Chương 6 MẤT KIỂM SOÁT CƠ THỂ, MẤT KIỂM SOÁT BẢN THÂN
Hãy nhẫn nại với những mắc mưu của con tim và cố yêu thương lấy những mối nghi ngờ... Hãy cứ sống cùng những hoài nghi. Và ngày nào đó, câu trả lời sẽ lớn dần trong ta.
Rainer Maria Rilke, Letters to a Young Poet (Thư gởi nhà thơ trẻ)
Sherry bước vào văn phòng của tôi, mặt cúi gằm, vai rũ xuống. Ngôn ngữ cơ thể của cô cho thấy cô như muốn quay lưng lại với cả thế giới. Cô mặc áo tay dài nhưng vẫn không che hết được những vết thương trên cánh tay. Sau khi ngồi xuống, cô nói với tôi bằng giọng cao, bức bối, rằng cô ấy không thể ngăn mình tự lấy tay ngắt nhéo, cào cấu vùng da cánh tay và ngực cho đến khi chảy máu.
Trong những ký ức xa xôi nhất mà Sherry còn nhớ, mẹ cô là người điều hành một nhà nuôi dưỡng. Ngôi nhà của họ thường chứa tới 15 đứa trẻ kỳ lạ, phá phách, sợ hãi và đáng sợ. Những đứa trẻ này đến rồi đi đểu đột ngột. Từ bé, Sherry đã phải chăm sóc những đứa trẻ “vãng lai” này. Sherry cảm thấy dường như ngôi nhà này không có chỗ cho mình, không ai quan tâm đến những nhu cầu của cô. Cô nói: “Tôi biết chẳng ai cần tôi ở nơi này. Tôi không nhớ lần đầu tiên mình nhận ra điều đó là khi nào, nhưng tôi đã nghĩ về những điều mẹ nói với tôi, và tôi luôn thấy những dấu hiệu cho thấy chẳng ai cần tôi. Mẹ thường nói với tôi rằng: “Con biết không, mẹ không nghĩ con thuộc về gia đình này. Mẹ nghĩ là bệnh viện giao nhầm con cho mẹ mất rồi. Mẹ vừa cười vừa nói. Tất nhiên, mọi người thường giả vờ đùa khi họ nói điều gì đó nghiêm trọng”.
Qua nhiều năm, nhóm nghiên cứu của chúng tôi đã nhiều lần phát hiện ra việc lạm dụng cảm xúc lâu dài và bỏ bê cũng có thể tàn phá con người y như lạm dụng thể chất và quấy rối tình dục'. Sherry hóa ra là một minh chứng sống của những phát hiện này: không được nhìn thấy, không được biết đến, không có nơi nào cảm thấy an toàn. Đây là những điều vô cùng nguy hại đối với mọi lứa tuổi, đặc biệt là với trẻ em – những người đang cố gắng để tìm vị trí của mình trên thế giới.
Sherry đã tốt nghiệp đại học. Nhưng hiện giờ, cô làm một công việc văn phòng nhạt nhẽo, sống một mình với những con mèo, không có người bạn thân nào. Khi tôi hỏi về quan hệ nam nữ, cô nói rằng “mối quan hệ duy nhất” của cô là với một người đàn ông đã bắt cóc cô khi cô đang trong kỳ nghỉ lúc học đại học ở Florida. Hắn đã giam giữ và cưỡng hiếp cổ liên tục trong năm ngày. Cô nhớ mình đã cuộn tròn lại, sợ hãi và đông cứng trong phần lớn quãng thời gian đó, cho đến khi nhận ra mình có thể cố gắng thoát thân. Cô trốn thoát bằng cách rất đơn giản: chạy ra khỏi phòng khi hắn đang trong nhà vệ sinh. Cô gọi điện thoại cầu cứu mẹ nhưng bà không nghe máy. Cuối cùng, Sherry cũng có thể về đến nhà nhờ sự giúp đỡ của một hội cưu mang người bị bạo hành gia đình.
Sherry nói cô bắt đầu tự ngắt nhéo da mình để không cảm thấy bị tê liệt. Nhưng cô đồng thời cảm thấy xấu hổ vì biết mình đã nghiện chứng tự ngắt nhéo mà không cách nào dừng lại được. Cô ấy đã hỏi ý kiến nhiều chuyên gia sức khỏe tâm thần, từng bị hỏi nhiều lần về “hành vi tự tử”, còn bị một chuyên gia tâm thần từ chối chữa trị và bắt buộc cô nhập viện. Song, theo kinh nghiệm của tôi, những bệnh nhân tự cắt hay ngắt da như Sherry hiếm khi tự tử, họ chỉ đang cố gắng làm cho mình cảm thấy tốt hơn bằng cách duy nhất họ biết, tức là tự cắt, tự nhéo mình.
Đây là một khái niệm khó hiểu đối với nhiều người. Như tôi đã thảo luận ở chương trước, phản ứng phổ biến nhất khi ta đang đau khổ chính là tìm đến những người ta thích và tin cậy để những người này giúp đỡ và cho ta dũng khí để tiếp tục tiến lên. Chúng ta cũng có thể bình tĩnh lại bằng cách tham gia vào hoạt động thể dục thể thao như chạy xe đạp hoặc tập thể dục. Chúng ta bắt đầu học những cách này để điều khiển cảm xúc của mình ngay từ giây phút đầu tiên ai đó cho chúng ta ăn khi đói, che chắn cho ta khi lạnh, hoặc đong đưa ta trong vòng tay khi chúng ta bị tổn thương hoặc sợ hãi.
Nhưng nếu không có ai dành cho bạn ánh mắt yêu thương, không ai nở nụ cười khi nhìn thấy bạn, không ai vội vã đến giúp bạn, thay vào đó họ chỉ nói: “Nín ngay, nếu không tao sẽ cho mày lý do thực sự để khóc bây giờ!”, thì sau đó bạn cần phải tìm ra những cách khác để chăm sóc bản thân. Bạn có xu hướng thử mọi cách để khiến mình thấy đỡ hơn phần nào, từ xài ma túy, uống rượu bia, ăn không ngừng, hay tự cắt người mình.
Dù Sherry chăm chỉ tham gia tất cả các buổi gặp mặt và vô cùng thành thật trả lời tất cả câu hỏi của tôi, tôi vẫn cảm thấy chúng tôi chưa có một sự gắn kết cần thiết cho việc điều trị. Ngạc nhiên trước việc cô ấy đông cứng lại và thường xuyên bực dọc, tôi khuyên cô ấy đến gặp Liz – một nhà trị liệu xoa bóp tôi từng làm việc cùng.
Trong buổi gặp đầu tiên với Liz, Sherry được mời nằm lên bàn massage, Liz đi đến cuối bàn và nhẹ nhàng giữ chân Sherry. Nằm ở đó với đôi mắt nhắm lại, Sherry bất ngờ hét lên trong hoảng loạn: “Cô đâu rồi?”. Sherry cảm thấy Liz đã đi mất dù Liz đang ở ngay đó và đang đặt tay lên đôi chân của cô.
