← Quay lại trang sách

PHẦN III TÂM TRÍ TRẺ THƠ Chương 7 CÙNG BƯỚC SÓNG: GẮN KẾT VÀ ĐỒNG ĐIỆU

Nguồn gốc của sự kiên cường chính là cảm giác được thấu hiểu và được hiện hữu trong khối óc lẫn trái tim tràn đầy tình yêu thương, đồng điệu và tự chủ.

Diana Fosha

Phòng khám Nhi ở MMHC thường đầy ắp những đứa trẻ lo lắng và bất ổn tâm lý. Chúng thường không thể ngồi yên và hay đánh lộn, thậm chí đánh cả các nhân viên. Chúng có thể chạy về phía bạn ôm bạn thật chặt, rồi ngay lập tức đẩy bạn ra với vẻ hoảng sợ cự độ. Có những em quát tháo những đồ vật, vật nuôi hoặc chửi mắng chính mình. Lúc thì các em thèm khát tình thương, lúc thì các em giận dữ, ương ngạnh. Đặc biệt là những bé gái thường tuần phục một cách khổ sở. Dù là chống đối hay đeo bám, dường như không em nào có khả năng khám phá, vui đùa như những đứa trẻ bình thường. Một vài em hầu như không phát triển ý thức về bản thân, thậm chí không thể nhận ra mình trong gương.

Lúc đó, tôi biết rất ít về trẻ em, ngoại trừ những gì khám phá được từ hai đứa con của mình. Nhưng tôi may mắn có người đồng nghiệp Nina Fish-Murray – mẹ của năm đứa trẻ. Nina rất say mê nghiên cứu về những đứa trẻ gặp rắc rối tâm lý. Chồng của Nina, Henry Murray - cựu trưởng khoa tâm lý học của Trường Harvard, đã thiết kế Trắc nghiệm phóng chiếu TAT (Thematic Apperception Test – TAT) đang được sử dụng rộng rãi. TAT sử dụng một bộ thẻ để khám phá cách thức thực tại nội tâm của con người hình thành thế giới quan của họ như thế nào.

Không giống như các thẻ Rorschach mà chúng tôi sử dụng với các cựu chiến binh, các thẻ TAT mô tả những cảnh thực tế nhưng mơ hồ và có phần bất an: một người đàn ông và một phụ nữ đang buồn bã tránh né cái nhìn của nhau, một cậu bé nhìn cây đàn violin bị vỡ. Các bệnh nhân được yêu cầu kể một câu chuyện dựa theo những bức ảnh này, chuyện gì đã xảy ra trước đó, chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo. Phần lớn các câu chuyện bệnh nhân kể ra sẽ cho ta biết điều gì làm họ bận tâm.

Nina và tôi quyết định tạo ra một bộ thẻ trắc nghiệm đặc biệt dành cho trẻ em, gồm những bức ảnh cắt từ các cuốn tạp chí. Nghiên cứu đầu tiên của chúng tôi so sánh 12 em trong độ tuổi 6-11 đang là bệnh nhân của bệnh viện, với một nhóm trẻ em đến từ một trường học gần đó. Hai nhóm trẻ này càng giống nhau về độ tuổi, chủng tộc, trí tuệ và bối cảnh gia đình càng tốt. Điểm khác biệt đó là nhóm trẻ em bệnh nhân của chúng tôi chịu ảnh hưởng từ việc bị người thân lạm dụng: một bé trai toàn thân bầm tím vì bị mẹ đánh đập liên tục, một bé gái bị cha xâm hại tình dục năm 4 tuổi, hai bé trai thường xuyên bị trói vào ghế và đánh bằng roi và một bé gái lúc lên 5 tuổi đã thấy mẹ (một người hành nghề mại dâm) bị hãm hiếp, chặt xác, thiêu cháy rồi bị nhét vào cốp xe. Tay ma cổ của người mẹ này bị tình nghi đã lạm dụng tình dục bé gái ấy.

Nhóm trẻ em đối chứng cũng có hoàn cảnh nghèo khó và thường chứng kiến cảnh bạo lực ở khu mình sinh sống. Khi nghiên cứu này đang được thực hiện thì một cậu bé trong nhóm đã đổ xăng đốt bạn của mình. Một cậu bé khác bị dính vào một vụ nổ súng khi \đang đến trường cùng bạn và bố. Em bị thương còn bạn em đã chết. Khi chứng kiến nhiều cảnh bạo lực như vậy, liệu phản ứng của các em với những tấm thẻ có khác gì so với những em đang là bệnh nhân của bệnh viện hay không?

Một trong những tấm thẻ của chúng tôi mô tả khung cảnh gia đình (hình bên dưới):

Hai đứa trẻ mỉm cười nhìn bố mình đang sửa xe. Trong khi những em trong nhóm đối chứng kể câu chuyện với những cái kết bình yên như chiếc xe sẽ được sửa xong, ông bố sẽ chở hai con đến tiệm McDonald's thì những em bị sang chấn lại kể những câu chuyện khủng khiếp. Một bé gái nói rằng bé gái cầm búa trong bức ảnh sắp lấy búa đập vỡ sọ cha mình. Một bé trai chín tuổi từng bị lạm dụng thể chất nặng nề kể chi tiết rằng bé trai trong ảnh sẽ đá cái giá đỡ để chiếc xe sập xuống, đè nát cơ thể người bố, máu me sẽ bắn đầy gara.

Trong lúc kể những câu chuyện này, các em thuộc nhóm bệnh nhân tỏ vẻ rất hăng hái và mất trật tự. Không mấy ngạc nhiên khi hầu hết các em đã được chẩn đoán mắc ADHD (rối loạn tăng động giảm chú ý - Attention-deficit hyperactivity disorder) và hầu hết các em đều đã dùng thuốc Ritalin dù dường như thuốc này không làm dịu được sự kích thích của các em trong tình huống này.

Những đứa trẻ bị lạm dụng có câu trả lời tương tự khi xem tấm ảnh của bóng một người phụ nữ mang thai in trên cửa sổ (hình bên dưới). Khi chúng tôi đưa bức ảnh này cho một em bé 7 tuổi từng bị lạm dụng tình dục vào năm 4 tuổi, cô bé trò chuyện về các bộ phận sinh dục của nam và nữ, rồi liên tục hỏi Nina những câu hỏi như: “Cô đã quan hệ với bao nhiêu người rồi?”. Giống như nhiều bé gái khác tham gia nghiên cứu, vốn cũng từng bị lạm dụng tình dục, em kích động đến mức chúng tôi phải dừng lại.

Một bé gái 7 tuổi trong nhóm đối chứng đã cảm nhận được tâm trạng buồn của nhân vật bức ảnh. Em kể rằng đó là một góa phụ đang buồn bã nhìn ra ngoài cửa sổ, nhớ về chồng mình. Nhưng cuối cùng, người phụ nữ ấy đã tìm được một người đàn ông tốt để làm cha của đứa con mình.

Sau khi cho hai nhóm trẻ xem từng tấm thẻ một, chúng tôi nhận thấy các em chưa bị lạm dụng tuy có cảnh giác với rắc rối nhưng chúng vẫn tin tưởng vào một thế giới hiền hòa và có thể tưởng tượng ra cách để thoát khỏi những tình huống xấu. Chúng dường như cảm thấy an toàn và được bảo vệ trong vòng tay gia đình. Các em cũng cảm thấy ít nhất mình đang được cha hoặc mẹ yêu thương, và điều này dường như ảnh hưởng đáng kể đến sự nhiệt tình học tập và tham gia vào các hoạt động trường lớp của các em.

