PHẦN IV DẤU ẤN CỦA SANG CHẤN Chương 11 BẬT MÍ CỦA NHỮNG BÍ MẬT: VẤN ĐỀ CỦA HỒI ỨC SANG CHẤN
Thật là lạ lùng, tất cả những ký ức gợi lại trong lòng chúng tôi đều có hai tính chất. Những kỷ niệm ấy trầm lặng, đó là cái đặc điểm rõ rệt nhất, và dù cho trong thực tế CÓ khác đi nữa, chúng vẫn gây cho ta cảm giác như vậy. Đó là những hình ảnh câm, chúng thầm lặng nói với tôi bằng mắt, bằng cử chỉ, chẳng cần đến lời; và sự thầm lặng ấy, xúc động xiết bao.
Erich Maria Remarque, All Quiet on the Western Front (Tiểu thuyết Phía Tây không có gì lạ - Bản dịch của Lê Huy)
Vào mùa xuân năm 2002, tôi đã được yêu cầu khám cho một thanh niên từng bị linh mục Paul Shanley lạm dụng tình dục Newton, Massachusetts. Thanh niên này bây giờ đã 25 tuổi, anh gần như đã quên việc mình bị lạm dụng cho đến khi nghe tin về linh mục Paul Shanley hiện đang bị điều tra vì tội lạm dụng tình dục những bé trai. Những câu hỏi đặt ra cho tôi là những ký ức bị lạm dụng tình dục của cậu thanh niên ấy có đáng tin cậy không khi chuyện lạm dụng đã xảy ra cách đây hơn 10 năm, và tôi có sẵn sàng làm chứng cho sự kiện đó trước tòa hay không?
Để đảm bảo quyền riêng tư, xin tạm gọi thanh niên này là Julian. (Mặc dù tên thật của anh được ghi trong hồ sơ công khai nhưng tôi vẫn đổi tên cho anh với hy vọng giữ được sự riêng tư và bình yên cho anh!). Trải nghiệm của Julian minh họa cho sự phức tạp của bộ nhớ bị sang chấn.
⚝ ✽ ⚝
CƠN LŨ CẢM GIÁC VÀ HÌNH ẢNHVào ngày 11/2/2001, Julian đang phục vụ trong tổ chức cảnh sát quân đội tại một căn cứ không quân. Khi anh gọi điện thoại trò chuyện với cô bạn gái tên Rachel, cô ấy đã kể về bài báo nói về việc một linh mục tên là Shanley bị nghi ngờ đã lạm dụng tình dục trẻ em. Rồi cô nhớ ra Julian đã từng nói với cô ấy về Cha Shanley ở Newton. Thế là cô hỏi Julian: “Ông ta có làm gì anh không?”. Ban đầu, Julian nhớ về Cha Shanley là một người đàn ông hiền từ, từng giúp đỡ anh rất nhiều sau khi bố mẹ anh ly dị. Nhưng khi tiếp tục trò chuyện với bạn gái, anh bắt đầu hoảng sợ. Anh bất thần trông thấy bóng dáng Cha Shanley đứng cạnh một khung cửa, cánh tay vươn ra, nhìn chằm chằm vào Julian khi anh ở trong nhà vệ sinh. Những cảm xúc ùa về trong anh. Một tiếng nói vang lên trong đầu Julian: “Cậu có biết điều gì đang xảy ra ở Boston không? Chính tôi cũng từng bị lạm dụng tình dục như thế. Ngay lúc đó, Julian biết chắc chắn rằng Cha Shanley đã lạm dụng tình dục mình dù anh không thể nhớ chi tiết. Julian cảm thấy cực kỳ bối rối vì mình quá nhạy cảm. Từ bé, anh vốn là một đứa trẻ mạnh mẽ, không bao giờ thổ lộ điều gì.
