG HƯỚNG TIẾP CẬN CHỮA BỆNH KHÁCNếu chúng ta hiểu rằng khi trẻ em và người lớn gặp sang chấn, họ bị kẹt lại trong phản ứng chiến đấu/chạy trốn hoặc rơi vào tình trạng tê liệt, vậy làm sao chúng ta có thể giúp họ tắt những cơ chế phòng thủ từng giúp họ sống sót ấy?
Một số người có năng khiếu làm việc với những người sống sót sau sang chấn biết cách làm điều này. Steve Gross từng tổ chức chương trình vui chơi tại Trung tâm Điều trị Sang chấn (Trauma Center). Anh thường cầm một quả bóng nhiều màu sắc rồi đi dạo quanh phòng khám. Khi nhìn thấy những đứa trẻ đang tức giận hoặc ngồi vô hồn trong phòng chờ đợi, anh sẽ cười thật tươi với chúng, những đứa trẻ hiếm khi đáp lại tín hiệu thân thiện này. Không lâu sau, anh quay lại, giả vờ vô tình đánh rơi quả bóng về phía một đứa trẻ đang ngồi. Khi Steve cúi xuống nhặt bóng, anh sẽ đồng thời chạm khẽ vào đứa trẻ ấy, trẻ thường đẩy anh ra một cách nửa vời. Dần dần, Steve và đứa trẻ ấy tương tác qua lại. Lát sau, cả hai đã vui cười với nhau.
Bằng những động tác đơn giản, nhịp nhàng như vậy, Steve đã tạo ra một nơi chốn an toàn, nhỏ bé để hệ thống gắn kết xã hội có thể lại xuất hiện. Tương tự, những người bị sang chấn trầm trọng có thể cảm thấy khá hơn khi họ giúp sắp xếp ghế ngồi của một buổi họp hoặc cùng mọi người gõ lên ghế một điệu nhạc thay vì chỉ ngồi yên và thảo luận về những thất bại trong cuộc đời của họ.
Khi ta la hét với một người đang mất kiểm soát, ta chỉ khiến họ thêm rối loạn. Cũng giống như khi bạn quát tháo, chú chó của bạn sẽ co rúm lại, còn khi bạn nói bằng một giọng nói vui tươi, chú chó sẽ vẫy đuôi mừng rỡ. Tương tự, con người chúng ta sẽ phản ứng lại với giọng nói dữ dội bằng sự sợ hãi, giận dữ, hoặc im lặng, còn khi nghe những âm thanh vui tươi, ta cảm thấy muốn mở lòng, thư giãn. Chúng ta luôn phản ứng trước những dấu hiệu an toàn hoặc cảnh báo nguy hiểm.
Đáng buồn thay, hệ thống giáo dục của chúng ta, cũng như nhiều phương pháp được tuyên bố là điều trị được sang chấn, có xu hướng bỏ qua hệ thống gắn kết cảm xúc này và thay vào đó là tập trung vào năng lực nhận thức của tâm trí. Mặc dù có những ghi nhận về ảnh hưởng của cơn giận dữ, nỗi lo sợ và sự hồi hộp đối với khả năng lý trí, nhưng rất nhiều chương trình tiếp tục lờ đi nhu cầu liên quan đến hệ thống an toàn của não bộ trước khi cố gắng đưa ra những hướng suy nghĩ mới.
Trường học không nên lược bỏ những buổi hợp xướng, những buổi tập thể dục, giờ ra chơi, tóm lại là không nên cắt bỏ bất cứ thứ gì liên quan đến hoạt động vận động, vui chơi, thư giãn. Khi trẻ em tỏ ra chống đối, để phòng, bần thần, hoặc giận dữ, điều quan trọng là chúng ta phải nhận ra những “hành vi xấu” ấy của trẻ chính là lặp lại những mô hình hành vi giúp trẻ thoát khỏi những mối đe dọa, ngay cả khi chúng đang buồn bã hoặc khó chịu.
Công trình của Porges đã có ảnh hưởng sâu sắc đến cách thức mà tôi và những đồng nghiệp tại Trung tâm Điều trị Sang chấn điều trị cho các trẻ em bị lạm dụng và người lớn bị sang chấn. Chúng tôi đã xây dựng chương trình điều trị bằng yoga cho phụ nữ để giúp họ lấy lại bình tĩnh, kết nối lại với cơ thể. Chúng tôi cũng đã thử nghiệm tổ chức chương trình nhạc kịch tại các trường học ở thành phố Boston, một chương trình dạy karate cho người từng bị cưỡng hiếp (mô hình này đã và đang được áp dụng khắp thế giới).
Học thuyết Đa thần kinh phế vị (the polyvagal theory) đã giúp chúng ta hiểu và giải thích tại sao tất cả những kỹ thuật khác biệt, độc đáo lại hiệu quả như vậy. Nó cho phép chúng ta có ý thức hơn trong việc kết hợp cách tiếp cận từ trên xuống (để kích hoạt sự tương trợ xã hội) với cách tiếp cận từ dưới lên (để làm dịu các căng thẳng thể chất trong cơ thể). Chúng ta cởi mở hơn với giá trị của những hướng tiếp cận sức khỏe từ lâu đời, không dùng đến thuốc vốn đã và đang được sử dụng bên ngoài nền y học phương Tây, từ bài tập thở (pranayama), tụng kinh, đến các môn võ như khí công, hoặc đánh trống, múa hát tập thể. Tất cả đều dựa vào sự phối hợp nhịp nhàng giữa các cá nhân, nhận thức nội tại và giao tiếp bằng giọng nói và gương mặt, giúp đưa con người ra khỏi trạng thái chiến đấu/chạy trốn, sắp xếp lại nhận thức về nguy hiểm và tăng khả năng quản lý mối quan hệ.
Cơ thể khắc sâu mọi thứ.7: Nếu ký ức về sang chấn được mã hóa trong cơ quan nội tạng, trong cảm xúc đau lòng và quặn thắt ruột gan, trong tình trạng rối loạn tự miễn và các vấn đề về xương khớp cơ bắp, và nếu mối liên hệ tâm trí/não bộ/nội tạng chính là con đường dẫn để điều chỉnh cảm xúc thì chúng ta cần thay đổi những giả định điều trị cho bệnh nhân.