Các câu trả lời của các em thuộc nhóm bệnh nhân rất đáng báo động. Những bức ảnh trong trẻo, ngây thơ nhất vẫn khuấy động trong các em cảm xúc nguy hiểm, hiếu chiến, kích thích tình dục và khiếp sợ. Chúng tôi chọn những bức ảnh này để đưa cho các em xem đơn giản vì đây là những bức ảnh đời thường, chứ không phải đây là những bức ảnh hàm chứa ẩn ý mà chỉ người nhạy cảm mới có thể nhìn ra. Chúng ta chỉ có thể kết luận rằng đối với trẻ em bị lạm dụng, cả thế giới đầy rẫy những sự kích động. Chừng nào trẻ còn có thể tưởng tượng ra những tai họa nặng nề xuất phát từ những tình huống tương đối ôn hòa thì chừng đó, bất cứ ai đi vào phòng, bất kỳ người lạ, bất kỳ hình ảnh nào dù là trên màn hình hay trên tấm bảng quảng cáo đều có thể được các em xem là dấu hiệu của thảm họa. Nếu nhìn theo góc độ này, hành vi dị thường của những trẻ em nhóm bệnh nhân là hoàn toàn có lý”.

Tôi rất ngạc nhiên khi thấy các buổi thảo luận của nhân viên bệnh viện hiếm khi đề cập đến những trải nghiệm thực tế khủng khiếp của các em và tác động của các sang chấn đó lên cảm xúc, suy nghĩ và việc tự điều chỉnh bản thân của các em. Thay vào đó, hồ sơ y tế của các em ghi đầy những chẩn đoán như “rối loạn hành vi”, “rối loạn thách thức chống đối”, hoặc “rối loạn lưỡng cực”. ADHD (“rối loạn tăng động giảm chú ý”) là một chẩn đoán “đồng bệnh” cho hầu hết mọi đứa trẻ. Liệu các chẩn đoán này có che mất những sang chấn bên trong các em?

Bây giờ chúng tôi phải đối mặt với hai thách thức lớn: Một là tìm hiểu xem có phải thế giới quan của trẻ giúp chúng có khả năng hồi phục, và từng đứa trẻ hình thành thế giới quan của mình như thế nào. Câu hỏi còn lại cũng quan trọng không kém: Liệu có thể giúp tâm trí và bộ não của những trẻ em từng bị bạo hành xây dựng lại bản đồ tâm trí của chúng, và hợp nhất lòng tin tưởng với sự tự tin hay không?

⚝ ✽ ⚝

NGHIÊN CỨU VỀ NHỮNG ĐỨA TRẺ THIẾU MẸ

Nhà tâm thần học vĩ đại thế kỷ XX John Bowlby và một số nhà khoa học khác đã say mê nghiên cứu vai trò của mẹ đối với trẻ em. Trong và sau khi phục vụ Thế chiến thứ hai, John Bowlby quan sát thấy trẻ em thường đau khổ khi bị tách rời khỏi cha mẹ bất kể thời gian ngắn hay dài.

Vào cuối những năm 1940, Bowlby tuyên bố rằng những hành vi quấy phá của trẻ em chính là cách trẻ phản ứng khi bị bỏ mặc, bị đối xử tàn bạo, bị chia cắt với người thân, chứ không phải là sản phẩm của thế giới tưởng tượng của trẻ. Ông đã dành phần còn lại của cuộc đời để phát triển thuyết Gắn bó (Attachment theory).

⚝ ✽ ⚝

CHA MẸ LÀ NƠI NƯƠNG TỰA VỮNG CHÃI CHO CON

Khi chào đời, ta gào khóc để thông báo sự hiện diện của mình. Sẽ có ai đó lập tức đến bên ta, tắm cho ta, quấn khăn giữ ấm cho ta, cho ta ăn no, và tuyệt nhất là ta được da kề da với mẹ. Chúng ta là những sinh vật có tính xã hội sâu sắc, ta tìm kiếm vị trí của mình trong cộng đồng loài người. Tôi thích cách bác sĩ tâm thần nổi tiếng người Pháp Pierre Janet đã phát biểu: “Mỗi cuộc đời là một mảnh ghép nghệ thuật, được sắp đặt lại với nhau bằng mọi cách”.

Khi lớn lên, chúng ta dần dần học cách tự chăm sóc bản thân về thể chất lẫn cảm xúc. Chúng ta học bài học đầu tiên về việc tự chăm sóc bản thân từ chính cách chúng ta được người khác chăm sóc cho. Càng tương tác sớm và tương tác tốt với những người chăm sóc ta, ta càng nhanh nắm vững kỹ năng làm chủ bản thân. Có được những người cha người mẹ luôn yêu thương và truyền cho ta sức mạnh tức là ta đã có một nơi nương tựa vững chắc, giúp ta chống lại tất cả những điều tồi tệ nhất có thể xảy ra trong đời.

John Bowlby nhận ra rằng trẻ em rất thích những khuôn mặt và tiếng nói. Trẻ rất nhạy cảm với những biểu hiện trên khuôn mặt, tự thế, âm điệu của giọng nói, sự thay đổi về sinh lý, nhịp độ cử chỉ và hành động mới chớm. Ông xem những năng lực bẩm sinh này như một sản phẩm của tiến hóa, là điều thiết yếu đối với sự sinh tồn của những sinh linh bé nhỏ này.

Trẻ em cũng được lập trình để chọn một (hoặc cùng lắm là vài) người lớn để tạo dựng hệ thống giao tiếp tự nhiên của trẻ và tạo ra cầu nối gắn bó sơ khai của trẻ. Người lớn càng đáp ứng những nhu cầu của trẻ thì sự gắn bó giữa trẻ và người ấy càng sâu sắc hơn và trẻ càng phát triển những cách thức lành mạnh để đáp ứng với những người xung quanh tốt hơn.

Bowlby thường đến công viên Regent ở London (Anh) để quan sát cách trẻ em tương tác với mẹ. Trong khi các bà mẹ ngồi lặng lẽ đan len hay đọc sách báo trên băng ghế thì con họ sẽ đi lang thang khám phá, đôi khi trẻ sẽ ngoái nhìn qua vai để biết rằng mẹ vẫn đang dõi nhìn theo mình.

Nhưng khi thấy một người hàng xóm tiến đến nói chuyện rôm rả với mẹ, trẻ sẽ chạy lại gần mẹ để đảm bảo rằng mẹ vẫn còn chú ý đến mình. Trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ sẽ thấy lo lắng nếu chúng nghĩ mẹ không toàn tâm chú ý tới mình. Khi mẹ biến mất khỏi tầm mắt, bé có thể khóc nức nở, không ai có thể dỗ dành được. Nhưng ngay khi mẹ quay lại, trẻ sẽ nín khóc tiếp tục chơi.

