Chương 8 MẮC KẸT TRONG NHỮNG MỐI QUAN HỆ: CÁI GIÁ CỦA SỰ NGƯỢC ĐÃI VÀ BỎ RƠI
“Hành trình biển đêm” là cuộc hành trình tìm lại những phân của bản thân đã bị chia cách, chối bỏ và lưu đày đến các thế giới ngầm trong ý thức... để được đoàn tụ với chính mình. Sự trở về thế này có thể đau đớn, thậm chí tàn bạo. Để làm được, đầu tiên chúng ta phải chấp thuận là sẽ không đày ải bất cứ điều gì nữa.
Stephen Cope
Marilyn khoảng 35 tuổi, cao ráo, dáng người thể thao, làm y phòng mổ tại thị trấn lân cận. Cô kể với tôi rằng cách đá mấy tháng, cô bắt đầu chơi quần vợt tại câu lạc bộ thể thao với mộ lính cứu hỏa Boston tên là Michael. Cô thường né tránh đàn ông nhưng với anh Michael thì cô cảm thấy khá thoải mái. Một hôm Michael mời cô đi ăn pizza, cô đã đồng ý. Vừa ăn, họ vừa vui vẻ trò chuyện về những chủ đề không quá riêng tư như quần vợt, điện ảnh, những đứa cháu của mình,... Michael rõ ràng rất thích bầu bạn với cô, nhưng cô tự nhủ rằng anh ấy không biết gì nhiều về mình cả.
Một tối thứ Bảy, sau khi chơi quần vợt và cùng ăn pizza, cô mời anh ở lại nhà mình. Cô mô tả rằng mình cảm thấy “căng thẳng và mơ hồ” ngay khi họ ở một mình với nhau. Cô nhớ mình đã yêu cầu anh hãy đi chậm lại nhưng cô không nhớ gì nhiều sau đó. Sau vài ly rượu vang và xem phim, họ thiếp đi cùng nhau trên giường.
Khoảng 2 giờ sáng, Michael trở mình nên đụng vào người Marilyn, bất chợt Marilyn bùng nổ như kho thuốc súng, cô bật dậy dùng tay đấm Michael túi bụi, hết cào cấu đến cắn xé, la hét: “Đồ khốn nạn! Đồ khốn nạn!”. Michael bừng tỉnh, vội vàng vơ hết đồ đạc phóng như bay ra khỏi phòng.
Còn lại một mình, Marilyn ngồi trên giường suốt hàng giờ đồng hồ, choáng váng vì những gì vừa xảy ra. Cô cảm thấy nhục nhã và chán ghét bản thân vì những gì mình đã làm, thế nên cô tìm gặp tôi, nhờ giúp đỡ để không lặp lại chuyện vừa rồi.
Kinh nghiệm nghề nghiệp đã giúp tôi biết kiên nhẫn lắng nghe những câu chuyện đau lòng như của Marilyn mà không cố gắng bắt tay khắc phục vấn đề ngay lập tức. Triệu chứng của nhiều bệnh nhân thường bắt đầu bằng một hành vi không thể giải thích được như tấn công bạn trai vào giữa đêm, cảm thấy sợ hãi khi có ai đó nhìn vào mắt mình, thấy mình bị bao phủ bởi máu sau khi tự lấy mảnh kính cắt cơ thể mình, cố tình nôn mửa trong mỗi bữa ăn. Phải mất nhiều thời gian và sự kiên nhẫn mới có thể làm hiện rõ cái thực tế ẩn đằng sau những triệu chứng như vậy.
⚝ ✽ ⚝
NỖI SỢ VÀ SỰ TÊ LIỆTMarilyn nói với tôi rằng Michael là người đàn ông đầu tiên cô đưa về nhà trong hơn 5 năm qua, và đây không phải lần đầu CÔ mất kiểm soát bản thân khi gần gũi đàn ông. Cô lặp lại rằng cô luôn cảm thấy sợ hãi và xa cách khi ở một mình với một người đàn ông, và đã có những lần khác khi cô “định thần lại” trong căn hộ của mình, quỳ xuống ở một góc và không thể nhớ rõ những gì đã xảy ra.
Marilyn cũng nói rằng có cảm giác như thể mình chỉ đang “trải qua những chuyển động” của cuộc sống. Cô thường cảm thấy mình như tê liệt, trừ khi chơi quần vợt và làm việc trong phòng mổ. Vài năm trước, cô thấy khi dùng dao lam tự cắt mình có thể giúp mình cảm thấy đỡ hơn, nhưng dần dần cô sợ làm như vậy khi nhìn những vết cắt ngày một sâu trên cơ thể. Cô cũng đã cố gắng uống rượu nhưng chỉ khiến cô nhớ đến người cha nghiện rượu của mình, rồi từ đó lại ghê tởm bản thân. Vì vậy, cô chọn cách chơi quần vợt điên cuồng, chơi bất cứ khi nào có thể để cảm thấy mình đang sống.
Khi tôi hỏi về quá khứ của cô, Marilyn nói cô đoán mình “hẳn đã có một tuổi thơ hạnh phúc”, nhưng chẳng nhớ được bao nhiêu ký ức trước năm 12 tuổi. Cô nói từ bé cô vốn nhút nhát, nhưng đến năm 16 tuổi, cô đã xô xát với với người cha nghiện rượu, sau đó cô bỏ nhà đi. Cô vừa làm vừa học và trở thành y tá mà không cần bố mẹ giúp đỡ. Cô cảm thấy xấu hổ vì hiện tại đang có quan hệ trai gái với rất nhiều người, việc mà cô mô tả là “tìm kiếm tình yêu ở những nơi sai trái”.