Đêm đó anh co ro ngồi ở góc giường, nghĩ mình đang mất trí và sợ mình sẽ bị nhốt. Tuần tiếp theo, những hình ảnh liên tục ngập tràn tâm trí anh, anh sợ mình sẽ hoàn toàn quỵ ngã. Anh nghĩ đến việc dùng dao đâm vào chân để những hình ảnh ngừng xuất hiện trong tâm trí mình. Sau đó anh bắt đầu hoảng loạn, co giật, hay còn được gọi là “những cơn động kinh”. Anh tự cho người mình cho đến khi chảy máu, thấy nóng nực, đổ mồ hôi và khó chịu. Giữa những cơn hoảng loạn anh “cảm thấy mình như một thây ma”, anh đang quan sát chính mình từ xa như thể những gì mà anh đang thực tế trải qua là xảy ra với một người nào đó.
Vào tháng 4, anh nhận được thông báo bị sa thải khỏi quân đội, trong khi chỉ cần ở thêm 10 ngày nữa là anh có thể nhận được đầy đủ quyền lợi.
Gần một năm sau, Julian đến văn phòng của tôi. Anh rất đẹp trai, có cơ bắp, nhưng vẻ ngoài trông rất chán nản, thất bại. Anh nói ngay với tôi rằng anh cảm thấy rất tồi tệ khi rời khỏi quân đội. Anh luôn muốn đây là sự nghiệp của mình, luôn muốn được đánh giá xuất sắc. Anh yêu những thách thức, thích làm việc nhóm, anh nhớ cuộc sống người lính.
Julian sinh ra ở ngoại ô thành phố Boston, là con thứ hai trong gia đình có năm anh em. Năm Julian 6 tuổi, cha anh rời bỏ gia đình vì không thể chịu đựng được cuộc sống với người vợ vô cảm. Julian và bố có quan hệ khá tốt, nhưng đôi khi anh vẫn trách móc cha mình vì đã quá chú tâm vào việc nuôi sống gia đình mà để mặc Julian chăm sóc người mẹ không ổn định. Cha mẹ và anh chị em ruột của Julian đều chưa bao giờ cần được chăm sóc tâm thần và cũng chưa thể dùng ma túy.
Julian là một vận động viên nổi tiếng ở trường trung học. Dù có nhiều bạn bè nhưng anh cảm thấy tự ti và che đậy hoàn cảnh nghèo khổ của mình bằng cách uống rượu và tiệc tùng. Anh cảm thấy xấu hổ vì đã lợi dụng sự nổi tiếng và vẻ ngoài của mình để quan hệ tình dục với nhiều cô gái. Anh có đề cập đến việc muốn gọi cho vài cô gái anh từng quen để xin lỗi vì đã đối xử tệ với họ.
Anh nhớ rằng mình luôn ghét cơ thể của mình. Ở trường trung học, anh đã dùng steroid để khiến mình vạm vỡ hơn và hút cần sa mỗi ngày. Julian không đi học đại học. Sau khi tốt nghiệp trung học, anh không sống cùng mẹ, rơi vào cảnh gần như vô gia cư trong gần một năm. Anh nhập ngũ để cố gắng đưa cuộc đời mình về đúng hướng.
Julian gặp Cha Shanley khi anh học lớp giáo lý tại nhà thờ giáo xứ năm anh 6 tuổi. Anh nhớ Cha Shanley từng đưa anh ra khỏi lớp học để xưng tội. Cha Shanley hiếm khi mặc áo chùng. Julian nhớ những chiếc nhung màu xanh đậm của vị linh mục. Họ đi đến một căn phòng lớn với hai cái ghế đối diện nhau và một băng ghế để quỳ xuống. Các chiếc ghế được bọc màu đỏ và có một cái đệm nhung màu đỏ trên cái ghế băng. Họ chơi bài, ai thua thì cởi quần áo. Và rồi anh nhớ mình từng đứng trước tấm gương trong căn phòng đó. Anh không nhớ Shanley có bao giờ đưa dương vật vào hay không, nhưng anh tin chắc rằng ông ấy đã rất nhiều lần dùng ngón tay chạm vào vùng kín của anh.