Bowlby quan niệm rằng những mối quan hệ gắn bó chính là nền tảng vững chắc cho một đứa trẻ bước vào đời. Các nghiên cứu về sau khẳng định rằng có một điểm tựa an toàn có thể giúp người đang chìm trong đau khổ cảm thấy được cảm thông và tự phục hồi nhanh hơn. Nhờ xây dựng mối quan hệ gắn bó với những người khác mà trẻ em học được rằng người khác sẽ có những cảm xúc và suy nghĩ giống hoặc khác với mình. Nói cách khác, trẻ “đồng bộ” với môi trường và với những người xung quanh, phát triển sự tự nhận thức, sự cảm thông, kiểm soát cơn hưng phấn và sự tự lực để có thể trở thành một thành viên có ích cho xã hội rộng lớn. Đau đớn thay, các phẩm chất này hoàn toàn không có ở các trẻ bị sang chấn.

⚝ ✽ ⚝

VŨ KHÚC ĐỒNG ĐIỆU

Trẻ em gắn bó với những người thường xuyên gần gũi, chăm sóc chúng. Nhưng bản chất của sự gắn bó này - an toàn hay không an toàn – đều tạo ra sự khác biệt rất lớn trong suốt cuộc đời một đứa trẻ.

Sự gắn bó an toàn nảy nở khi người chăm sóc trẻ có sự đồng điệu về cảm xúc. Sự đồng điệu bắt đầu ở mức độ thể lý tương đối tinh vi trong tương tác giữa trẻ sơ sinh và người chăm sóc, và nó cho đứa bé cảm giác được thấu hiểu, được đáp ứng các nhu cầu. Nhà nghiên cứu thuyết gắn bó Colwyn Trevarthen nói rằng: “Bộ não điều khiển các cử chỉ nhịp nhàng của cơ thể và hướng dẫn chúng hành động trong sự đồng cảm với người khác. Trẻ sơ sinh nghe và học từ cuộc nói chuyện của mẹ, ngay cả trước khi chào đời”.

Trong chương 4, tôi đã mô tả khám phá về các tế bào thần kinh gương, các liên kết não mang lại cho chúng ta khả năng thấu cảm. Những tế bào thần kinh gương bắt đầu hoạt động ngay từ khi đứa bé chào đời. Khi nhà nghiên cứu Andrew Meltzoff thuộc Đại học Oregon chu môi hay lè lưỡi với những trẻ sơ sinh mới có 6 giờ tuổi, trẻ nhanh chóng bắt chước lại hành động của ông. (Trẻ sơ sinh chỉ có thể tập trung vào các vật thể cách mắt khoảng 20-30,5cm, vừa đủ để thấy người đang bằng chứng). Bắt chước là kỹ năng xã hội cơ bản nhất của con người. Nó đảm bảo chúng ta có thể tự động ghi nhận và phản ánh lại hành vi của cha mẹ, thầy cô và bạn bè của mình.

Hầu hết cha mẹ kết nối với con một cách tự phát nên hầu như họ không nhận thức được sự đồng điệu giữa mình và con diễn ra như thế nào. Tuy nhiên, nhờ một người bạn, nhà nghiên cứu Ed Tronick, tôi đã có cơ hội quan sát quá trình đó chặt chẽ hơn.

Qua tấm gương một chiều tại Phòng thí nghiệm Phát triển Con người của Harvard, tôi đã quan sát một người mẹ chơi đùa với đứa con trai 2 tháng tuổi. Bé ngồi trên ghế, đối diện với mẹ. Hai mẹ con lắc lư, đùa giỡn vui vẻ với nhau. Khi người mẹ nghiêng người để vuốt ve bé, trong sự phấn khích đứa bé túm tóc mẹ rồi giật mạnh. Người mẹ bị bất ngờ và kêu lên vì đau, hất tay bé ra trong khi gương mặt nhăn nhó vì giận. Em bé buông ra ngay lập tức, và hai mẹ con cách xa nhau ra. Đối với cả hai, nguồn vui đã trở thành nguồn gốc của sự khó chịu. Bé sợ hãi lấy hai tay che mặt để tránh ánh nhìn giận dữ của người mẹ. Đổi lại, người mẹ nhận thấy con mình đang buồn bèn tập trung chú ý lại vào bé, bà mẹ tạo ra những âm thanh êm ái để làm dịu tình hình. Đứa bé vẫn lấy tay che mắt, nhưng rồi nhanh chóng khao khát được kết nối lại với mẹ. Bé bắt đầu hé nhìn qua bàn tay để chắc rằng mọi việc đều ổn, trong khi đó người mẹ âu yếm đưa tay về phía bé. Khi mẹ bắt đầu cù vào bụng bé, bé bỏ hai tay ra khỏi mặt, vui vẻ bật cười khanh khách. Sự hòa nhịp đã được thiết lập trở lại. Em bé và người mẹ lại một lần nữa đồng điệu với nhau. Toàn bộ quá trình vui vẻ, tan vỡ, sửa chữa và thiết lập niềm vui mới diễn ra trong vòng chưa đầy 12 giây!

Tronick và các nhà nghiên cứu khác đã cho thấy rằng khi trẻ sơ sinh và người chăm sóc đồng bộ về mặt cảm xúc thì hai người cũng sẽ đồng độ về mặt thể chất. Khi một đứa trẻ đồng bộ với người chăm sóc của mình, cảm xúc vui vẻ và kết nối đều được phản ánh trong nhịp tim và hơi thở của bé cũng như mức hormone của stress thấp. Cơ thể bé bình tĩnh, và cảm xúc bé cũng vậy. Khi sự đồng bộ bị gián đoạn – điều vẫn thường xảy ra trong cuộc sống hằng ngày – thì những yếu tố sinh lý này cũng thay đổi. Có thể nói sự cân bằng được khôi phục khi cơ thể đã bình tĩnh trở lại.

Chúng ta xoa dịu những đứa bé mới sinh, nhưng các bậc cha mẹ thường sớm dạy con mình chấp nhận các nhận cảm từ bên trong cơ thể ở mức độ cao hơn, nhiệm vụ này thường được giao cho người cha (Tôi từng nghe nhà tâm lý học John Gottman nói rằng: “Bố đấm, mẹ xoa”). Học cách kiểm soát các nhận cảm khơi dậy từ bên trong cơ thể là kỹ năng sống quan trọng, và cha mẹ phải làm điều đó cho trẻ sơ sinh trước khi trẻ có thể tự làm được.

Khi bé bật khóc vì cảm giác bụng cồn cào, mẹ sẽ lập tức cho bé bú. Khi bé sợ hãi, ai đó sẽ ôm lấy bé và đong đưa bé cho đến lúc bé bình tĩnh lại. Nếu bé tè hay i, ai đó sẽ đến rửa sạch và lau khô cho bé. Sự kết hợp của những cảm giác mãnh liệt về sự an toàn, thoải mái và sự kiểm soát chính là nền tảng của sự tự điều chỉnh, tự xoa dịu và tự nuôi dưỡng.

Gắn bó an toàn với ai đó kết hợp với năng lực tự trau dồi sẽ giúp ta xây dựng sự kiểm soát xung năng (internal locus of control) - yếu tố then chốt để đương đầu một cách lành mạnh với những sóng gió trong suốt cuộc đời”.

Trẻ em có sự gắn bó an toàn sẽ học được điều gì khiến chúng thấy ổn thỏa, điều gì khiến chúng và những người khác) cảm thấy tồi tệ: Hành động của mình có thể thay đổi cách mình cảm nhận và thay đổi cả cách người khác phản ứng. Trẻ biết được đâu là tình huống trẻ có thể kiểm soát, đâu là tình huống trẻ cần được giúp đỡ.