Như tôi thường làm với bệnh nhân mới, tôi đã yêu cầu Marilyn vẽ một bức chân dung gia đình. Khi nhìn thấy bản vẽ của cổ (hình trang sau), tôi quyết định mình sẽ đi chậm lại khi nghiên cứu trường hợp của cô. Rõ ràng Marilyn đã có một số ký ức khủng khiếp, nhưng cô không cho phép mình nhận ra những gì mà bức vẽ của cô bộc lộ. Cô đã vẽ một đứa trẻ hoang dã và sợ hãi, bị mắc kẹt trong một cái lồng nào đó, bị đe dọa bởi một cái dương vật khổng lồ và ba con người đáng sợ, trong đó một người không có mắt. Vậy mà cô ấy đã nói mình “hẳn đã có một tuổi thơ hạnh phúc”.
Tôi không thúc giục Marilyn kể về những gì cô còn nhớ. Trên thực tế, tôi hiểu rằng việc tôi biết rõ từng chi tiết về sang chấn của bệnh nhân thực sự chẳng quan trọng, mà điều quan trọng chính là bản thân người bệnh phải học được cách chịu đựng những cảm xúc mà họ có và biết được những gì họ biết. Việc này phải mất nhiều tuần thậm chí nhiều năm. Tôi quyết định bắt đầu quá trình chữa trị cho Marilyn bằng cách mời cô tham gia nhóm trị liệu, nơi cô có thể nhận được sự hỗ trợ và đón nhận từ người khác trước khi phải đối mặt với thứ đã khiến cô trở nên nghi ngờ, xấu hổ và giận dữ.
Đúng như tôi dự đoán, Marilyn trông có vẻ rất khiếp đảm khi lần đầu đến buổi gặp mặt trị liệu nhóm, vẻ khiếp đảm của cô y hệt cô bé trong bức tranh gia đình do cô vẽ. Cô khép mình, chẳng bắt chuyện với ai cả. Tôi đã chọn nhóm này cho cô tham gia vì các thành viên của nhóm thường cởi mở, đón nhận những thành viên mới. Họ biết từ kinh nghiệm của chính mình rằng việc mở khóa bí mật cần có quá trình từ từ. Nhưng lần này, họ làm tôi ngạc nhiên khi đặt rất nhiều câu hỏi riêng tư về cuộc sống tình yêu của Marilyn. Mọi việc cứ như thể cô Marilyn đã vô tình xin gia nhập nhóm này để... hồi tưởng quá khứ đau buồn của mình. Tôi đã can thiệp để định hướng cho mọi người trong nhóm những điều nên hỏi, giúp Marilyn xác định những gì cô nên nhắc đến, nhờ vậy Marilyn dần trở nên bình tĩnh.
Ba tháng sau, Marilyn nói với nhóm rằng cô đã vấp ngã mấy lần khi đi từ tàu điện ngầm đến văn phòng của tôi. Dạo gần đây cô cũng đánh trật nhiều lượt bóng tennis. Cô lo mắt mình đang kém dần. Tôi nghĩ lại về bức vẽ của cô và đứa trẻ hoang dã với đôi mắt to tròn, sợ hãi. Đây có phải là một “phản ứng chuyển dạng” nào đó, trong đó bệnh nhân thể hiện mâu thuẫn của mình bằng cách mất chức năng một phần cơ thể của họ? Nhiều người lính trong cả hai cuộc chiến tranh thế giới đã bị tê liệt mà không hề bắt nguồn từ những thương tích thể xác, và tôi đã thấy những trường hợp “chứng mù hysteria” ở Mexico và Ấn Độ.
Tuy nhiên, với tư cách là một bác sĩ, tôi đã không kết luận vội vàng rằng “tất cả chỉ do cô ấy tưởng tượng ra” mà không có đánh giá sâu hơn. Tôi giới thiệu cô đến các đồng nghiệp tại Bệnh viện Mắt và Tai Massachusetts và nhờ họ kiểm tra kỹ lưỡng cho cô. Vài tuần sau, tôi nhận được kết quả: Marilyn đã bị bệnh lupus võng mạc, một bệnh tự miễn dịch làm giảm thị lực và cần điều trị ngay lập tức. Tôi bàng hoàng: Marilyn là người thứ ba trong năm mà tôi nghi ngờ có tiền sử bị loạn luân và sau đó được chẩn đoán mắc bệnh tự miễn dịch – căn bệnh mà cơ thể quay ra tấn công chính cơ thể.
Sau khi đảm bảo Marilyn đã được chăm sóc y tế đúng mức, tôi đã hỏi ý kiến của hai đồng nghiệp tại Bệnh viện Đa khoa Massachusetts là bác sĩ tâm thần học Scott Wilson và Richard Kradin – người điều hành phòng thí nghiệm miễn dịch ở đó. Tôi kể họ nghe câu chuyện của Marilyn, cho họ xem bức tranh cô ấy vẽ và đề nghị họ hợp tác nghiên cứu, và họ đã đồng ý.
Chúng tôi đã tìm 12 phụ nữ có tiền sử bị loạn luân và không dùng bất kỳ loại thuốc nào, cộng với 12 phụ nữ chưa bao giờ bị sang chấn và cũng không dùng thuốc (đây là một nhóm đối chứng khó tìm). Marilyn không tham gia nghiên cứu này.