Sherry là một trong những bệnh nhân đầu tiên cho tôi thấy sự tách ly khỏi cơ thể trầm trọng mà nhiều người có tiền sử bị sang chấn và bị bỏ rơi thường trải qua. Tôi nhận thấy những chuyên môn tôi được đào tạo đã bỏ qua tầm quan trọng của một cơ thể đang sống, đang thở, vốn là nền tảng của chính chúng ta. Sherry biết việc cổ tự ngắt da mình là hành động mang tính tự hủy hoại bản thân và cũng biết hành động này có liên quan đến việc cô bị mẹ bỏ rơi ngày xưa. Nhưng biết những điều này không giúp cô bỏ thói quen tự ngắt da mình.
⚝ ✽ ⚝
MẤT KIỂM SOÁT CƠ THỂTôi đã rất ngạc nhiên khi phát hiện có biết bao nhiêu là bệnh nhân nói với tôi họ không thể cảm nhận được bất kỳ bộ phận nào trên cơ thể. Đôi khi tôi yêu cầu họ nhắm mắt lại và nói cho tôi biết tôi đã đặt vật gì vào lòng bàn tay họ, ví dụ như chìa khóa, đồng xu. Nhiều người không thể đoán được họ đang cầm vật gì trong tay vì nhận thức cảm giác của họ không hoạt động.
Một người bạn của tôi, Alexander McFarlane ở Úc, đã quan sát thấy hiện tượng tương tự. Anh đã nghiên cứu câu hỏi: Làm sao chúng ta biết mình đang nắm trong tay chiếc chìa khóa mà không cần nhìn?
Để nhận ra một vật trong lòng bàn tay mà không cần nhìn, ta cần phải cảm nhận được hình dáng, trọng lượng, nhiệt độ, kết cấu và vị trí của vật đó. Mỗi trải nghiệm cảm giác riêng biệt được truyền đến một phần khác nhau của bộ não, và sau đó, cần tích hợp chúng vào một nhận thức duy nhất. McFarlane phát hiện ra những người bị PTSD thường gặp khó khăn khi ghép những hình ảnh lại với nhau.
Khi những giác quan của chúng ta bị lu mờ, chúng ta không còn cảm thấy mình đang sống thực sự nữa. Trong một bài báo mang tên “What Is an Emotion” (Cảm xúc là gì?) (1884), William James, cha đẻ của ngành Tâm lý học hoa Kỳ, nhắc đến một trường hợp nổi bật về “cảm giác vô cảm” ở một phụ nữ mà ông phỏng vấn: “Tôi... không có cảm giác của con người. Mỗi giác quan của tôi, mỗi phần của bản thân tôi đều cảm thấy như thể đã bị tách ra khỏi con người tôi và không còn cho tôi bất kỳ cảm xúc nào; việc này dường như phụ thuộc vào một khoảng trống mà tôi cảm thấy ở phía trước đầu của tôi, và là do sự suy giảm của cảm giác trên toàn bộ bề mặt cơ thể nên tôi thấy mình không bao giờ thực sự với tới được các vật mà tôi chạm vào. Tất cả những điều này là chuyện nhỏ, nhưng hậu quả của nó quá kinh khủng. Đó là việc không tài nào cảm nhận được bất kỳ cảm giác nào và bất kỳ thú vui nào, mặc dù tôi cảm nhận được rằng tôi cần và mong muốn điều đó. Chuyện này khiến cuộc đời tôi là những chuỗi ngày đau đớn và khó hiểu”.
Chúng ta sẽ không còn cảm thấy mình đang thực sự sống khi những giác quan bị ức chế. Sự phản ứng này đối với sang chấn đưa ra một câu hỏi quan trọng: Làm thế nào để những người bị sang chấn học cách kết hợp những trải nghiệm giác quan thông thường để có thể sống với dòng chảy tự nhiên của cảm nhận và thấy cơ thể họ an toàn và trọn vẹn?
LÀM SAO TA BIẾT MÌNH ĐANG SỐNG?
Năm 2004, đồng nghiệp Ruth Lanius của tôi đặt ra một câu hỏi mới: Điều gì xảy ra trong bộ não những người bị sang chấn khi họ không nghĩ về quá khứ? Các nghiên cứu về bộ não không hoạt động của bà – “trạng thái từ bỏ” (default state network - DSN) - đã mở ra một chương hoàn toàn mới cho hiểu biết về sự ảnh hưởng của sang chấn đến việc tự nhận thức, đặc biệt là tự nhận biết cảm giác".
Tiến sĩ Lanius đã tìm một nhóm 16 người Canada “bình thường” để nằm trong máy quét não và yêu cầu họ không nghĩ tới điều gì cụ thể, nghĩa là chỉ tập trung sự chú ý vào hơi thở và cố gắng để tâm trí càng trống rỗng càng tốt. Sau đó, bà lặp lại thử nghiệm này với 18 người có tiền sử bị lạm dụng tình dục nghiêm trọng và nhiều năm khi còn bé.
Bộ não của bạn đang làm gì khi bạn không suy nghĩ đến điều gì cụ thể: Đó là lúc bạn tập trung vào chính mình: Trạng thái mặc định kích hoạt các vùng não cùng nhau hoạt động để tạo ra cảm giác của ban về “bản thân”.
Khi Ruth nhìn vào kết quả quét não của các đối tượng bình thường, bà thấy sự kích hoạt ở các vùng DSN mà các nhà nghiên cứu trước đây đã mô tả. Tôi gọi đây là vùng Mohawk tự nhận thức, các cấu trúc ở khe não dọc của não (đường dọc phân chia não thành hai bán cầu não trái và phải), bắt đầu ngay trên mắt chúng ta, xuyên qua trung tâm của não ra tận phía sau. Tất cả các cấu trúc khe não dọc này đều liên quan đến cảm giác của chúng ta về bản thân. Vùng sáng lớn nhất ở phía sau của bộ não là vùng sau của hội đại (posterior cingulate), cho chúng ta cảm giác vật lý là mình đang ở đâu – bộ định vị GPS bên trong của chúng ta. Nó kết nối chặt chẽ với vùng giữa của vỏ não trán trước (medial prefrontal cortex - MPFC), cái tháp canh mà tôi đã đề cập trong chương 4. (Kết nối này không hiển thị trên kết quả quét não vì fMRI không thể đo được.)
Nó cũng liên kết với các vùng não ghi nhận cảm giác đến từ phần còn lại của cơ thể: thùy đảo (insula), vùng não chuyển thông điệp từ nội tạng đến các trung tâm cảm xúc; các thùy đỉnh (parietal lobes), vùng não tích hợp các thông tin giác quan; và vùng trước của hồi đại (anterior cingulate) nơi điều phối cảm xúc và suy nghĩ. Tất cả các vùng này đều góp phần vào nhận thức.