Trẻ cũng biết rằng chúng có thể đóng vai trò tích cực khi đối mặt với những tình huống khó khăn.

Ngược lại, trẻ em có tiền sử bị ngược đãi và bỏ mặc nhận ra dù chúng có sợ hãi, van xin, khóc lóc thì những người chăm sóc chúng cũng chẳng thèm đoái hoài. Chúng không thể làm gì nói gì để ngăn người đó đánh đập chúng, cũng không thể kêu gọi sự chú ý và giúp đỡ. Kết quả là chúng buộc phải đầu hàng khi đối mặt với những thách thức về sau trong cuộc đời.

NHỮNG ĐIỀU LÀ “THẬT"

Bác sĩ nhi khoa kiêm nhà phân tâm học Donald Winnicott là cha đẻ của các nghiên cứu hiện đại về sự đồng điệu. Ông bắt đầu bằng cách quan sát thoáng qua cách các bà mẹ giữ con. Ông cho rằng những tương tác thể lý này là nền tảng cho trẻ hình thành những cảm nhận về bản thân và từ đó hình thành ý thức suốt đời về tính cách, về bản thân mình. Cách một người mẹ ôm đứa con của mình chính là Cơ sở cho “khả năng cảm nhận được rằng cơ thể chính là nơi nương náu của tâm hồn”8. Cảm giác gắn bó giữa cơ thể mẹ và con chính là nền móng cho những gì chúng ta cho là “thật” trong cuộc đời này”.

Winnicott nghĩ rằng phần lớn các bà mẹ có thể đồng điệu với con mình mà không cần đến một tài năng phi thường nào, ông gọi đó là “một người mẹ đủ tốt”10. Nhưng mọi việc có thể trở nên tệ hại khi các bà mẹ không thể nắm bắt và thích ứng kịp thời với nhu cầu thực tế của bé. Nếu một người mẹ không thể đáp ứng được nhu cầu và kích thích của bé thì “bé sẽ học cách để trở thành người mà mẹ muốn bé trở thành”. Bé phải tiết chế những cảm giác bên trong và cố gắng điều chỉnh với đòi hỏi của người chăm sóc, tức là bé nhận thức rằng “có điều gì đó không ổn” khi bé làm theo ý mình. Những em bé không có được sự kết nối hài hòa về thể chất với người chăm sóc thường tắt các phản hồi trực tiếp từ chính cơ thể mình – vốn là nơi trú ngụ niềm vui, mục đích và định hướng sống.

Sau khi Bowlby và Winnicott trình bày ý tưởng này, nhiều nghiên cứu về sự gắn bó đã cho thấy phần lớn trẻ em gắn kết chặt chẽ với người chăm sóc mình. Khi lớn lên, dấu ấn của sự chăm sóc đáng tin cậy và dễ cảm nhận sẽ giúp trẻ bớt sợ hãi, lo lắng. Trẻ sẽ duy trì trạng thái an toàn về tình cảm trong suốt cuộc đời nếu không gặp phải những sự kiện quá sức chịu đựng trong cuộc sống - sang chấn – làm hỏng hệ thống tự điều chỉnh của trẻ.

Có sự gắn bó an toàn với người chăm sóc cũng định hình một khuôn mẫu cho các mối quan hệ của trẻ. Trẻ hiểu cảm xúc của người khác và học cách phân biệt giữa trò chơi và hiện thực, trẻ trở nên nhạy bén trước những tình huống giả tạo hoặc những con người nguy hiểm. Những trẻ có sự gắn bó an toàn thường biết cách chơi với bạn bè, biết cách thể hiện mình với những người cùng vai phải lứa. Trẻ học được cách hòa hợp với người khác, có xu hướng nhận thấy những thay đổi tinh tế trong giọng nói và trên khuôn mặt của người khác để từ đó điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp. Các em học cách sống trong một sự hiểu biết chung về thế giới và có thể trở thành những thành viên có giá trị của cộng đồng.

Tuy nhiên, vòng xoắn đi lên này có thể bị đảo ngược khi trẻ bị lạm dụng hoặc bị bỏ bê. Trẻ em từng bị lạm dụng thường rất nhạy cảm với những thay đổi trong giọng nói và trên khuôn mặt của người khác, nhưng trẻ thường phản ứng như thể đây là những mối đe dọa chứ không phải là tín hiệu để trẻ điều chỉnh bản thân cho đồng điệu với người đó.

Tiến sĩ Seth Pollak của Đại học Wisconsin đã giới thiệu một loạt hình là các biểu cảm gương mặt của cùng một người phụ nữ cho một nhóm trẻ 8 tuổi bình thường và một nhóm trẻ 8 tuổi từng bị lạm dụng. Sau đó, ông so sánh phản ứng của hai nhóm trẻ này. Khi xem chùm hình biểu hiện gương mặt từ trạng thái giận dữ đến buồn bã, những trẻ từng bị lạm dụng đã tỏ ra cảnh giác cao độ trước những biểu hiện giận dữ dù là nhỏ nhất.

Đây là một trong những lý do khiến trẻ em bị lạm dụng dễ dàng trở nên phòng thủ hay sợ hãi. Hãy thử tưởng tượng bạn cảm thấy như thế nào khi đi ngang qua hành lang trường học, nơi này đang có một hàng người với những gương mặt mang nhiều sắc thái khác nhau, bạn cố gắng tìm xem ai là người có thể tấn công bạn.

Những đứa trẻ có phản ứng thái quá khi bị bạn bè gây gổ, hoặc những đứa trẻ không hiểu được nhu cầu của bạn bè mình, thường bị bạn bè cách ly hoặc không cho chơi chung. Dần dà, chúng có thể học cách che giấu nỗi sợ bằng cách kháng cự mạnh mẽ hoặc các em càng lúc càng dành nhiều thời gian ở một mình, xem tivi hoặc chơi trò chơi điện tử. Điều này càng khiến các em giao tiếp kém hơn và càng khó làm chủ cảm xúc của mình hơn.

Nhu cầu gắn bó không bao giờ giảm đi. Hầu hết chúng ta không thể chịu đựng được việc bị tách ra khỏi người khác trong một khoảng thời gian. Những người không thể kết nối thông qua công việc, tình bạn hay gia đình thường tìm những cách liên kết khác như thông qua việc chữa trị bệnh tật, các vụ kiện tụng hoặc các mối thù trong gia đình. Kết nối kiểu gì thì cũng tốt hơn là cảm giác khốn khổ khi phải làm kẻ thừa thãi hoặc kẻ bị xa lánh.

Vài năm trước, vào đêm Giáng sinh, tôi được gọi đến để kiểm tra một cậu bé tên Jack (14 tuổi) tại nhà tù hạt Suffolk. Jack bị bắt vì đột nhập vào nhà hàng xóm khi họ đang đi nghỉ. Chuông báo trộm đã hú lên khi cảnh sát tìm thấy em trong phòng khách.

Câu hỏi đầu tiên tôi hỏi Jack là em mong ai sẽ đến nhà tù thăm em vào dịp Giáng sinh, Jack nói: “Chẳng ai cả, vì chẳng ai quan tâm cháu cả”. Hóa ra cậu bé từng nhiều lần bị cảnh sát bắt quả tang đột nhập vào nhà người khác đến mức quen mặt. Em vui vẻ, hạnh phúc kể rằng khi những người cảnh sát nhìn thấy em đang đứng giữa phòng khách của căn nhà nào đó, họ kêu lên: “Ôi trời, lại là Jack! Cái thằng ôn con này!”. Ôi, có người nhận ra em! Có người biết tên em! Một lúc sau, Jack thú nhận: “Chú biết không, đó chính là điều khiến cháu cảm thấy chuyện cháu đột nhập nhà người khác là đáng làm!”. Trẻ em sẽ làm bất cứ điều gì để được người khác quan tâm và gắn kết.