Khi nghiên cứu hoàn thành và các dữ liệu được phân tích, Rich báo cáo rằng nhóm những người bị sang chấn do loạn luân đã có những bất thường trong tỷ lệ RA - RO của CD45, so với những người khác không bị sang sang chấn. Tế bào CD45 là “tế bào ghi nhớ” của hệ miễn dịch. Một trong số đó được gọi là tế bào RA, đã được kích hoạt bằng cách tiếp xúc với chất độc; chúng nhanh chóng đáp ứng các mối đe dọa môi trường mà chúng gặp phải trước đây. Các tế bào RO, ngược lại, được dành dự phòng cho những thách thức mới, chúng được kích hoạt để đối phó với các mối đe dọa cơ thể chưa từng gặp trước đó. Tỷ lệ RA - RO là sự cân bằng giữa các tế bào nhận biết được các độc tố đã biết và các tế bào chờ đợi thông tin mới để kích hoạt.
Ở những bệnh nhân có tiền sử bị loạn luân, tỷ lệ tế bào RA nhiều hơn bình thường. Điều này làm cho hệ thống miễn dịch trở nên quá nhạy cảm đến mức nó phòng thủ ngay cả khi không cần thiết, thậm chí điều này có nghĩa là tấn công luôn chính các tế bào của cơ thể.
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, ở mức độ sâu xa, cơ thể của nạn nhân bị loạn luân thường rất khó phân biệt được nguy hiểm và an toàn. Điều này có nghĩa, dấu ấn của sang chấn trong quá khứ không chỉ khiến nạn nhân nhận thức sai lệch về những thông tin đến từ bên ngoài mà còn khiến họ không biết thế nào an toàn. Quá khứ không chỉ in dấu trong tâm trí họ, khiến họ giải nghĩa sai lệch các sự kiện vô hại (như khi Marilyn tấn công Michael vì anh vô tình chạm vào cô khi hai người đang say giấc) mà còn in dấu lên phần căn bản nhất cho sự tồn tại họ: cảm giác an toàn của cơ thể 2.
⚝ ✽ ⚝
MỘT BẢN ĐỒ TÂM HỒN TÀN TẠLàm sao con người phân biệt được điều gì là nguy hiểm, điều gì là an toàn, điều gì thuộc về bên trong, điều gì thuộc về bên ngoài, điều gì nên chống lại, điều gì có thể yên tâm tiếp nhận? Cách tốt nhất để hiểu được tác động của việc lạm dụng và bỏ bê trẻ em chính là lắng nghe những người như Marilyn. Khi hiểu hơn về cô ấy, tôi biết rằng cô có cái nhìn dị biệt về cách thức thế giới vận hành.
Khi còn bé, chúng ta thường bắt đầu từ trung tâm vũ trụ riêng của mình, tức nơi chúng ta giải thích mọi thứ bằng góc nhìn luôn xem ta là “trung tâm của vũ trụ”. Nếu cha mẹ hoặc ông bà nói rằng chúng ta là đứa trẻ đáng yêu nhất trên thế giới này, chúng ta sẽ chẳng hoài nghi gì, sẽ tin ngay tắp lự rằng ta đúng là dễ thương tuyệt đỉnh như thế. Và sâu thẳm, dù ta có biết thêm bất kể điều gì khác về bản thân thì ta vẫn luôn tin chắc rằng về cơ bản ta rất đáng yêu. Kết quả là khi người yêu/bạn đời đối xử với ta tệ hại, ta sẽ nổi giận vô cùng vì ta cảm thấy họ đối xử với ta như thế là hoàn toàn sai, ta không quen bị đối xử như thế, thế này chẳng giống với ở nhà.
Nhưng nếu chúng ta bị lạm dụng hay bị bỏ rơi khi còn bé, hoặc ta lớn lên trong một gia đình mà mọi người ghê tởm với chuyện tình dục thì những bản đồ thế giới bên trong của chúng ta mang một thông điệp khác. Việc từng bị khinh thường, làm nhục sẽ ảnh hưởng đến cách ta cảm nhận về bản thân, và nếu bị ngược đãi, dường như ta sẽ nghĩ là “Anh ấy/cô ấy có quyền làm thế” và không thể tự vệ.
Quá khứ của Marilyn đã hình thành nên những quan điểm của cố về mọi mối quan hệ. Cô nghĩ rằng đàn ông không hề quan tâm đến cảm xúc của người khác, đàn ông có thể lẩn tránh mọi tội lỗi bất cứ khi nào họ muốn. Cô còn nghĩ phụ nữ cũng không đáng để tin tưởng. Họ quá yếu đuối, không dám tự đứng lên đấu tranh cho những quyền lợi của mình, họ bán thân xác của mình để có được những người đàn ông nào đó chăm sóc cho mình. Nếu bạn gặp rắc rối, những người phụ nữ này sẽ không thèm nhấc một ngón tay để cứu giúp bạn.
Vì có những quan điểm thế này về thế giới và con người nên Marilyn nghi ngờ động cơ của tất cả những đồng nghiệp đối xử tốt với cô, cô khiển trách họ mỗi khi họ hành xử chệch ra ngoài phạm vị những quy tắc của y tá, dù chỉ một chút. Cô tự xem bản thân mình là một hạt giống xấu xa, một con người có bản chất độc hại, chuyên gieo rắc tai họa cho người xung quanh.