Kết quả quét não của 18 bệnh nhân PTSD kinh niên do sang chấn trầm trọng khi còn nhỏ có sự đối lập đáng kinh ngạc. Gần như không có hoạt hóa của bất kỳ khu vực tự cảm nhận của não: Vùng MPFC, vùng trước của hồi đai, vỏ não đỉnh (parietal cortex), và thùy đảo đều không sáng lên; duy nhất một vùng được kích hoạt nhẹ là vùng sau của hồi đại (posterior cingulate), chịu trách nhiệm định hướng cơ bản trong không gian.
Chỉ có một lời giải thích duy nhất cho những kết quả này: Để đối phó với sang chấn và đối phó với những nỗi sợ hãi đã tồn tại lâu dài, những bệnh nhân này đã học cách đóng các vùng não truyền cảm giác và cảm xúc bên trong đi kèm và xác định nỗi sợ. Tuy nhiên, trong cuộc sống hằng ngày, những vùng não này có trách nhiệm ghi nhận toàn bộ những cảm xúc và cảm giác tạo thành nền tảng cho sự tự nhận thức của chúng ta, nhận biết chúng ta là ai. Những gì chúng tôi chứng kiến ở đây là một sự thích nghi đầy bi kịch: Trong một nỗ lực để tắt những cảm giác đáng sợ, họ cũng làm mất khả năng cảm nhận mình đang thật sự sống.
Sự biến mất của hoạt động của vùng giữa trán trước có thể giải thích tại sao nhiều người bị sang chấn mất ý thức về mục đích và định hướng. Tôi từng ngạc nhiên bởi bao nhiêu lần bệnh nhân yêu cầu tôi tư vấn về những điều bình thường nhất, và rồi họ chẳng mấy khi làm theo. Bây giờ tôi hiểu rằng mối quan hệ của họ với thực tế bên trong đã bị hỏng. Làm sao họ có thể đưa ra quyết định hoặc lên kế hoạch hành động nếu họ không thể xác định mình muốn gì, hoặc chính xác hơn, họ không thể xác định cảm giác trong cơ thể của họ, Cơ sở của tất cả cảm xúc, đang cố gắng nói gì với họ?
Việc mất đi sự tự nhận thức ở các nạn nhân bị sang chấn lâu năm từ khi còn nhỏ đôi khi sâu sắc đến mức họ không thể tự nhận ra chính mình trong gương. Chụp não cho thấy đây không chỉ là kết quả của sự bỏ bê: Các cấu trúc phụ trách việc tự nhận biết có thể bị bất hoạt cùng với các cấu trúc liên quan đến tự trải nghiệm.
Khi Ruth Lanius cho tôi xem nghiên cứu của mình, tôi nhớ lại câu nói nổi tiếng của nhà toán học Archimedes khi nói về đòn bẩy: “Hãy cho tôi một điểm tựa, tôi sẽ nâng cả Trái đất” và câu nói của nhà trị liệu cơ thể vĩ đại thế kỷ 20 Moshe Feldenkrais: “Bạn không thể làm những gì bạn muốn cho đến khi bạn biết bạn đang làm gì”. Điều này có nghĩa, để cảm nhận được hiện tại, bạn cần phải biết mình đang ở đâu và điều gì đang xảy ra với bạn. Nếu hệ thống tự cảm nhận của ta bị hư hỏng, chúng ta cần tìm cách kích hoạt nó trở lại.
⚝ ✽ ⚝
HỆ THỐNG TỰ CẢM NHẬNTôi rất vui khi thấy Sherry ngày càng khá hơn nhờ liệu pháp massage. Cô ấy cảm thấy thư giãn và mạo hiểm hơn trong cuộc sống hằng ngày. Cô ấy cũng thoải mái và cởi mở hơn với tôi. Cô đã thực sự tham gia vào liệu pháp của mình và tò mò về hành vi, suy nghĩ và cảm xúc của chính mình. Cô ngừng tự ngắt nhéo cơ thể. Khi mùa hè đến, cô bắt đầu dành buổi tối ngồi trước hiên nhà, trò chuyện với hàng xóm của mình. Cô thậm chí còn tham gia một dàn hợp xướng nhà thờ.
Trong khoảng thời gian này tôi đã gặp nhà thần kinh học Antonio Damasio – tác giả của nhiều bài báo và sách khoa học xuất sắc về mối quan hệ giữa các trạng thái cơ thể, cảm xúc và sự sống còn. Antonio Damasio đã điều trị cho hàng trăm người có nhiều hình thức tổn thương não khác nhau. Ông rất đam mê khám phá về ý thức của con người và đam mê việc xác định các vùng não cần thiết để con người nhận biết các cảm xúc của bản thân. Ông đã xuất bản cuốn sách The Feeling of What Happensº (Cảm nhận những gì đang diễn ra).
Damasio chỉ ra sự phân chia sâu sắc giữa ý thức về bản thân và cảm giác của cơ thể: “Đôi khi chúng ta dùng tâm trí không phải để khám phá sự thật mà là để che giấu sự thật... Một trong những điều bị tấm màn che giấu hiệu quả nhất chính là cơ thể của chúng ta, ý tôi chính là che giấu phần bên trong của cơ thể. Giống như một tấm mạng che mặt để giữ gìn nét khiêm tốn, tấm màn này lấy đi từ tâm trí một phần các trạng thái bên trong của cơ thể – những thứ tạo thành dòng chảy của cuộc sống khi nó lang thang trong hành trình mỗi ngày”.
Ông tiếp tục diễn tả cách thức “tấm màn che” này có thể hoạt động vì lợi ích của chúng ta bằng cách cho phép chúng ta tham gia vào những vấn đề bức bách trong cuộc sống bên ngoài. Tuy nhiên, có một cái giá phải trả: “Nó có xu hướng ngăn cản chúng ta cảm nhận được nguồn gốc và bản chất có thể có của cái mà chúng ta gọi là bản ngã”7. Dựa trên công trình nghiên cứu cách đây hàng thế kỷ của William James, Damasio lập luận rằng cốt lõi của sự tự nhận thức của chúng ta dựa trên những cảm giác thể chất chuyển tải những trạng thái bên trong cơ thể:
“Những cảm nhận đầu tiên cung cấp một trải nghiệm trực tiếp cho cơ thể sống của một người, không lời, trần trụi và chẳng kết nối với cái gì khác ngoài chính sự tồn tại của nó. Những cảm nhận đầu tiên này phản ánh trạng thái hiện tại của cơ thể theo các chiều khác nhau... theo mức độ từ niềm vui đến đau đớn, và chúng bắt nguồn từ cấp độ thân não chứ không phải vỏ não. Tất cả sự cảm nhận về cảm xúc là những biến thể cung bậc phức tạp trên nền tảng những cảm nhận đầu tiên.”8
Thế giới giác quan của chúng ta hình thành ngay cả trước khi chúng ta được sinh ra. Trong tử cung của mẹ, chúng ta cảm nhận được nước ối trên da, chúng ta nghe thấy tiếng máu chảy và đường tiêu hóa hoạt động, chúng ta có duỗi người theo những cử động của mẹ.