⚝ ✽ ⚝

CHUNG SỐNG VỚI CHA MẸ

Trẻ em có một bản năng sinh học muốn gắn bó – chúng không có lựa chọn nào khác. Dù cha mẹ yêu thương, gần gũi hay ghét bỏ, xa cách, lạm dụng trẻ thì trẻ vẫn phát triển một cách đối phó nào đó để những nhu cầu của trẻ được đáp ứng ở mức tối thiểu.

Hai nhà khoa học người Mỹ là Mary Ainsworth và Mary Main cùng các đồng nghiệp đã dành hàng ngàn giờ quan sát các cặp mẹ con trong nhiều năm. Dựa trên những nghiên cứu này, Ainsworth đã tạo ra một công cụ nghiên cứu gọi là Tình huống xa lạ (Strange Situation) để xem trẻ phản ứng như thế nào khi bị tạm thời tách rời khỏi mẹ. Cũng giống như Bowlby đã quan sát được, những trẻ sơ sinh gắn bó chặt chẽ với mẹ thường rất buồn bã khi bị tách rời khỏi mẹ, khi mẹ quay lại, trẻ tỏ ra vui sướng, và sau khi kiểm tra nhanh để chắc chắn rằng mẹ không bỏ mình đi nữa, trẻ mới an tâm trở lại và tiếp tục vui chơi.

Nhưng đối với những bé sơ sinh không được gắn bó chặt chẽ với mẹ, bị mẹ bỏ mặc, không nhận được sự quan tâm yêu thương từ người chăm sóc, thì trẻ có những phản ứng phức tạp hơn. Các nhà nghiên cứu nhận thấy có hai kiểu phản ứng: một số bé có vẻ rất khó chịu và đòi hỏi nhiều ở người mẹ, một số bé tỏ ra thụ động và xa lánh mẹ hơn. Cả hai kiểu biểu hiện này cho thấy mối liên hệ với người mẹ không thể khiến trẻ bình tĩnh lại để có thể yên tâm vui chơi.

Có một kiểu phản ứng gọi là “gắn bó tránh né” (avoidant attachment) nghĩa là dường như chẳng có vấn đề gì có thể làm bé khó chịu – bé không khóc khi mẹ bỏ đi, bé phớt lờ mẹ khi mẹ quay trở lại. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là bé không bị ảnh hưởng bởi việc mẹ rời đi. Thực tế cho thấy nhịp tim bé tăng cao, tức là bé liên tục bị kích thích quá mức. Các đồng nghiệp của tôi và tôi gọi mô hình này là “xử lý nhưng không cảm thấy”. Đa số những người mẹ của các em bé tránh né này thường không thích chạm vào con của mình. Những phụ nữ này thấy rất khó khăn khi âu yếm và giữ con. Họ không dùng những biểu hiện trên khuôn mặt và tiếng nói của mình để vui đùa với con.

Một kiểu mẫu khác, gọi là gắn bó “lo lắng” hoặc “nước đôi”, trẻ sơ sinh liên tục thu hút sự chú ý của mẹ bằng cách khóc lóc, la hét, hoặc đeo bám: Chúng đang “cảm thấy nhưng không xử lý”13. Chúng dường như đã hiểu rằng nếu mình không gây rối thì sẽ không ai chú ý đến mình. Chúng trở nên cực kỳ khó chịu khi không biết mẹ mình đang ở đâu, nhưng chỉ cảm thấy an ủi được một chút khi mẹ trở về. Và dù chúng tỏ ra không thích sự hiện diện của mẹ, chúng vẫn ngấm ngầm hay giận dữ chú ý đến mẹ, trong khi những đứa trẻ bình thường khác ở trong tình huống này sẽ tập trung vui chơi 14.

Những nhà nghiên cứu về sự gắn bó tin rằng ba kiểu gắn bó (an toàn, tránh né, lo lắng) này gợi ra cách quan tâm tốt nhất mà một người chăm sóc có thể dành cho bé. Nên trẻ sơ sinh có được một hình thức chăm sóc nhất quán - ngay cả khi nó được đánh dấu bằng khoảng cách cảm xúc hoặc không nhạy cảm – thì trẻ có thể thích ứng để duy trì mối quan hệ. Điều đó không có nghĩa là không có vấn đề gì: Những hình thức gắn bó thường kéo dài đến tuổi trưởng thành. Một đứa trẻ thường xuyên lo lắng sau này sẽ trở thành một người lớn đầy lo lắng. Một đứa trẻ thường tránh né sau này sẽ trở thành một người lớn không thể kết nối với chính cảm xúc của mình và của người khác. (Giống như, “Phạt đòn roi thì chẳng có gì sai. Tôi bị phạt đòn và điều đó làm nên thành công của tôi ngày hôm nay.”) Tại trường học, trẻ em tránh né có thể bắt nạt những đứa trẻ khác, trong khi những đứa trẻ hay lo lắng lại là nạn nhân bị bắt nạt 15. Tuy nhiên, sự phát triển không tuyến tính và nhiều trải nghiệm sống có thể thay đổi những kết quả này.

Nhưng có một nhóm khác thích nghi kém ổn định hơn, một nhóm chiếm phần lớn trong số các trẻ em chúng tôi điều trị và một tỷ lệ đáng kể ở những người lớn tại các phòng khám tâm thần. Cách đây 20 năm, Mary Main và các đồng nghiệp tại Berkeley bắt đầu nhận diện một nhóm trẻ (khoảng 15% những trẻ em mà họ đã nghiên cứu) dường như không thể hiểu được làm thế nào để giao tiếp với người chăm sóc của chúng. Vấn đề quan trọng hóa ra nằm chỗ chính những người chăm sóc lại là nguồn gốc gây ra nỗi đau khổ hoặc nỗi khiếp sợ cho các em 16.

Trẻ em trong tình huống này không thể dựa vào ai, và chúng phải đối mặt với tình trạng tiến thoái lưỡng nan không thể giải quyết được: Mẹ của chúng vừa là nguồn sống của trẻ, vừa là người khiến trẻ khiếp sợ!”. Chúng “vừa không thể tiếp cận (chiến lược an toàn và nước đối), thay đổi sự chú ý của chúng (chiến lược né tránh), hay chạy trốn khỏi mẹ” 18.

Nếu bạn quan sát những đứa trẻ đó trong trường mẫu giáo hoặc trong phòng nghiên cứu sự gắn bó, bạn sẽ thấy trẻ nhìn về phía bố mẹ khi họ bước vào phòng rồi ngay lập tức quay mặt đi chỗ khác. Không thể chọn giữa việc gần gũi hay tránh né cha mẹ, nên trẻ chỉ biết ngồi đong đưa, hai tay ôm lấy đầu gối, trông như thể đang rơi vào trạng thái hôn mê, hai tay như đông cứng lại, hoặc trẻ sẽ đứng lên chào bố mẹ rồi lại ngồi thụp ngay xuống.