Khi lần đầu tiên gặp những bệnh nhân như Marilyn, tôi từng cố gắng giúp họ nhìn thế giới một cách tích cực và linh hoạt hơn. Một ngày nọ, một phụ nữ tên là Kathy đã giúp tôi “tỉnh mộng” và “sáng mắt ra”. Chuyện là hôm ấy, có một thành viên trong nhóm bệnh nhân đã đến trễ buổi sinh hoạt vì xe hỏng, Kathy ngay lập tức đổ lỗi cho chính mình: “Tôi đã biết xe của cô bị hỏng hóc từ tuần trước, lẽ ra tôi phải qua rước cô ấy mới phải”. Cô gay gắt tự chỉ trích mình đến nỗi chỉ một vài phút sau đó, cô thậm chí còn nhận trách nhiệm cho việc mình bị bố lạm dụng tình dục lúc còn bé: “Tôi đã tự chuốc lấy điều đó. Lúc đó tôi bảy tuổi. Tôi rất yêu thương bố mình. Vì muốn bố yêu thương mình nên tôi đã làm điều bố muốn. Đó là lỗi của riêng tôi”.
Tôi liền can thiệp để trấn an cô: “Thôi nào, lúc đó cô chỉ là một cô bé. Bố cô có trách nhiệm phải duy trì ranh giới nhất định với con gái của mình”, Kathy liền quay về phía tôi, nói: “Tôi biết anh rất muốn làm một nhà trị liệu tốt, thế nên tôi thường cảm ơn anh không ngớt khi anh có những lời bình luận xuẩn ngốc như vậy. Dù sao thì tôi cũng là một người sống sót của nạn loạn luân, tôi được huấn luyện để chăm sóc những người đàn ông trưởng thành, bất ổn. Nhưng sau hai năm được anh điều trị, tôi đã đủ tin tưởng anh để có thể nói với anh rằng những lời này của anh chỉ khiến tôi cảm thấy vô cùng tồi tệ. Phải, đúng vậy, tôi thường tự trách bản thân mình về những điều xấu xa đã xảy đến với mọi người xung quanh. Tôi biết điều đó hoàn toàn vô lý, và tôi cảm thấy thật ngu ngốc khi tự trách mình như thế, nhưng tôi vẫn cứ làm thế. Khi anh cố khuyên tôi hãy suy nghĩ, nói năng hợp tình hợp lý hơn, tôi chỉ cảm thấy cô đơn và bị cô lập hơn nữa, vì nó xác nhận cảm giác của tôi rằng chẳng ai trên đời này có thể hiểu được cảm giác của tôi”.
Tôi chân thành cảm ơn ý kiến của cô ấy. Từ lúc đó trở đi, tôi cố gắng không khuyên các bệnh nhân của mình rằng đừng nên cảm thấy những gì họ đang cảm thấy. Kathy đã chỉ cho tôi thấy nhiệm vụ của tôi sâu sắc hơn thế nhiều: Tôi phải giúp các bệnh nhân xây dựng lại bản đồ thế giới bên trong họ.
Như tôi đã thảo luận ở chương trước, các nhà nghiên cứu về sự gắn bó đã cho thấy người chăm sóc đầu đời của chúng ta không chỉ cho ta cái ăn cái mặc, an ủi khi ta buồn, mà họ còn định hình cách thức bộ não của chúng ta nhận thức về thế giới thực. Các tương tác giữa ta với người chăm sóc ta truyền đạt cho ta hiểu cái gì là an toàn và cái gì là nguy hiểm, ta có thể nương tựa vào ai, ai sẽ khiến ta thất vọng, ta cần làm gì để thỏa mãn những nhu cầu của mình. Thông tin này được thể hiện trong bộ não của chúng ta và hình thành khuôn mẫu về cách chúng ta nghĩ về bản thân cũng như thế giới xung quanh. Những bản đồ bên trong này rất ổn định theo thời gian.
Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là các bản đồ của chúng ta không thể thay đổi khi gặp những trải nghiệm. Một mối tình sâu sắc, đặc biệt là trong thời niên thiếu, khi não bộ một lần nữa trải qua một giai đoạn thay đổi vô cùng to lớn, thật sự có thể biến đổi chúng ta. Ta cũng sẽ “biến đổi” khi có con vì con cái thường dạy ta cách yêu thương. Những người lớn từng bị lạm dụng hoặc bỏ bê khi còn bé vẫn có thể học được vẻ đẹp của sự thân tình và tin tưởng lẫn nhau hoặc có một trải nghiệm tinh thần giúp mở ra một vũ trụ lớn hơn cho họ.
Ngược lại, các bản đồ thời thơ ấu trước kia còn trong trắng thì nay có thể bị méo mó do bị người lớn cưỡng hiếp hoặc tấn công khiến mọi con đường đều bị chuyển hướng sang nỗi sợ hãi hoặc tuyệt vọng. Những phản hồi này là không hợp lý và do đó không thể thay đổi đơn giản bằng cách tái thiết lập những niềm tin phi lý ấy. Bản đồ của chúng ta về thế giới được mã hóa trong bộ não cảm xúc, và thay đổi nó có nghĩa là phải sắp xếp lại phần hệ thống thần kinh trung ương.
Tuy nhiên, học cách nhận ra những suy nghĩ và hành vi phi lý có thể là một bước tiến hữu ích. Những người như Marilyn thường khám phá ra những lý lẽ của họ không giống với những người bạn của họ. Nếu họ may mắn, bạn bè và đồng nghiệp của họ sẽ nói với họ bằng lời hơn là bằng hành động, rằng họ sẽ rất khó hợp tác với ai đó nếu cứ mãi thiếu tự tin và ghét bỏ chính bản thân như vậy. Nhưng hiếm khi có ai nói với họ như vậy. Sau khi bị Marilyn tấn công trong đêm, Michael hoàn toàn không muốn hàn gắn lại mối quan hệ, thế là Marilyn mất một tình bạn lẫn một bạn chơi tennis yêu thích. Lúc ấy, những người thông minh và can đảm như Marilyn, những người còn giữ được tính tò mò và quyết tâm đối diện với sự thất bại lặp đi lặp lại, bắt đầu tìm kiếm sự giúp đỡ.