Mặt khác, trí nhớ của anh không rõ ràng và rời rạc. Anh nhớ hình ảnh gương mặt của Shanley và các sự kiện tách bạch nhau. Anh không thể nhớ lúc đó mình bao nhiêu tuổi. Anh nhớ linh mục ấy bảo anh giao hợp bằng miệng, nhưng anh không nhớ rõ mình có làm hay không. Anh nhớ mình từng ngất lịm đi trên những cuốn sách trong nhà thờ, Cha Shanley đến ngồi cạnh anh trên một băng ghế dài, một tay ôm lấy anh, một tay nắm lấy tay anh. Anh nhớ khi anh lớn lên, Cha Shanley thường đi ngang qua anh thật gần và dùng tay chạm vào vùng dưới của anh. Anh không thích thế nhưng không biết làm gì để ngăn lại. Sau cùng, anh nói với tôi: “Cha Shanley gần như là Đức Chúa Trời ở nơi tôi sinh sống”.
Bên cạnh những mảnh ký ức rời rạc, những dấu vết bị lạm dụng tình dục rõ ràng đã được kích hoạt và phát lại trong đầu óc Julian. Thỉnh thoảng, khi đang quan hệ tình dục với bạn gái, hình ảnh của vị linh mục xuất hiện trong đầu anh, khiến anh như “điên”.
Tâm trạng của Julian thường thay đổi, lúc thì anh cảm thấy thương hại linh mục già nua ấy, lúc thì chỉ muốn “đưa ông ta vào một căn phòng nào đó rồi giết chết ông ta”. Anh cũng nhiều lần cảm thấy xấu hổ vì không thể tự bảo vệ mình. Anh luôn nghĩ mình là người vạm vỡ, cứng rắn.
Làm sao ta có thể hiểu được một câu chuyện như của Julian: nhiều năm quên lãng, tiếp theo là những hình ảnh bị phân mảnh, lộn xộn, những biểu hiện thể chất kịch tính và những lần tái hiện đột ngột? Là người điều trị cho những người bị sang chấn, mối quan tâm chính của tôi không phải là xác định chính xác những gì đã xảy ra với bệnh nhân mà là giúp họ chịu được những cảm giác, cảm xúc và phản ứng mà họ từng trải nghiệm mà không cảm thấy bị lấn át. Khi người bệnh tự đổ lỗi cho bản thân, tôi giúp họ biết chấp nhận rằng sang chấn ấy không phải lỗi của họ, không phải vì họ có khiếm khuyết nào đó, và cũng chấp nhận rằng không ai đáng phải chịu những gì đã xảy ra với họ.
⚝ ✽ ⚝
KÝ ỨC BÌNH THƯỜNG VÀ KÝ ỨC BỊ SANG CHẤNChúng ta đều biết bộ nhớ của con người vốn không ổn định, những câu chuyện của chúng ta luôn thay đổi và được liên tục cập nhật, biên soạn lại. Khi anh chị em của tôi và tôi nói về những kỷ niệm thời thơ ấu của mình, chúng tôi luôn cảm giác rằng dường như mỗi người đã lớn lên trong các gia đình khác nhau vì nhiều kỷ niệm của chúng tôi không trùng khớp với nhau. Những hồi tưởng cá nhân thường không phản ánh chính xác thực tế đã xảy ra mà chỉ là những câu chuyện ta kể để truyền đạt trải nghiệm cá nhân của mình.