Trẻ không biết ai là người an toàn với trẻ, trẻ cũng không biết mình thuộc về ai, thế nên trẻ có thể hoặc là có tình cảm sâu sắc với người lạ hoặc sẽ chẳng tin tưởng một ai. Main gọi thể loại này là “gắn bó hỗn độn” (disorganized attachment), tức là “sợ hãi mà không thể giải quyết nỗi sợ của mình” 19.

⚝ ✽ ⚝

HỖN ĐỘN TỪ BÊN TRONG

Các bậc cha mẹ có tính chu đáo thường trở nên hoảng sợ khi họ khám phá ra nghiên cứu gắn bó, lo rằng việc thường xuyên thiếu kiên nhẫn hoặc những sai sót bình thường của họ có thể làm tổn hại vĩnh viễn con cái. Trong cuộc sống, ta khó tránh khỏi những hiểu lầm, những phản hồi không tốt, những thất bại trong giao tiếp. Bởi vì cha mẹ bỏ qua những tín hiệu hoặc chỉ đơn giản là bận tâm với những vấn đề khác, trẻ sơ sinh thường bị bỏ lại để tự tìm ra cách giúp chính mình bình tĩnh trở lại. Nếu không vượt quá giới hạn thì đây không phải là vấn đề gì. Trẻ em cần học cách giải quyết nỗi thất vọng và sự chán nản của chính mình. Với người chăm sóc “đủ tốt”, trẻ em biết rằng các kết nối bị hỏng có thể được sửa chữa. Vấn đề quan trọng là liệu trẻ có thể kết hợp cảm giác an toàn bên trong với cha mẹ hoặc người chăm sóc hay không.

Trong một nghiên cứu về mô hình gắn bó trên hơn hai nghìn trẻ sơ sinh trong môi trường trung lưu “bình thường”, 62% đã được phát hiện là an toàn, 15% tránh né, 9% lo lắng (còn gọi là tình trạng nước đôi) và 15% bị rối loạn”. Điều thú vị là, nghiên cứu lớn này cho thấy giới tính và khí chất cơ bản của trẻ ít có ảnh hưởng đến kiểu gắn bó, ví dụ, trẻ em có tính khí “khó khăn” cũng không có xu hướng phát triển kiểu gắn bó rối loạn. Trẻ em từ các nhóm kinh tế xã hội thấp hơn thì có nhiều khả năng bị rối loạn hơn và có những bậc phụ huynh thường bị căng thẳng nghiêm trọng do sự bất ổn về kinh tế và gia đình.

Những trẻ em mà thuở sơ sinh không cảm thấy an toàn sẽ gặp khó khăn trong việc điều chỉnh tâm trạng và phản ứng cảm xúc khi chúng lớn lên. Đến tuổi đi học trường mẫu giáo, nhiều trẻ bị rối loạn sẽ bộc lộ tính gây hấn hoặc bần thần và xa lánh, và chúng tiếp tục phát triển một loạt các vấn đề tâm thần”. Chúng cũng biểu hiện stress sinh lý, thể hiện trong nhịp tim, biến thiên nhịp tim*, phản ứng hormone của stress, và các yếu tố miễn dịch thấp. Liệu loại rối loạn sinh lý logic này có tự động được khôi phục trở lại bình thường khi trẻ trưởng thành hay được chuyển đến một môi trường an toàn hay không? Cho đến nay chúng ta biết là không.

Việc bị bố mẹ lạm dụng không phải là lý do duy nhất gây ra gắn bó rối loạn ở trẻ: Các bậc phụ huynh bị bận tâm về sang chấn của mình, như bị lạm dụng trong gia đình hoặc hãm hiếp hay cái chết gần đây của cha mẹ hoặc anh chị em ruột, cũng có thể căng thẳng quá mức về cảm xúc và không phù hợp để mang lại sự thoải mái và an toàn cho trẻ 26.27. Mặc dù tất cả các phụ huynh đều cần được giúp đỡ để nuôi nấng an toàn những đứa con của mình, các bậc cha mẹ bị sang chấn càng đặc biệt cần được giúp đỡ để hòa hợp được với nhu cầu của con cái họ.

Người chăm sóc thường không nhận ra rằng họ đang mất sự đồng điệu với trẻ. Tôi nhớ rất rõ một cuộn băng ghi hình mà Beatrice Beebe từng cho tôi xem28. Trong đó có cảnh một người mẹ trẻ đang chơi đùa cùng đứa con trai ba tháng tuổi của mình. Mọi chuyện đang rất suôn sẻ cho đến khi đứa bé thu tay về và quay đầu đi, ra hiệu rằng bé cần nghỉ ngơi. Nhưng người mẹ đã không nhận ra tín hiệu này và có tăng cường nỗ lực tiếp cận bé bằng cách đưa mặt gần hơn về phía bé và tăng âm lượng giọng nói của mình. Khi bé càng co mình lại, cô càng sấn lại gần và chọc vào người bé. Cuối cùng, bé hét lớn, lúc này người mẹ đặt bé xuống và bỏ đi, vẻ buồn bã. Hẳn là cô ấy cảm thấy buồn lắm, nhưng chỉ vì cô ấy đã lỡ bỏ qua những tín hiệu liên quan. Thật dễ dàng để tưởng tượng việc thiếu đồng điệu này nếu lặp đi lặp lại nhiều lần, lâu dần có thể dẫn đến sự mất kết nối kinh niên. (Bất cứ ai nuôi một em bé biếng ăn hoặc hiếu động đều biết họ dễ bị stress đến mức nào và không có gì có thể khiến họ thấy khác đi.) Việc không thể khiến trẻ bình tĩnh lại và xây dựng một mối tương tác mặt đối mặt dễ chịu trong một thời gian dài có thể khiến người mẹ có xu hướng xem bé là một đứa trẻ khó tính, là nguyên nhân khiến cô cảm thấy mình thất bại, và không còn muốn dỗ dành bé nữa.

Trong thực tế, rất khó để phân biệt được các vấn đề phát sinh từ sự gắn bó rối loạn với những vấn đề phát sinh do sang chấn: Chúng thường trùng lắp nhau. Đồng nghiệp của tôi, Rachel Yehuda, đã nghiên cứu tỷ lệ PTSD ở những người trưởng thành sống ở New York khi họ bị tấn công hoặc hãm hiếp. Trong số họ, những người có mẹ là nạn nhân sống sót sau thảm họa diệt chủng bị mắc PTSD thì sau khi trải qua sang chấn, tỷ lệ phát triển vấn đề tâm lý nghiêm trọng ở họ sẽ cao hơn. Giải thích hợp lý nhất là quá trình được nuôi dạy đã khiến sinh lý họ dễ bị tổn thương, khiến họ khó lấy lại cân bằng sau khi bị lạm dụng. Yehuda đã phát hiện ra một điểm yếu tương tự ở trẻ em là con của những phụ nữ đang mang thai khi xảy ra sự kiện Trung tâm Thương mại Thế giới bị tấn công vào năm 200130.

Tương tự, phản ứng của trẻ em với các sự kiện đau đớn phần lớn được xác định qua việc cha mẹ các em thường bình tĩnh hay căng thẳng như thế nào. Học trò cũ của tôi, Glenn Saxe, hiện là trưởng khoa Tâm thần học trẻ em và thanh thiếu niên tại Đại học New York, cho thấy khi trẻ được nhập viện để điều trị bỏng nặng, sự phát triển của PTSD có thể tiên đoán được qua cách chúng cảm thấy an toàn thế nào khi có mẹ ở bên cạnh. Sự gắn bó của các em với mẹ cũng có thể giúp dự đoán lượng morphine cần thiết để giảm đau - trẻ gắn bó với mẹ càng chặt chẽ, trẻ càng cần ít thuốc giảm đau.