Sau khi ta chào đời, cảm giác cơ thể định nghĩa mối quan hệ của chúng ta với chính bản thân mình và với môi trường xung quanh. Chúng ta bắt đầu thấy ẩm ướt, đói bụng, no nê và buồn ngủ. Một bản hợp ca của những âm thanh và hình ảnh khó hiểu in sâu vào hệ thống thần kinh sơ khai của chúng ta.
Ngay cả sau khi chúng ta có được ý thức và ngôn ngữ, hệ thống cảm giác cơ thể của chúng ta cung cấp phản hồi vô cùng quan trọng về tình trạng của chúng ta từng giây từng phút. Tiếng râm ran liên tục của nó làm thay đổi nội tạng của chúng ta, thay đổi cơ của gương mặt, thân xác, và các chi của chúng ta, báo hiệu cơn đau đớn và sự thoải mái, cũng như những điều thôi thúc khác như đói và hưng phấn tình dục. Những gì diễn ra xung quanh cũng ảnh hưởng đến cảm giác cơ thể của chúng ta. Nhìn thấy ai đó ta biết, nghe những âm thanh đặc biệt như một đoạn nhạc, tiếng còi báo động, hoặc cảm nhận được sự thay đổi về nhiệt độ, tất cả đều sẽ thay đổi sự chú ý của chúng ta một cách vô thức, giúp ta chuẩn bị cho những suy nghĩ và hành động tiếp theo.
Công việc của não là liên tục theo dõi và đánh giá những gì đang xảy ra bên trong và xung quanh chúng ta. Những đánh giá này được truyền qua các thông điệp hóa học trong máu và các tín hiệu điện trong dây thần kinh của chúng ta, tạo ra những thay đổi tinh tế hoặc kịch tính khắp cơ thể và não. Những thay đổi này xảy ra hoàn toàn không cần đến nhận thức hay tiếp nhận có chủ đích: Các khu vực dưới vỏ của não có hiệu quả đáng kinh ngạc trong việc điều hòa hơi thở, nhịp tim, tiêu hóa, tiết hormone và hệ miễn dịch. Tuy nhiên, những hệ thống này có thể bị choáng ngợp nếu chúng ta bị thách thức trước một mối đe dọa đang diễn ra, hoặc thậm chí chỉ là ta có nhận thức về hiểm họa. Điều này giải thích cho hàng loạt các vấn đề về thể chất ở những người bị sang chấn đã được các nhà nghiên cứu ghi nhận.
Tuy nhiên, sự ý thức của chúng ta cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc duy trì sự cân bằng bên trong của chúng ta: Chúng ta cần phải ghi nhận và hành động trên những cảm giác thể chất của chúng ta để giữ cho cơ thể mình an toàn. Cảm thấy lạnh, ta sẽ khoác áo ấm lên mình; cảm thấy đói hay chóng mặt, ta biết rằng lượng đường trong máu đang giảm và khiến chúng ta bật dậy lấy đồ ăn vặt; cảm thấy tức bàng quang, ta sẽ đi vào nhà vệ sinh.
Damasio chỉ ra rằng tất cả cấu trúc não ghi nhận cảm xúc cơ bản đều nằm gần những vùng não kiểm soát các chức năng cơ bản như thở, thèm ăn, chu kỳ ngủ/thức: “Điều này là do hệ quả của cảm xúc và sự chú ý hoàn toàn liên quan đến một công việc cơ bản đó là quản lý sự sống bên trong cơ thể. Không thể quản lý sự sống và duy trì sự cân bằng nội tại mà không có dữ liệu về tình trạng hiện tại của cơ thể”. Damasio gọi những vùng “trông nhà” của não bộ này là “bản ngã nguyên thủy” (proto-self) vì chúng sinh ra những “hiểu biết không lời” dẫn đến tự ý thức của chúng ta về bản thân mình.
⚝ ✽ ⚝
KHI BẢN NGÃ BỊ ĐE DỌANăm 2000, Damasio và cộng sự công bố một bài báo khoa học trên tạp chí Science nói rằng việc sống lại một cảm xúc tiêu cực mạnh mẽ gây ra những thay đổi đáng kể trong các vùng não nhận các tín hiệu thần kinh từ cơ, ruột và da – đây là những vùng não quan trọng trong việc điều hòa các chức năng cơ bản của cơ thể.
Kết quả khảo sát não cho thấy việc nhớ lại một sự kiện cảm xúc trong quá khứ sẽ khiến ta thực sự tái trải nghiệm lại những cảm giác bên trong giống như lúc đầu tiên ta trải qua sự kiện ấy. Mỗi loại cảm xúc tạo ra một mô hình đặc trưng, khác biệt với nhau. Ví dụ, một phần nhất định của thân não “kích hoạt khi đang buồn và tức giận, nhưng không kích hoạt khi đang hạnh phúc hay sợ hãi”10. Tất cả các vùng não này nằm dưới hệ viền, là nơi chi phối cảm xúc, nhưng chúng ta thừa nhận là chúng có liên quan mỗi khi chúng ta sử dụng một trong số những biểu hiện thông thường để liên kết những cảm xúc mạnh mẽ với cơ thể, ví dụ: “Bạn làm tôi phát ốm”, “Nó khiến tôi nổi hết cả da gà”, “Tôi nghẹn ngào không nói nên lời”, “Tim tôi chùng xuống”.
Hệ thống tự nhiên cơ bản trong thân não và hệ viền được kích hoạt dữ dội khi người ta đối mặt với nguy cơ bị hủy diệt, kết quả là cảm giác sợ hãi và kinh hãi không kìm chế được kèm theo kích thích mãnh liệt về sinh lý. Đối với những người đang sống lại tình huống sang chấn thì chẳng còn gì có ý nghĩa nữa cả; họ bị kẹt trong một tình huống sống hay chết, một trạng thái khiếp sợ đến đông cứng cả người hay cơn giận dữ đến mức mù quáng. Tâm trí và cơ thể họ thường xuyên bị kích thích như thể hiểm họa sắp xảy ra đến nơi. Họ giật nảy mình vì những tiếng động nhè nhẹ, và mệt mỏi vì những kích thích nho nhỏ. Họ ăn không ngon, ngủ không yên. Đến lượt việc này lại kích hoạt những nỗ lực tuyệt vọng của họ nhằm chấm dứt những cảm xúc đó bằng cách đông cứng hay phân ly''.
Làm thế nào để mọi người giành lại quyền kiểm soát khi bộ não động vật của họ bị mắc kẹt trong một cuộc chiến sinh tồn? Nếu những gì xảy ra sâu bên trong bộ não động vật của chúng ta đang sai khiến việc chúng ta cảm thấy như thế nào, và nếu cảm giác cơ thể của chúng ta được chỉ huy bởi cấu trúc não tiềm thức (dưới vỏ não), vậy thì, chúng ta có thể kiểm soát chúng đến mức nào?