Nói chung, bộ não lý trí có thể ghi đè lên bộ não cảm xúc, miễn là những nỗi sợ hãi của chúng ta không chiếm quyền kiểm soát ta (ví dụ, khi bị cảnh sát yêu cầu ngừng xe, nỗi sợ hãi của bạn khi bị cảnh sát bắt giữ có thể lập tức biến thành lòng biết ơn khi cảnh sát cảnh báo bạn biết rằng phía trước có xảy ra tai nạn). Nhưng thời điểm chúng ta cảm thấy bị mắc kẹt, tức giận hoặc bị từ chối, chúng ta dễ kích hoạt những tấm bản đồ cũ và thực hiện theo chỉ dẫn của chúng. Thay đổi chỉ xảy ra khi chúng ta học cách “sở hữu” bộ não cảm xúc của mình. Điều đó có nghĩa là học cách quan sát và chung sống được với những cảm giác đau lòng và quặn thắt ruột gan vốn ghi nhận sự đau khổ và nhục nhã. Chỉ sau khi học cách sống chung với những gì đang diễn ra bên trong thì chúng ta mới có thể bắt đầu làm bạn với những cảm xúc đã giữ bản đồ của chúng ta cố định và không thay đổi, hơn là xóa bỏ những cảm xúc ấy.
⚝ ✽ ⚝
HỌC CÁCH GHI NHỚKhoảng một năm sau khi Marilyn tham gia vào nhóm, một thành viên khác, Mary, đã xin phép được nói về những gì đã xảy đến với cô năm 13 tuổi. Mary là một người quản giáo trại giam, từng có một mối quan hệ khổ dâm và bạo dâm với một phụ nữ. Cô muốn nhóm điều trị biết về lai lịch của mình với hy vọng họ sẽ trở nên khoan dung hơn với những phản ứng cực đoan của mình, chẳng hạn như khép mình hoặc dễ dàng nổi điên khi bị khiêu khích đôi chút.
Mary kể năm cô 13 tuổi, một buổi tối nọ, cô đã bị anh trai và mấy người bạn của anh hãm hiếp, kết quả là cô có thai. Mẹ cô đã giúp cô phá thai ở nhà, ngay trên bàn bếp. Cả nhóm đều đồng cảm khi nghe câu chuyện và cố gắng an ủi Mary theo cách mà họ mong muốn ai đó an ủi họ khi lần đầu tiên đối mặt với những sang chấn của mình. Hành động này làm tôi cảm động sâu sắc.
Khi thời gian hết, Marilyn hỏi liệu cô có thể xin thêm vài phút để nói về những gì cô cảm nhận trong suốt cuộc họp này không, cả nhóm đồng ý. Marilyn nói: “Sau khi nghe Mary kể chuyện bị hãm hiếp, tôi đã tự hỏi không biết liệu mình có từng bị lạm dụng tình dục như vậy hay không”. Tôi há hốc miệng sững sờ. Dựa vào bức tranh vẽ gia đình của cô, tôi đã luôn nghĩ rằng cô ấy đã biết, ít nhất mức độ nào đó, rằng cô đúng là đã bị lạm dụng tình dục. Cô đã phản ứng giống như một nạn nhân của nạn loạn luân trong phản ứng của cô với Michael, và cô có cách cư xử như thể thế giới này là nơi rất đáng sợ.
Ấy vậy mà, dù đã vẽ bức tranh một cô bé đang bị lạm dụng tình dục nhưng Marilyn, hay ít nhất là nhận thức của cô, lời nói của cô, đã không biết được điều gì đã xảy ra với mình. Hệ thống miễn dịch của cô, cơ bắp và hệ thống sợ hãi của cô đều lưu giữ lại thông tin, nhưng phần tâm trí tỉnh táo của cô còn thiếu một câu chuyện để có thể truyền đạt được trải nghiệm kinh hoàng kia. Cô đã tái diễn tình huống gây sang chấn trong cuộc sống của cô, nhưng cô không có câu chuyện nào để liên hệ với nó. Như chúng ta sẽ thấy trong chương 12, những ký ức sang chấn khác biệt với những ký ức bình thường theo nhiều cách phức tạp, và nó liên quan đến nhiều tầng lớp của tâm trí và bộ não.
Bị kích thích bởi câu chuyện của Mary và những cơn ác mộng của chính mình trong thời gian sau đó, Marilyn bắt đầu điều trị riêng với tôi. Cô bắt đầu đối phó với quá khứ của mình. Lúc đầu, cô trải qua những đợt sóng dữ dội, những cơn sợ hãi liên hồi. Cô cố ngừng lại trong một vài tuần, nhưng khi thấy mình không thể ngủ được nữa và phải xin nghỉ phép, cô tiếp tục điều trị với tôi. Sau này, cô nói với tôi: “Tiêu chí duy nhất giúp tôi nhận biết một tình huống xấu hay không chỉ là cảm giác: Không thoát được là chết”.
Tôi bắt đầu tập cho Marilyn những kỹ thuật làm dịu tinh thần như tập trung hít thở sâu: hít vào thở ra, hít vào thở ra, sáu nhịp trong một phút - trong lúc dõi theo những cảm giác của cơ thể về hơi thở. Cô còn được châm cứu để cảm thấy bớt quá tải.