Một đồng nghiệp khác, Claude Chemtob, người chỉ đạo Chương trình Nghiên cứu Sang chấn Gia đình tại Trung tâm у tế NYU Langone, đã nghiên cứu 112 trẻ em ở thành phố New York, những người trực tiếp chứng kiến vụ tấn công khủng bố vào ngày 11 tháng 992. Những em có mẹ bị chẩn đoán PTSD hoặc trầm cảm có nguy cơ có những vấn đề về cảm xúc cao gấp sáu lần và có khả năng hung hăng cao gấp mười một lần khi phản ứng với những trải nghiệm của mình. Trẻ em có bố bị PTSD cũng có những vấn đề về hành vi, nhưng Chemtob phát hiện ra sự ảnh hưởng này có tính gián tiếp và đã lây truyền qua mẹ. (Sống chung với một người chồng hốc hác, e dè, hoặc sợ hãi có thể áp đặt gánh nặng tâm lý lớn cho người VỢ, kể cả trầm cảm).

Nếu bạn không có cảm giác an toàn bên trong, bạn rất khó phân biệt giữa an toàn và nguy hiểm. Nếu bạn cảm thấy bị tê liệt kinh niên, những tình huống nguy hiểm rình rập có thể khiến bạn cảm thấy như mình còn sống. Nếu bạn kết luận rằng mình hẳn là một người xấu xa (nếu không thì tại sao bố mẹ bạn lại đối xử với bạn như vậy?) thì bạn bắt đầu kỳ vọng rằng người khác cũng sẽ đối xử với bạn kinh khủng như thế, bạn nghĩ mình đáng phải bị như vậy, và dù gì thì bạn có làm gì khác hơn được đâu. Khi những người bị rối loạn có những nhận thức như thế này, họ sẽ bị sang chấn khi gặp những trải nghiệm tiếp theo 33.

⚝ ✽ ⚝

ẢNH HƯỞNG LÂU DÀI CỦA GẮN BÓ HỖN ĐỘN

Vào đầu những năm 1980, đồng nghiệp của tôi Karlen Lyons Ruth, một nhà nghiên cứu của Harvard, đã bắt đầu quay bằng lại các cuộc đối thoại mặt đối mặt giữa mẹ và trẻ sơ sinh vào sáu tháng, mười hai tháng và mười tám tháng tuổi. Cô đã ghi lại một lần nữa khi bọn trẻ được 5 tuổi và một lần nữa khi chúng 7 hoặc 8 tuổi. Tất cả đều thuộc các gia đình có nguy cơ cao: 100% thuộc diện đói nghèo của bang và gần một nửa trong số đó là mẹ đơn thân.

Gắn bó hỗn độn biểu hiện qua hai cách: Một nhóm các bà mẹ dường như quá bận tâm với những vấn đề riêng của mình khi chăm sóc đứa con. Họ thường có tính hay kiểm soát và chống đối, họ chuyển từ việc từ chối đáp ứng cho trẻ sang thái độ mong chờ trẻ phản ứng lại với những nhu cầu của họ. Một nhóm các bà mẹ khác tỏ ra bất lực và sợ hãi. Ngoài mặt, họ thường tỏ ra ngọt ngào hay nhẹ nhàng, nhưng họ không biết cách để trưởng thành trong mối quan hệ và thường có xu hướng muốn con cái an ủi mình. Họ không chào đón con cái mình sau khi đi vắng một khoảng thời gian dài, không ẵm bé lên khi bé buồn. Các bà mẹ dường như không làm những điều này một cách cố ý – họ chỉ đơn giản là không biết làm thế nào để được hòa hợp với con cái của họ và phản ứng trước những tín hiệu của con, và do đó, không an ủi và trấn an con. Các bà mẹ hay xâm phạm/chống đối thường có tiền sử bị lạm dụng thể chất và/ hoặc chứng kiến bạo lực gia đình, trong khi bà mẹ bị tách biệt/phụ thuộc có nhiều khả năng từng bị lạm dụng tình dục hoặc mất cha mẹ (nhưng không bị lạm dụng thể chất) 35.

Tôi luôn tự hỏi làm thế nào mà các bậc cha mẹ có thể ngược đãi con của họ. Dù sao, nuôi dưỡng con khỏe mạnh là mục đích và ý nghĩa cốt lõi trong ý thức con người chúng ta. Điều gì có thể khiến cha mẹ phải cố tình gây tổn thương hoặc bỏ bê con cái? Nghiên cứu của Karlen đã cung cấp cho tôi một câu trả lời: Xem những đoạn băng ghi hình, tôi có thể thấy các em bé ngày càng trở nên khó dễ dành, buồn bã, hay kháng cự lại những người mẹ mất đồng điệu của mình. Song song đó, các bà mẹ ngày càng trở nên thất vọng, bỏ cuộc và bất lực trong tương tác của họ. Một khi người mẹ không xem đứa bé là một đối tác của một mối quan hệ đồng điệu, mà người mẹ lại xem con mình là một người lạ mặt khó chịu, cau có, không có liên kết, thì việc họ ngược đãi con cái là hệ quả theo sau.

Khoảng 18 năm sau, khi những đứa trẻ này được chừng 20 tuổi, Lyons-Ruth đã làm cuộc nghiên cứu tiếp theo để xem cách họ đang ứng phó với cuộc sống như thế nào. Những trẻ sơ sinh 18 tháng tuổi, có mô hình giao tiếp cảm xúc với mẹ bị rối loạn nghiêm trọng thì khi lớn lên, chúng trở thành những thanh niên có ý thức không ổn định về bản thân, có những hành vi bốc đồng tự gây tổn hại cho bản thân (bao gồm chi tiêu quá mức, lạm dụng tình dục, lạm dụng chất gây nghiện, lái xe thiếu thận trọng và ăn uống vô độ), tức giận dữ dội và không đúng lúc đồng thời có xu hướng tái lặp hành vi tự tử.

Karlen và đồng nghiệp dự đoán rằng những hành vi kiểm soát/ chống đối của người mẹ là yếu tố dự báo mạnh nhất cho sự mất ổn định tinh thần ở trẻ khi lớn lên, nhưng họ đã phát hiện ra điều ngược lại. Thu rút cảm xúc (emotional withdrawal) có tác động sâu sắc nhất và lâu dài nhất. Sự xa cách về cảm xúc và đảo ngược vai trò (trong đó, các bà mẹ mong con cái chăm sóc ngược lại mình) đặc biệt liên quan đến hành vi hung dữ, chống lại bản thân và người khác ở những người trẻ tuổi.