TỈNH THỨC: LÀM CHỦ CUỘC SỐNG CỦA MÌNH
“Tỉnh thức” là thuật ngữ để nói đến cảm xúc chịu trách nhiệm về cuộc sống của bạn: biết nơi bạn đứng, biết rằng bạn có thể định đoạt những gì xảy ra với bạn, biết rằng bạn có một số khả năng để định hình hoàn cảnh của bạn. Những cựu chiến binh từng đấm tay vào tường là đang cố khẳng định lại “ý thức” của họ - để làm một điều gì đó. Nhưng cuối cùng họ thậm chí còn thấy mất khả năng kiểm soát nhiều hơn, và nhiều người trong số những người đàn ông từng rất tự tin này đã bị mắc kẹt trong một chu kỳ giữa hoạt động điên cuồng và bất động.
Tỉnh thức bắt đầu với thứ mà các nhà khoa học gọi là nội cảm (interoception), nhận thức về cảm giác tinh tế, cảm xúc về cơ thể: Sự nhận thức đó càng lớn, tiềm năng kiểm soát cuộc sống của chúng ta càng cao. Biết được ta đang cảm thấy gì là bước đầu tiên để biết tại sao chúng ta lại cảm thấy như vậy. Nếu chúng ta nhận thức được những thay đổi liên tục của môi trường bên trong và bên ngoài chúng ta, chúng ta có thể quản lý chúng. Nhưng chúng ta không thể làm điều này trừ khi tháp canh của chúng ta, MPFC, học cách quan sát những gì đang diễn ra bên trong chúng ta. Đây là lý do tại sao thực hành chánh niệm (mindfulness), giúp củng cố MPFC, là một nền tảng để phục hồi từ sang chấn 2.
Khi xem bộ phim March of the Penguins (Hành khúc chim cánh cụt), tôi đã nghĩ về một số bệnh nhân của mình. Chim cánh cụt là loài vật thật kiên cường, đáng yêu. Từ thuở xa xưa, chúng đã phải lần hồi từng bước qua hết bảy mươi dặm đường từ biển vào đất liền, hứng chịu muôn vàn khó khăn để đến được nơi sinh nở, đánh rơi vô số quả trứng khỏe mạnh. Và rồi, gần như sắp chết vì đói, chúng lệ người trở về với biển. Nếu chim cánh cụt có thùy trán như chúng ta, chúng sẽ sử dụng những đôi cánh nhỏ để tạo nên những túp lều tuyết, phát minh ra cách tốt hơn để sinh sản, tổ chức lại nguồn cung thức ăn. Nhiều bệnh nhân của tôi đã sống sót qua sang chấn nhờ dũng cảm và kiên trì, để rồi mắc vào những rắc rối tương tự cứ lặp đi lặp lại. Sang chấn đã khiến kim chỉ nam bên trong của họ ngưng hoạt động và làm họ mất đi trí tưởng tượng cần thiết để tạo ra điều gì đó tốt đẹp hơn.
Khoa học thần kinh của tự ngã và tỉnh thức đã xác nhận các loại liệu pháp thân nghiệm (somatic experiencing therapy) mà hai người bạn của tôi là Peter Levinel và Pat Ogdenl đã phát triển. Tôi sẽ thảo luận chi tiết những phương pháp này và các phương pháp cảm quan động lực khác trong phần V. Về cơ bản, liệu pháp này hướng đến ba mục tiêu:
• Thu thập thông tin giác quan đã bị sang chấn ngăn chặn và làm đông cứng;
• Giúp bệnh nhân kết bạn (chứ không phải là đàn áp) với năng lượng phát ra từ trải nghiệm nội tại đó;
• Hoàn thiện các hành động thể chất tự vệ đã bị cản trở khi họ bị mắc kẹt, kìm hãm, hoặc bất động bởi nỗi khiếp sợ.
Trực giác báo hiệu cho chúng ta biết cái gì là an toàn, là duy trì sự sống, hoặc mang tính đe dọa, ngay cả khi nếu chúng ta không thể giải thích rõ được tại sao chúng ta lại cảm thấy như thế. Cảm giác bên trong liên tục gửi cho chúng ta những thông điệp tinh tế về nhu cầu của cơ thể chúng ta. Trực giác cũng giúp chúng ta đánh giá những gì đang diễn ra xung quanh. Chúng cảnh báo chúng ta rằng kẻ đang tiến lại trông thật đáng sợ, nhưng chúng cũng cho ta biết một căn phòng hướng Tây có hoa mọc xung quanh khiến chúng ta cảm thấy thanh bình. Nếu bạn có một kết nối thoải mái với cảm giác bên trong của bạn, và nếu bạn có thể tin tưởng chúng cung cấp cho bạn thông tin chính xác thì bạn sẽ cảm thấy mình làm chủ được cơ thể, cảm xúc, và chính mình hơn.
Tuy nhiên, những người bị sang chấn thường xuyên cảm thấy bất an trong lòng: Quá khứ vẫn sống dưới dạng một nỗi lo âu đang gặm nhấm thân tâm họ. Cơ thể họ thường xuyên bị oanh tạc bởi các dấu hiệu cảnh báo từ bên trong. Khi nỗ lực kiểm soát các quá trình này, họ thường bỏ qua trực giác của bản thân và tê liệt nhận thức về những gì đang xảy ra bên trong mình. Họ học cách trốn tránh khỏi chính bản thân mình.
Ta càng cố xua đuổi, cố làm ngơ với những dấu hiệu cảnh báo bên trong ta thì chúng sẽ càng kiểm soát ta, sẽ khiến ta bối rối, hoang mang, xấu hổ. Với những người không thể nhận biết được những gì đang xảy ra bên trong mình, thì khi có bất kỳ chuyển biến nào về cảm giác, họ sẽ phản ứng lại bằng cách ngắt kết nối hoặc trở nên hoảng loạn, nghĩa là họ đang sợ chính nỗi sợ của mình.
Ngày nay, chúng ta biết các triệu chứng hoảng loạn xảy ra chủ yếu bởi vì con người thấy sợ những cảm giác hoảng loạn của cơ thể. Cơn hoảng loạn đó có thể được kích hoạt bởi những gì họ biết là không hợp lý, nhưng chính việc sợ những cảm giác đó lại khiến họ phát ra tình huống báo động cho toàn cơ thể. “Sợ đến đờ người” và “đông cứng người vì sợ” (sụp đổ và trở nên tê liệt) đã mô tả chính xác nỗi kinh hãi và sang chấn là như thế nào. Chúng là nền tảng bên trong cơ thể. Trải nghiệm sợ hãi xuất phát từ những phản ứng nguyên thủy với mối đe dọa khi vì một lý do nào đó mà người ta không còn lối thoát. Cuộc sống của con người sẽ bị giam cầm trong nỗi sợ hãi cho đến khi nào trải nghiệm bên trong đó thay đổi.