Chúng tôi cũng luyện tập chánh niệm: học cách giữ cho tâm trí mình tỉnh thức trong khi vẫn cho phép cơ thể cảm nhận những cảm xúc mà cô đã từng sợ hãi. Cách này dần dần giúp cho Marilyn giữ khoảng cách và quan sát trải nghiệm của mình hơn là bị những cảm xúc lấn át. Cô đã cố gắng giảm bớt hoặc loại bỏ những cảm giác đó bằng rượu và tập thể dục, nhưng bây giờ cô bắt đầu cảm thấy đủ an toàn để nhớ lại những gì đã xảy ra với mình lúc còn bé.
Khi cô giành được quyền sở hữu cảm giác thể chất của mình, cô cũng bắt đầu có thể diễn giải sự khác nhau giữa quá khứ và hiện tại: Bây giờ, nếu cô ấy cảm thấy bàn chân của ai đó chạm vào chân cô lúc nửa đêm, cô ấy có thể nhận ra đó là chân của Michael, chân của một người bạn chơi tennis điển trai mà cô đã mời ở lại căn hộ của mình. Bàn chân đó không thuộc về ai khác, và việc nó chạm vào cổ không có nghĩa là Michael đang cố tình lợi dụng cô. Tĩnh tâm giúp cô nhận ra rằng cô là một phụ nữ 34 tuổi chứ không phải là một bé gái.
Khi Marilyn bắt đầu truy cập được những ký ức của mình, chúng xuất hiện dưới dạng những hồi ức về giấy dán tường trong phòng ngủ của cô hồi bé. Cô nhận ra đó là những gì cô đã chăm chú nhìn trong lúc bị bố cưỡng hiếp năm lên 8 tuổi. Nỗi sợ hãi khi bị bố cưỡng hiếp đã vượt quá khả năng chịu đựng của cô, vì vậy cô cần phải đẩy nó ra khỏi ngân hàng trí nhớ của mình. Dù gì thì cô vẫn phải sống với người đàn ông đó, bố cô, người đã cưỡng hiếp cô.
Marilyn nhớ lúc mình chạy về phía mẹ, úp mặt vào váy mẹ để tìm sự che chở, cô chỉ nhận được một cái ôm hời hợt. Có lúc mẹ cô chỉ im lặng, có lúc bà khóc hay giận dữ mắng Marilyn vì đã “làm bố nổi giận”. Cô sợ hãi khi không tìm thấy ai bảo vệ mình, cho mình thêm sức mạnh hoặc cho mình nơi trú ẩn.
Roland Summit đã viết trong nghiên cứu kinh điển của mình The Child Sexual Abuse Accommodation Syndrom (Hội chứng thỏa hiệp của trẻ em bị lạm dụng tình dục): “Sự khơi mào, đe dọa, bêu xấu, cô lập, bất lực và tự trách bản thân mình phụ thuộc vào thực tế đáng sợ của nạn lạm dụng tình dục trẻ em. Bất kỳ nỗ lực nào của trẻ nhằm tiết lộ bí mật này đều bị bác bỏ bởi âm mưu câm lặng hay hoài nghi của người lớn. Đừng lo về chuyện đó, nó không đời nào xảy ra trong gia đình tôi đâu, “Sao anh có thể nghĩ ra điều tồi tệ như thế được chứ?”, Đừng để tôi nghe thấy cô nhắc đến điều đó một lần nào nữa!. Một đứa trẻ bình thường sẽ chẳng bao giờ hỏi và cũng chẳng bao giờ kể”.
Sau 40 năm làm công việc này, tôi vẫn thường xuyên tự nhủ: “Thật không thể tin được” khi nghe bệnh nhân nào đó kể về thời thơ ấu của họ. Họ thường không hoài nghi như tôi – làm thế nào mà bố mẹ lại có thể tra tấn và khiến con cái mình khiếp đảm đến như vậy? Vài người trong số họ khăng khăng rằng họ ắt đã tưởng tượng ra trải nghiệm đó hoặc họ đang phóng đại lên. Tất cả bệnh nhân đều xấu hổ về những gì đã xảy ra với họ và họ đổ lỗi cho chính mình. Ở mức độ nào đó, họ tin chắc rằng những điều tồi tệ ấy đã xảy ra với họ vì họ là những người tồi tệ.
Giờ đây, Marilyn đang bắt đầu tìm hiểu đứa trẻ bất lực kia đã học cách đóng cửa tâm hồn mình lại và tuân theo những yêu cầu của người khác như thế nào. Cô đã làm vậy bằng cách tự khiến mình biến mất: Ngay khi có nghe tiếng bước chân của bố mình trong hành lang bên ngoài phòng ngủ, cô sẽ “bắt đầu lơ lửng trên mây”. Một bệnh nhân khác của tôi có kinh nghiệm tương tự đã vẽ một bức tranh mô tả quá trình này (hình bên dưới). Khi ông bố bắt đầu chạm vào cô, cô đã khiến mình biến mất, cô trôi lên trần nhà, nhìn xuống một cô gái nhỏ khác trên giường. Cô mừng vì đó không phải là mình – đó là một cô gái khác đang bị chính cha mình lạm dụng tình dục.
Việc các bệnh nhân kể rằng họ trông thấy tâm trí tách rời khỏi Cơ thể bởi một màn sương mù dày đặc thực sự đã khiến tôi mở mang tầm nhìn trước chứng phân ly, hiện tượng vô cùng phổ biến đối với nạn nhân của nạn loạn luân.