Năng lực phi thường của tâm trí con người để viết lại ký ức được minh họa trong Nghiên cứu về sự phát triển ở người trưởng thành (Grant Study of Adult Development), những người thực hiện nghiên cứu đã theo dõi một cách có hệ thống về sức khỏe tâm lý và thể chất của hơn 200 nam sinh viên năm hai trường Harvard từ năm 1939-1944 đến hiện tại. Tất nhiên những người đề ra nghiên cứu này không thể lường trước được là hầu hết những đối tượng tham gia nghiên cứu sẽ tham gia chiến đấu trong Thế chiến thứ hai, nhưng bây giờ chúng ta có thể theo dõi sự tiến triển của những ký ức thời chiến của họ. Những người tham gia nghiên cứu được phỏng vấn chi tiết hai lần về các trải nghiệm chiến tranh của họ, lần đầu vào những năm 1945-1946, lần thứ hai vào năm 1989-1990.
Trong lần phỏng vấn thứ hai, tức 45 năm sau khi Thế chiến thứ hai kết thúc, ký ức khốc liệt của chiến tranh đã dần phai nhạt theo thời gian trong tâm trí của phần lớn những người đàn ông này, nhưng riêng những người đã bị sang chấn và sau đó phát triển PTSD thì những câu chuyện chiến tranh họ kể vẫn nguyên vẹn sau 45 năm.
Ta đặc biệt ghi nhớ một sự kiện nào đó và ký ức của ta về nó chính xác đến mức nào phần lớn đều phụ thuộc vào ý nghĩa cá nhân và cảm xúc của ta về sự kiện đó ra sao. Yếu tố then chốt là mức độ kích thích của chúng ta. Tất cả chúng ta đều có những kỷ niệm liên quan đến những con người, bài hát, mùi vị và địa điểm đặc biệt lưu lại trong tâm trí ta một thời gian dài. Nhiều người Mỹ có những kỷ niệm chính xác về nơi họ đã ở và những gì họ đã thấy vào ngày thứ Ba 11/9/2001 khi tòa tháp đôi bị tấn công, nhưng chỉ một phần nhỏ trong số họ là nhớ được cụ thể bất cứ điều gì xảy ra trong ngày 10/9.
Ta thường sẽ quên hết những trải nghiệm quen thuộc, thường nhật. Vào những ngày như mọi ngày, ta thường không có gì nhiều để kể. Tâm trí chúng ta hoạt động theo các sơ đồ hoặc bản đồ. Những sự cố nằm ngoài các khuôn mẫu đã được thiết lập thường thu hút sự chú ý của chúng ta. Nếu chúng ta được tăng lương hoặc bạn bè cho chúng ta biết một số tin tức thú vị nào đó, ta sẽ nhớ về thời điểm ấy, ít nhất là trong một khoảng thời gian. Chúng ta thường nhớ “dai” nhất những lời xúc phạm, lăng mạ mình: Adrenaline mà chúng ta tiết ra để tự vệ trước các mối đe dọa tiềm ẩn đã giúp ta khắc ghi những sự cố đó vào tâm trí mình. Dù ta có thể không còn nhớ rõ lời xúc phạm ấy nhưng ta vẫn sẽ ghét “tác giả” của lời xúc phạm ấy suốt một thời gian dài.
Khi chứng kiến điều gì đó đáng sợ, ví dụ một đứa trẻ hoặc một người bạn của ta bị thương trong một vụ tai nạn, ta sẽ nhớ rất lâu, nhớ rất rõ sự việc ấy. Như James McGaugh và các đồng nghiệp đã chỉ ra rằng ta càng tiết ra nhiều adrenaline thì bộ nhớ của ta sẽ càng chính xác. Nhưng điều đó chỉ đúng khi đến một điểm nhất định. Khi ta phải đối mặt với nỗi khiếp sợ, đặc biệt là khiếp sợ “cú sốc không thể tránh khỏi”, thì hệ thống này trở nên quá tải và tan vỡ.