Cái giá phải trả cho việc bỏ qua hoặc bóp méo các thông điệp của cơ thể là mất khả năng phát hiện ra điều gì thực sự nguy hiểm hoặc gây hại cho bạn, và điều gì là an toàn hoặc lành mạnh đối với bạn. Sự tự điều chỉnh phụ thuộc vào mối quan hệ thân thiện với Cơ thể của chính bạn. Nếu không có nó, bạn phải dựa vào các yếu tố bên ngoài như thuốc, rượu, sự trấn an liên tục của ai đó hoặc bị cưỡng ép phải tuân thủ theo mong muốn của người khác.
Nhiều bệnh nhân của tôi đáp ứng với stress không phải bằng cách nhận biết và gọi tên chúng mà qua những cơn đau nửa đầu hoặc các cơn lên suyễn. Sandy, một y tá tuổi trung niên, nói với tôi rằng khi còn bé, cô ấy cảm thấy rất sợ và cô đơn vì bị cha mẹ nghiện rượu bỏ rơi. Cô đã giải quyết vấn đề này bằng cách tách biệt khỏi những người mà cô phụ thuộc (bao gồm cả tôi, nhà trị liệu của cô). Hễ chồng cô nói những lời nhận xét thiếu nhạy cảm là cô ấy sẽ lên cơn hen suyễn. Đến lúc cô nhận ra mình không thể thở thì ống hít thuốc trợ thở không còn hiệu quả nữa, và cô phải được đưa đến phòng cấp cứu ngay.
Chấm dứt tiếng kêu cứu từ bên trong chúng ta sẽ không thể khiến các hormone của stress ngừng huy động cơ thể. Mặc dù Sandy đã học cách bỏ qua các vấn đề trong mối quan hệ của mình và ngăn chặn những tín hiệu đau đớn về thể chất thì những tín hiệu này vẫn xuất hiện dưới dạng triệu chứng của cơ thể và cô buộc phải quan tâm đến chúng. Liệu pháp chữa trị cho cô là tập trung vào việc xác định mối liên quan giữa cảm giác thể chất với cảm xúc của cô, và tôi cũng khuyến khích cô tham gia chương trình học kickboxing, môn võ kết hợp quyền anh và karate. Trong suốt ba năm được tôi chữa trị, cô đã không phải đến phòng cấp cứu một lần nào.
Triệu chứng thể chất mà không có cơ sở rõ ràng về mặt sinh lý là tình trạng phổ biến ở cả trẻ em lẫn người lớn bị sang chấn. Chúng có thể bao gồm đau lưng và cổ mạn tính, đau nhức toàn thân, chứng đau nửa đầu, các vấn đề về tiêu hóa, hội chứng đại tràng co thắt/ruột kích thích, mệt mỏi mạn tính và một số dạng hen suyễn. Những trẻ em bị sang chấn có tỷ lệ mắc hen suyễn nhiều gấp 50 lần so với những trẻ em bình thường đồng lứa!”. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng nhiều trẻ em và người lớn bị các cơn hen suyễn nguy kịch thì đều không nhận thức được họ có vấn đề về hô hấp trước khi lên cơn hen suyễn.
MÙ CẢM XÚC (ALEXITHYMIA): KHÔNG THỂ DIỄN ĐẠT CẢM XÚC
Tôi có một người dì góa từng có tiền sử sang chấn đau thương, là bà đỡ đầu cho các con tôi. Dì thường đến thăm chúng tôi, mỗi lần đến, dì chỉ cặm cụi lau dọn rèm cửa, sắp xếp lại kệ chén đĩa, thêu thùa áo quần của lũ trẻ - và rất ít nói chuyện. Dì rất muốn vui vẻ, nhưng thật khó để biết gì thích cái gì.
Sau vài ngày trò chuyện vui vẻ với chúng tôi, những ngày sau, dì hầu như chẳng nói gì, thế nên tôi phải gắng sức lấp đầy sự im lặng kéo dài. Đến ngày dì phải rời đi, tôi đưa dì đến sân bay, dì gượng gạo ôm tôi, nước mắt lăn dài trên má. Rồi dì nói gió lạnh khiến dì chảy nước mắt. Cơ thể dì cảm nhận được nỗi buồn mà tâm trí dì không thể nào ghi nhận được. Rồi di chào tạm biệt gia đình tôi – những người thân thiết nhất của dì còn sống trên đời này.
Các nhà tâm thần học gọi hiện tượng này là mù cảm xúc (alexithymia), trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là không có từ để diễn tả cảm xúc. Rất nhiều trẻ em và người lớn bị sang chấn không thể diễn tả được cảm giác của mình vì họ không thể nhận ra cảm giác thể chất của họ có ý nghĩa gì. Họ có thể trông rất giận dữ hoặc rất sợ hãi nhưng họ phủ nhận những cảm giác này, họ sẽ khăng khăng nói rằng họ không sao. Không thể phân biệt được những gì đang diễn ra bên trong cơ thể khiến họ không kết nối được với nhu cầu của họ, và họ gặp khó khăn trong việc tự chăm sóc bản thân, từ chuyện ăn uống đầy đủ, đúng giờ đến chuyện ngủ đủ giấc.
Giống như dì của tôi, người bị mù cảm xúc dùng ngôn ngữ hành động để thay thế cho ngôn ngữ cảm xúc. Khi được hỏi: “Bạn cảm thấy như thế nào nếu một chiếc xe tải đang lao về phía bạn với vận tốc 80 dặm một giờ?”, nhiều người sẽ nói: “Tôi sẽ sợ phát khiếp”, “Tôi sẽ sợ mất hồn mất vía”, nhưng một người bị mù cảm xúc thường đáp: “Tôi cũng chẳng biết mình sẽ cảm thấy thế nào nữa. Chắc là tôi sẽ tránh cái xe đó ra thôi”18. Họ có xu hướng ghi nhận cảm xúc dưới dạng các vấn đề về thể chất chứ không phải là những dấu hiệu đáng để họ lưu tâm. Thay vì cảm thấy tức giận hoặc buồn bã, họ sẽ bị đau cơ, ruột kích thích hoặc có các triệu chứng khác mà không có nguyên nhân. Khoảng 1 bệnh nhân bị chứng chán ăn tâm thần (anorexia nervosa), và hơn 1 số bệnh nhân bị chứng cuồng ăn (bulimia) đều bị bối rối bởi cảm xúc và gặp khó khăn khi mô tả các cảm xúc ấy'. Khi các nhà nghiên cứu cho những người mù cảm xúc xem hình ảnh những gương mặt người giận dữ hoặc đau khổ, họ không thể hiểu được người trong hình đang cảm thấy gì”.