Sau này, khi lớn lên, chính Marilyn cũng nhận ra rằng cô liên tục trôi nổi lên trần nhà khi nhận ra mình đang quan hệ tình dục với ai đó.
Trong khoảng thời gian Marilyn chủ động hơn trong quan hệ tình dục, một đối tác của cô đã nói rằng cô thật tuyệt, tuyệt đến mức gần như anh ấy không còn nhận ra cô nữa, thậm chí cách nói chuyện của cô cũng khác. Thường thì cô không nhớ những gì đã xảy ra khi quan hệ tình dục, nhưng cũng có những lúc cô trở nên tức giận và gây hấn. Cô không biết con người tình dục của mình là như thế nào, thế nên cô dần dần rút khỏi những mối quan hệ nam nữ, cho đến khi gặp Michael.
⚝ ✽ ⚝
CĂM GHÉT TỔ ẤMTrẻ em không có quyền lựa chọn cha mẹ. Các em cũng không thể hiểu rằng cha mẹ không ở cạnh mình chỉ đơn giản là họ quá phiền muộn, bực bội, đang lo nghĩ nhiều điều. Trẻ em cũng không thể hiểu những hành vi nào đó của bố mẹ mình không liên quan gì nhiều đến chúng. Trẻ em không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc sắp xếp lại bản thân để tồn tại trong chính gia đình mình. Không như người lớn, trẻ không thể tự giúp đỡ mình mà phải nhờ cha mẹ. Trẻ em không thể tự thuê một căn hộ hoặc chuyển đến sống cùng người khác. Sự sống còn của trẻ hoàn toàn phụ thuộc vào người chăm sóc trẻ.
Trẻ em ý thức, ngay cả khi chúng không bị đe dọa một cách rõ ràng - rằng nếu chúng kể với giáo viên về chuyện bị cha mẹ đánh đập, quấy rối thì thể nào chúng cũng sẽ bị cha mẹ trừng phạt. Thay vào đó, chúng tập trung năng lượng vào việc không nghĩ về những gì đã xảy ra và không cảm nhận tàn dư của nỗi khiếp sợ và cơn hoảng loạn trong cơ thể của chúng. Bởi vì chúng không thể chịu đựng được việc biết những gì mình đã trải qua, chúng cũng không thể hiểu rằng sự tức giận, sợ hãi, hay suy sụp của mình có liên quan đến trải nghiệm đó. Chúng không nói chuyện, chúng hành động và đối phó với cảm xúc của mình bằng cách tức giận, khép mình, phục tùng hoặc thách thức.
Trẻ em cũng được lập trình để trung thành với người chăm sóc mình, ngay cả khi trẻ đang bị người ấy lạm dụng. Sự sợ hãi làm tăng nhu cầu gắn bó, ngay cả khi nguồn an ủi cũng là nguồn gốc của sự sợ hãi. Tôi chưa bao giờ gặp một đứa trẻ dưới 10 tuổi nào bị người thân tra tấn ở nhà lại chọn chuyển vào sống ở một nhà cưu mang, cho dù chúng được quyền chọn lựa đi nữa thì trẻ chỉ muốn ở với gia đình. Tất nhiên, không chỉ có trẻ em mới bám víu lấy người bạo hành mình. Các con tin từng bị bắt giữ sẵn sàng trả tiền bảo lãnh cho những kẻ đã bắt cóc, bày tỏ mong muốn kết hôn với hoặc có quan hệ tình dục với kẻ bắt cóc mình; nạn nhân của bạo lực gia đình thường bao che cho những kẻ lạm dụng mình.
Phải mất một thời gian dài Marilyn mới sẵn sàng nói về việc mình bị lạm dụng. Cô đã không sẵn sàng để vi phạm lòng trung thành của mình với gia đình. Sâu thẳm trong lòng, cô cảm thấy rằng Cô vẫn cần họ để bảo vệ cô chống lại nỗi sợ hãi của chính mình. Cái giá phải trả cho lòng trung thành này là những cảm giác không thể nào chịu đựng nổi: cô đơn, thịnh nộ, bất lực.
Cơn tức giận vì không có nơi nào để đi đã chuyển hướng quay ra chống lại bản thân, dưới hình thức trầm cảm, tự ghét, và tự hủy hoại. Một bệnh nhân nói với tôi rằng: “Nó giống như ghét căn nhà của bạn, nhà bếp, chậu, chảo, giường, ghế, bàn, thảm của bạn”. Chẳng có gì cho bạn cảm thấy an toàn cả, nhất là chính cơ thể của bạn.
Rất khó học cách tin tưởng ai đó. Một trong những bệnh nhân khác của tôi, một nữ giáo viên từng bị ông của mình cưỡng hiếp nhiều lần trước khi cô lên 6 tuổi, đã gửi cho tôi e-mail như sau: “Sau buổi trị liệu với anh, khi lên xe trở về nhà, tôi đã nghĩ mãi về những hiểm họa khi mở lòng mình với anh. Và rồi tôi nhận ra mình đã tự phá vỡ quy tắc không gắn bó với người khác”.
Trong buổi gặp tiếp theo, cô ấy nói với tôi rằng khi học đại học, cô bị người hướng dẫn ở phòng thí nghiệm hãm hiếp. Tôi hỏi cô ấy có tìm kiếm sự giúp đỡ và kiện anh ta hay không, Cô nói: “Tôi không thể tự mình băng qua đường để tới bệnh viện. Tôi rất muốn được giúp đỡ nhưng khi đứng trên đường, tôi cảm thấy rất rõ rằng tôi sẽ chỉ bị tổn thương nhiều hơn. Và điều đó có thể đúng. Tất nhiên, tôi đã giấu cha mẹ tôi và cả những người khác về những gì đã xảy ra cho tôi”.