PHÂN LY: BIẾT VÀ KHÔNG BIẾT

Lyons-Ruth đặc biệt quan tâm đến hiện tượng phân ly, biểu hiện trong cảm giác lạc lõng, quá tải, buông thả, bị ngắt kết nối với thế giới, và nhìn nhận bản thân mình không được yêu thương, trống rỗng, bất lực, mắc kẹt và cảm giác nặng nề. Cô đã tìm thấy mối quan hệ “nổi bật và bất ngờ” giữa việc bị tách rời khỏi cha mẹ cộng với tình trạng mất sự đồng điệu trong hai năm đầu đời với các triệu chứng phân ly ở tuổi trưởng thành sớm. Lyons-Ruth kết luận rằng trẻ sơ sinh không được mẹ thực sự quan tâm và thấu hiểu có nguy cơ cao phát triển thành thanh thiếu niên không có khả năng quan tâm và thấu hiểu 36.

Những trẻ em sống trong các mối quan hệ an toàn học được cách giao tiếp không chỉ về nỗi buồn rầu và khó chịu, mà còn về những bản ngã đang thành hình – sở thích, mong muốn, mục tiêu. Một phản ứng cảm thông sẽ là đệm đỡ cho đứa bé (và người lớn) chống đỡ được trước những kích thích sợ hãi tột độ. Nhưng nếu người chăm sóc của bạn bỏ qua nhu cầu của bạn, hoặc bực bội trước sự tồn tại của bạn, thì bạn học cách dự đoán sự từ chối và tự khép mình. Bạn cũng có thể đương đầu bằng cách ngăn chặn sự chống đối hoặc bỏ bê của mẹ và hành động như thể nó không thành vấn \đề, nhưng cơ thể bạn vẫn ở trạng thái báo động cao, chuẩn bị để tránh những cú đánh, bỏ cuộc, hoặc bị bỏ rơi. Sự phân ly có nghĩa là đồng thời biết và không biết 37.

Bowlby viết: “Những gì ta không thể nói được với người khác [mẹ thì ta cũng không thể nói được với chính bản thân mình”38. Nếu bạn không thể chịu được những gì bạn biết hoặc không thể cảm nhận được những gì bạn cảm thấy, thì lựa chọn duy nhất là từ chối và phân ly. Có lẽ tác động lâu dài tàn phá nhất của việc ngưng hoạt động này là không thực sự cảm thấy được phần bên trong mình, một tình trạng chúng tôi thấy ở các trẻ tại Phòng khám Nhi cũng như ở các trẻ và người lớn đang chữa trị ở Trung tâm Điều trị Sang Chấn. Khi bạn thực sự không cảm nhận được cái gì cả, điều này cũng khiến bạn không thể tự bảo vệ chính mình khỏi nguy hiểm. Hoặc bạn có thể dùng những biện pháp cực đoan để khiến bản thân cảm nhận được cái gì đó – thậm chí là dùng dao lam cắt vào tay hay ẩu đả với người lạ.

Nghiên cứu của Karlen cho thấy sự phân ly khởi phát từ rất sớm: Những lạm dụng hoặc các sang chấn sau này không phải nguyên nhân gây ra các triệu chứng phân ly ở người trưởng thành trẻ tuổi+0. Lạm dụng và sang chấn đã gây ra nhiều vấn đề khác, nhưng không phải là tình trạng phân ly hoặc tự làm hại chính bản thân. Vấn đề quan trọng là những bệnh nhân này không biết làm thế nào để cảm thấy an toàn. Thiếu sự an toàn trong mối quan hệ với người chăm sóc vào thuở ban đầu đã dẫn đến một cảm giác bất lực về nhận thức thực tế bên trong, bám víu quá mức, và hành vi tự hủy hoại. Nghèo đói, cha mẹ đơn thân, hoặc các triệu chứng về tâm thần không dự đoán được cho những triệu chứng này.

Điều này không ngụ ý rằng nạn lạm dụng trẻ em là vô canºl, nhưng chính chất lượng của sự chăm sóc vào thuở ban đầu là vô cùng quan trọng trong việc ngăn ngừa các vấn đề sức khỏe tinh thần, nó độc lập với việc bị sang chấn 42. Vì lý do này, việc điều trị không chỉ phải giải quyết những dấu ấn của các sự kiện sang chấn cụ thể, mà còn phải giải quyết tình trạng phân ly và mất khả năng tự điều chỉnh, những hậu quả của việc không được phản ánh, hòa hợp, không được chăm sóc và có tình cảm nhất quán.

⚝ ✽ ⚝

KHÔI PHỤC SỰ ĐỒNG ĐIỆU

Các mô hình gắn bó sớm giúp hình thành các bản đồ tâm hồn (inner map) để biểu thị các mối quan hệ của chúng ta trong suốt cuộc đời, không chỉ về những gì chúng ta mong đợi từ người khác mà còn về mức độ thoải mái và niềm vui mà chúng ta có thể trải nghiệm được khi có họ. Tôi nghĩ rằng nhà thơ E. E. Cummings không thể viết nên những dòng “tôi thích cơ thể mình khi nó chạm vào thân xác em... những thớ cơ dẻo dai và mạch thần kinh linh hoạt” nếu những trải nghiệm đầu đời của ông là những gương mặt lạnh lùng và ánh nhìn dữ tợn 3. Bản đồ mối quan hệ của chúng ta có tính ngầm ẩn, khắc sâu vào não cảm xúc và không dễ dàng đảo ngược chỉ nhờ vào hiểu biết của chúng ta về cách thức nó được tạo ra. Bạn có thể biết rằng nỗi sợ hãi quan hệ tình dục của bạn có liên quan đến chứng trầm cảm hậu sản của mẹ mình hoặc chính bản thân bà bị lạm dụng tình dục khi còn nhỏ, nhưng chỉ nhận thức đó thì không đủ để làm bạn hạnh phúc hay tin tưởng vào người khác.

Tuy nhiên, việc nhận biết như thế có thể giúp bạn bắt đầu khám phá những cách khác để kết nối các mối quan hệ – vì lợi ích của riêng bạn và để không truyền lại sự gắn bó không chặt chẽ giữa bạn với con của mình. Trong phần V, tôi sẽ thảo luận về một số cách tiếp cận để hàn gắn các hệ thống đồng điệu bị hư hỏng thông qua việc huấn luyện về nhịp điệu và tính tương hỗ. Đồng bộ với chính bản thân và với người khác đòi hỏi phải hợp nhất các giác quan cơ thể – thị giác, thính giác, xúc giác và cân bằng. Nếu con người không trải nghiệm được điều này ở thời thơ ấu và trẻ thơ thì họ có nhiều nguy cơ gặp vấn đề trong việc hợp nhất cảm giác sau này (những vấn đề mà sang chấn và bỏ bể không phải là nguyên nhân duy nhất gây ra chúng).

Đồng bộ có nghĩa là cộng hưởng thông qua các âm thanh và cử chỉ kết nối được tìm thấy trong nhịp điệu cảm giác hằng ngày như nấu nướng, tắm rửa, đi ngủ và thức dậy. Đồng bộ có thể là cùng nhau làm những bộ dạng hài hước, thể hiện sự hào hứng hay bất đồng ý kiến đúng thời điểm, ném banh qua lại, hay cùng ca hát. Tại Trung tâm Điều trị Sang chấn, chúng tôi đã phát triển các chương trình để huấn luyện cha mẹ về kết nối và đồng điệu, và bệnh nhân của tôi đã cho tôi biết nhiều cách khác nhau để làm đồng điệu được bản thân mình, từ hát hợp xướng và nhảy múa tới lập những đội bóng rổ, ban nhạc jazz và các nhóm nhạc thính phòng. Tất cả những điều này thúc đẩy một cảm giác đồng điệu và niềm vui cộng đồng.