Một trong những người đầu tiên dạy tôi về bệnh mù cảm xúc là bác sĩ tâm thần học Henry Krystal – người đã làm việc với hơn 1.000 người sống sót sau thảm họa diệt chủng người Do Thái để hiểu rõ về sang chấn”. Chính Krystal cũng là một tù nhân sống sót sau trại tập trung, ông nhận thấy rất nhiều bệnh nhân của mình thành công về nghề nghiệp, nhưng những mối quan hệ thân mật của họ trở nên vô cùng ảm đạm và xa cách. Khi cố đè nén những cảm xúc dữ dội của mình, họ có thể tham gia vào những hoạt động xã hội, nhưng cái giá họ phải trả là không còn nhận biết được những cảm xúc của bản thân. Rất ít người trong số họ có quan tâm thật sự đến liệu pháp trị liệu.
Paul Frewen tại Đại học Western Ontario đã thực hiện một loạt các nghiên cứu về não bộ của những người bị PTSD mù cảm xúc. Một người tham gia nói với ông rằng: “Tôi không biết mình cảm thấy gì, cứ như thể đầu và thân tôi không kết nối với nhau vậy. Tôi đang sống trong một đường hầm đầy sương mù, dù chuyện gì xảy ra thì tôi cũng chỉ phản ứng tê liệt, tôi không cảm thấy gì cả. Với tôi, việc ngâm mình trong bồn tắm đầy bọt, bị phỏng hay bị hãm hiếp cũng chẳng có gì khác nhau cả. Não tôi chẳng cảm thấy gì”. Frewen và Ruth Lanius nhận thấy con người càng mất liên lạc với cảm xúc của mình nhiều bao nhiêu, hoạt động trong vùng não tự cảm nhận của họ càng ít hơn bấy nhiêu.
Vì những người bị sang chấn thường gặp khó khăn khi cảm nhận được điều gì đang xảy ra trong cơ thể của họ nên họ thiếu phản ứng đáng kể khi đối mặt sự thất vọng. Họ phản ứng với stress bằng việc trở nên “bần thần” hoặc nổi cơn thịnh nộ. Dù phản ứng ra sao chăng nữa, họ vẫn thường không nói điều gì đang khiến họ khó chịu. Thất bại trong việc kết nối với chính cơ thể của mình góp phần vào việc họ được ghi nhận là thiếu khả năng tự vệ và dễ trở thành nạn nhân, khó cảm thấy vui vẻ hay ham muốn và không cảm thấy điều gì đó có ý nghĩa.
Những người bị mù cảm xúc có thể cải thiện tình hình của mình bằng việc học cách nhận diện mối quan hệ giữa cảm giác thể chất và cảm xúc của mình, giống như người mù màu có thể cải thiện chứng mù màu bằng học cách phân biệt và nhận biết các sắc thái của màu xám. Nhưng những người bị mù cảm xúc thường lưỡng lự khi làm điều này: Đa số họ dường như có một quyết định vô thức rằng sẽ tốt hơn nếu cứ tiếp tục đi gặp bác sĩ để chữa trị hơn là phải tự mình đau đớn đối mặt với những bóng ma của quá khứ.
⚝ ✽ ⚝
HỘI CHỨNG GIẢI THỂ NHÂN CÁCHMột cấp độ cao hơn của sự tự lãng quên bản thân là sự giải thể nhân cách (depersonalization), tức là đánh mất những cảm giác về bản thân. Hình chụp bộ não trắng trơn của Ute ở chương 4 là một minh họa sống động của chứng giải thể nhân cách. Giải thể nhân cách khá phổ biến trong những trải nghiệm sang chấn.
Một đêm nọ, tôi bị trấn lột ở một công viên gần nhà. Tự nhiên, tôi nhìn thấy chính mình nằm trên tuyết với một vết thương nhỏ trên đầu, có ba thiếu niên cầm dao vây quanh tôi. Tôi phân ly khỏi cảm giác đau ở cánh tay bị chúng đậm, rồi tôi không còn cảm thấy chút sợ hãi nào nữa, tôi bình thản thương lượng để chúng trả lại cho tôi cái ví rỗng.
Tôi nghĩ mình không hề bị PTSD vì tôi vô cùng tò mò muốn có được một trải nghiệm gần gũi với những gì tôi từng nghiên cứu ở người khác, và một phần nào đó, tôi ảo tưởng rằng mình có thể vẽ chân dung của bọn trấn lột để đưa cho cảnh sát. Tất nhiên là chúng chẳng bao giờ bị bắt, nhưng chỉ cần tưởng tượng về việc trả đũa bọn chúng như thế cũng khiến tôi cảm thấy thỏa mãn.
Những người bị sang chấn thường không may mắn như thế, họ thường cảm thấy bị tách rời khỏi cơ thể của họ. Nhà phân tâm học người Đức Paul Schilder, vào năm 1928 đã có một mô tả đúng về chứng giải thể nhân cách như sau 24: “Đối với một cá nhân bị giải thể nhân cách, thế giới trông thật lạ lùng, bí hiểm, xa lạ, mơ hồ. Những đồ vật có lúc bị thu nhỏ về kích thước, có lúc lại phẳng lì. Âm thanh vang lên từ xa xăm. Cũng vậy, cảm xúc trải qua sự thay đổi rõ rệt. Bệnh nhân than phiền rằng họ mất khả năng trải nghiệm nỗi đau cũng như khoái lạc... Họ đã trở thành những người xa lạ đối với bản thân mình”.
Tôi vô cùng kinh ngạc khi biết rằng một nhóm các nhà thần kinh học tại Đại học Geneva đã tạo ra những trải nghiệm ngoài cơ thể bằng cách truyền dòng điện nhẹ đến một vị trí cụ thể trong não là điểm nối thùy thái dương với thùy đỉnh. Đối với một bệnh nhân, cảm giác đó là cô treo mình từ trần nhà, nhìn xuống cơ thể mình; với một bệnh nhân khác, nó gây ra cảm giác rợn người như có ai đó đang đứng phía sau cô. Nghiên cứu này xác nhận những gì bệnh nhân của chúng tôi thuật lại: rằng bản thân có thể được tách ra khỏi cơ thể và tự nó sống như một bóng ma. Tương tự, Lanius và Frewen, và một nhóm các nhà nghiên cứu tại Đại học Groningen ở Hà Lan6 đã quét não những người đã phân ly khỏi nỗi kinh hoàng của họ và phát hiện rằng các trung tâm sợ hãi của não chỉ đơn giản đã đóng sập lại khi họ nhớ lại sự kiện.
⚝ ✽ ⚝
LÀM BẠN VỚI CƠ THỂNhững nạn nhân sang chấn chỉ có thể phục hồi khi họ trở nên quen thuộc và “kết bạn” được với những cảm giác trong cơ thể họ. Cảm thấy sợ hãi có nghĩa là bạn sống trong một cơ thể đang luôn luôn đề phòng. Những con người giận dữ sống trong những cơ thể giận dữ. Cơ thể của người bị lạm dụng tình dục khi còn nhỏ thường sẽ căng thẳng và phòng thủ, cho đến khi họ tìm ra cách thư giãn và cảm thấy an toàn. Để thay đổi, mọi người cần phải nhận thức được cảm giác của họ và cách cơ thể họ tương tác với thế giới xung quanh. Tự nhận thức về thể chất là bước đầu tiên trong việc giải phóng khỏi quá khứ khốc liệt.