Sau khi tôi nói với cô ấy rằng tôi quan tâm đến những gì đã xảy ra với cô, cô ấy đã viết cho tôi một e-mail khác: “Tôi đang cố gắng nhắc nhở mình rằng tôi đã không làm bất cứ điều gì để xứng đáng bị đối xử như vậy. Tôi không nghĩ đã từng có ai nhìn tôi như thế và nói rằng họ lo lắng cho tôi, và tôi khư khư giữ nó như thể nó là báu vật: Suy nghĩ rằng tôi xứng đáng nhận được sự quan tâm từ người mà tôi tôn trọng và được người ấy thấu hiểu những gì tôi đang trải qua”.
Để biết chúng ta là ai, để có một bản ngã riêng, chúng ta phải biết (hoặc ít nhất cũng cảm thấy rằng chúng ta biết) cái gì là “thật”. Chúng ta phải quan sát những gì chúng ta thấy xung quanh và đặt tên chính xác cho chúng; chúng ta cũng phải có khả năng tin tưởng vào ký ức của bản thân và có thể phân biệt chúng với trí tưởng tượng của mình. Mất khả năng phân biệt này là một dấu hiệu của triệu chứng mà nhà phân tâm học William Niederland gọi là “giết chết linh hồn”. Tẩy xóa nhận thức và hình thành sự khước từ thường rất cần thiết cho sự sống còn, nhưng cái giá phải trả là bạn bị mất dấu vết về bản thân, về những gì bạn đang cảm nhận, và những điều và những người mà bạn có thể tin tưởng.
⚝ ✽ ⚝
HỒI TƯỞNG SÁNG CHẤNMột kỷ niệm về sang chấn thời thơ ấu của Marilyn đã đến với cô trong một giấc mơ, trong đó, cô cảm thấy một chiếc khăn lau chén màu trắng đang quấn quanh tay cô, rồi cô bị nhấc bổng khỏi không trung bởi một chiếc khăn quấn quanh cổ, khiến chân cổ không chạm đất, cô không thể thở được. Cô hoảng loạn thức giấc, nghĩ rằng mình sắp chết đến nơi.
Giấc mơ của cô gợi cho tôi nhớ lại những cơn ác mộng mà các cựu chiến binh từng kể cho tôi nghe: trông thấy cảnh tượng chính xác và trọn vẹn những gương mặt và phần cơ thể mà họ từng gặp trong suốt trận chiến. Những giấc mơ ấy quá khủng khiếp đến nỗi họ ráng thức trắng đêm, chỉ ngủ vào ban ngày vì thời điểm ban ngày, trời còn sáng, nên không liên quan gì đến các cuộc phục kích vào ban đêm, và khiến họ cảm thấy tương đối an toàn.
Trong giai đoạn trị liệu này, Marilyn liên tục bị tràn ngập bởi những hình ảnh và cảm giác liên quan đến giấc mơ bị bóp nghẹt. Cô nhớ lại năm mình 4 tuổi, lúc cô ngồi trong bếp với đôi mắt sưng húp, cổ đau rát và mũi đẫm máu, trong khi cha và anh trai cô cười lớn, gọi cô là “đứa con gái ngu ngốc”.
Một hôm, Marilyn thuật lại: “Tối hôm qua, trong lúc đang đánh răng, tự dưng tôi cảm thấy hoảng loạn kinh khủng. Tôi như cá không có nước, xoay chuyển người dữ dội, vật lộn với cơn nghẹt thở. Tôi bật khóc và mắc nghẹn khi đánh răng. Cơn hoảng loạn trào ra khỏi lồng ngực cùng cảm giác vật vã. Tôi phải cố gắng dùng hết sức bình sinh để ngăn mình hét lên “KHÔNG KHÔNG KHÔNG KHÔNG KHÔNG KHÔNG trong lúc đang đứng bên bồn rửa mặt”. Cô đi ngủ nhưng cứ hễ ngủ được đúng hai tiếng là lại choàng tỉnh.
Sang chấn không được lưu trữ như những câu chuyện mạch lạc có khởi đầu, diễn biến và kết thúc. Như tôi sẽ thảo luận chi tiết trong các chương 11 và 12, những kỷ niệm ban đầu trở lại như trong trường hợp của Marilyn: dưới dạng hồi tưởng chứa từng mảnh của trải nghiệm, các hình ảnh, âm thanh rời rạc và cảm giác của cơ thể mà không có ngữ cảnh nào ngoài sự khiếp đảm và cơn hoảng loạn. Khi còn nhỏ, Marilyn không thể tìm ra cách thổ lộ những chuyện thầm kín và có làm được đi nữa thì cũng chẳng thay đổi được điều gì – chẳng ai lắng nghe cô cả.
Giống như nhiều người sống sót từng bị lạm dụng thời thơ ấu, Marilyn là ví dụ điển hình về quyền năng của sức sống, ý chí sống và làm chủ cuộc sống, nguồn năng lượng để chống lại sự tàn phá do sang chấn gây ra. Tôi dần nhận ra điều duy nhất có thể giúp việc chữa trị sang chấn trở nên khả thi chính là là những nỗ lực sinh tồn đã giúp bệnh nhân của tôi chịu được nỗi đau bị lạm dụng và chịu được bóng đêm tăm tối của tâm hồn trong hành trình hồi phục.