Làm sao mọi người có thể cởi mở và khám phá thế giới nội tâm của họ về cảm giác và cảm xúc? Tôi bắt đầu quá trình này bằng cách giúp đỡ các bệnh nhân trước tiên là chú ý và rồi miêu tả những cảm nhận trong cơ thể họ, không phải là những cảm xúc như giận dữ, lo lắng, sợ hãi... mà là những cảm giác thể chất ẩn dưới những cảm xúc đó: lực đè, sức nóng, căng cơ, thấy ngứa ran, thấy suy sụp, thấy trống rỗng... Tôi cũng giúp họ xác định những cảm giác liên quan đến sự thư giãn, vui vẻ. Tôi giúp họ ý thức được hơi thở, điệu bộ và cử chỉ của họ. Tôi yêu cầu họ tập trung đến những thay đổi tinh tế trong cơ thể của họ ví dụ như lồng ngực căng, ruột gan thắt lại... khi họ nói về những chuyện tiêu cực mà họ cứ khăng khăng chúng không ảnh hưởng gì đến mình.
Ban đầu, các bệnh nhân có thể gặp khó khăn khi cố gắng nhận diện những cảm giác của mình, họ có thể nhớ lại những ký ức dữ dội và rồi họ co rúm người lại hoặc chuyển sang tư thế phòng thủ. Đây là những tái hiện thể chất của những sang chấn chưa được xử lý triệt để, và phần lớn cũng là các điệu bộ của họ khi xảy ra sang chấn lúc trước. Lúc này, những hình ảnh xưa cũ, những cảm giác thể chất có thể sẽ tràn ngập, và nhà trị liệu phải quen với sự tuôn trào về cảm giác và cảm xúc để ngăn chặn người bệnh không bị sang chấn lần nữa khi tiếp xúc lại với quá khứ (giáo viên, y tá, sĩ quan cảnh sát thường rất giỏi làm dịu những người đang hoảng loạn vì họ thường xuyên phải đối phó với những người mất kiểm soát bản thân).
Tuy nhiên, các bác sĩ thường kê các loại thuốc như Ability, Zyprexa và Seroquel cho các bệnh nhân thay vì dạy học kỹ năng xử lý những phản ứng thể chất đáng lo của cơ thể. Tất nhiên, các loại thuốc chỉ tạo cảm giác ổn định tạm thời và không thể giải quyết tận gốc vấn đề và cũng chẳng thể biến đổi các phản ứng ấy từ có hại thành có lợi.
Khi buồn bã, con người thường bám víu vào người khác để ổn định lại tinh thần. Điều này có nghĩa những bệnh nhân đã bị bạo hành cơ thể hoặc bị xâm hại tình dục sẽ rơi vào thế tiến thoái lưỡng nan: Họ rất khao khát sự gần gũi nhưng lại sợ hãi tiếp xúc với cơ thể người khác. Tâm trí họ cần được hướng dẫn lại để cảm nhận những cảm giác thể xác, và cơ thể họ cần được giúp đỡ để chịu đựng cũng như tận hưởng sự thoải mái khi va chạm cơ thể. Nếu chịu khó luyện tập, những bệnh nhân thiếu nhận thức về cảm xúc có thể kết nối cảm giác thể chất với sự kiện tâm lý. Sau đó, họ có thể từ từ kết nối lại với chính bản thân mình?”.
KẾT NỐI VỚI CHÍNH MÌNH, KẾT NỐI VỚI NGƯỜI XUNG QUANH
Tôi sẽ kết thúc chương này với một nghiên cứu cho thấy cái giá phải trả khi đánh mất cảm giác cơ thể. Sau khi Ruth Lanius và nhóm của cô quét một bộ não không hoạt động, họ đã tập trung vào một câu hỏi khác được đặt ra trong cuộc sống hằng ngày: Điều gì sẽ xảy ra với những người bị sang chấn lâu năm khi họ tương tác mặt-đối-mặt với người khác?
Nhiều bệnh nhân của tôi không thể giữ giao tiếp bằng mắt, tức là họ luôn cố tránh nhìn tôi. Hóa ra là họ cảm thấy kinh tởm và không thể chịu đựng được suy nghĩ rằng tôi thấy họ hèn hạ. Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng cảm xúc thấy nhục nhã dữ dội như vậy lại được phản ánh trong bộ não bị kích hoạt bất thường. Một lần nữa, Ruth Lanius cho thấy sự nhập nhằng giữa tâm trí và não bộ trong cách thức phần này ghi nhận những gì xảy ra ở phần kia.
Ruth đã mua một thiết bị đắt tiền dùng để dựng một nhân vật hoạt hình như một người đang nằm trong máy quét não. Nhân vật này có thể nhìn thẳng mặt hoặc nhìn xéo một góc 45 độ. Điều này giúp ta có thể so sánh những hiệu ứng của việc tiếp xúc mắt trực tiếp với hiệu ứng của việc nhìn xiên lên những kích hoạt của não bộ 28.
Điểm khác biệt đáng chú ý nhất giữa những người bình thường và những người bị sang chấn mạn tính là sự kích hoạt ở vỏ não trán trước để đáp lại ánh mắt nhìn trực tiếp. Vỏ não trán trước (prefrontal cortex – PFC) thường giúp chúng ta đánh giá người đang tiến về phía mình và các tế bào thần kinh gương giúp ta nhận ra ý định của người đó. Tuy nhiên, các đối tượng bị PTSD đã không kích hoạt bất kỳ phần nào của thùy trán, nghĩa là họ chẳng có chút tò mò nào về người lạ. Họ chỉ phản ứng với sự kích hoạt mạnh mẽ sâu bên trong những vùng não cảm xúc của họ, trong các vùng não nguyên thủy gọi là vùng chất xám quanh rãnh Sylvius (Periaqueductal Gray), nơi gây ra giật mình, cảnh giác cao độ, có rúm người và các hành vi tự vệ khác. Không có sự kích hoạt bất kỳ phần nào của não liên quan đến sự tương trợ xã hội. Khi người khác nhìn họ, họ chỉ đơn giản chuyển sang chế độ sinh tồn.
Điều này có ý nghĩa gì đối với khả năng kết bạn và hòa hợp với người khác? Có ý nghĩa gì đối với việc điều trị PTSD? Liệu một bệnh nhân PTSD có thể tin cậy một nhà trị liệu khi trong lòng họ vẫn có những nỗi sợ hãi sâu sắc nhất?
Muốn có những mối quan hệ chân thành, bạn phải có khả năng nhìn nhận những người khác là những cá nhân riêng biệt, mỗi người đều có động cơ và ý định riêng. Bạn cần biết cách tự vệ và cũng cần nhận ra rằng những người khác cũng có những cách tự vệ riêng của họ. Sang chấn có thể khiến tất cả việc này trở nên lẫn lộn và mờ mịt.