Tất nhiên, chúng ta không thể theo dõi những gì xảy ra trong lần sang chấn, nhưng chúng ta có thể kích hoạt lại sang chấn trong phòng thí nghiệm, giống quá trình quét não đã trình bày trong Chương 3 và 4. Khi các dấu hiệu về ký ức của âm thanh, hình ảnh và cảm giác ban đầu được tái kích hoạt, thùy trán sẽ tắt, kể cả vùng não cần thiết để diễn đạt cảm xúc thành lời nói, khu vực tạo ra cảm giác về vị trí của chúng ta trong thời gian, vùng đồi thị, nơi kết hợp các dữ liệu thô của những cảm giác cũng tắt.
Tại thời điểm này, bộ não cảm xúc, nơi không được kiểm soát có ý thức và không thể giao tiếp bằng lời, sẽ nắm quyền chi phối. Bộ não cảm xúc (vùng limbic và thân não) thể hiện sự kích hoạt của nó thông qua những thay đổi trong kích thích cảm xúc, sinh lý cơ thể và hoạt động cơ bắp. Trong điều kiện bình thường, hai hệ thống bộ nhớ này – lý trí và cảm xúc – hợp tác với nhau để tạo ra một phản ứng tích hợp. Nhưng sự kích thích mạnh mẽ không chỉ làm thay đổi sự cân bằng giữa chúng, mà còn ngắt kết nối các vùng não khác cần thiết cho việc lưu trữ và hợp nhất thông tin đầu vào, ví dụ vùng hồi hải mã và vùng đồi thị. Kết quả là những dấu ấn của những trải nghiệm sang chấn không được tổ chức thành câu chuyện liền mạch hợp lý, mà trở thành những dấu vết cảm xúc và cảm giác rời rạc: hình ảnh, âm thanh và cảm giác thể chất.
⚝ ✽ ⚝
TIẾT LỘ NHỮNG BÍ MẬT CỦA SANG CHẤNVào cuối thế kỷ mười chín, khi y học lần đầu trở thành một ngành nghiên cứu có hệ thống về các vấn đề tinh thần, bản chất của ký ức sang chấn là một trong những chủ đề trọng tâm được đưa ra thảo luận. Ở Pháp và Anh, một số lượng lớn các bài viết đã được công bố đề cập đến triệu chứng gọi là di chứng tai nạn đường sắt (railway spine), hậu quả tâm lý sau các vụ tai nạn đường sắt bao gồm cả việc mất trí nhớ.
Tuy nhiên, tiến bộ nhất chính là công trình nghiên cứu về chứng hysteria, tình trạng rối loạn tinh thần được mô tả với những đặc điểm như bùng nổ cảm xúc, tự ám thị, co giật và cứng cơ mà không thể giải thích được bằng giải phẫu học”.
Jean-Martin Charcot, Pierre Janet và Sigmund Freud khám phá ra rằng gốc rễ của chứng hysteria chính là sang chấn, đặc biệt là sang chấn do lạm dụng tình dục trẻ em”. Những nhà nghiên cứu xem những ký ức sang chấn như “bí mật gây bệnh” hoặc “ký sinh trùng tinh thần” bởi vì nhiều người đau khổ muốn quên đi quá khứ nhưng ký ức cứ bám riết tâm trí họ, cứ liên tục “sống dậy” trong hiện tại".
Tại Pháp, Jean-Martin Charcot, người được coi là cha đẻ của thần kinh học, và những học trò của ông như Gilles de la Tourette, cũng hoạt động chính trị. Sau khi Hoàng đế Napoleon III thoái vị vào năm 1870, đã nổ ra cuộc đấu tranh giữa các chế độ quân chủ (trật tự cũ do các giáo sĩ hậu thuẫn) và phe ủng hộ của nước Cộng hòa Pháp non trẻ, những người tin vào khoa học và tin vào nền dân chủ. Charcot tin rằng phụ nữ sẽ là một yếu tố quan trọng trong cuộc đấu tranh này và cuộc điều tra của ông về chứng hysteria “đã đưa ra một giải thích khoa học cho các hiện tượng như các quỷ ám, phù thủy, trừ tà, và mê muội tôn giáo”.
Charcot tiến hành các nghiên cứu tỉ mỉ về các tương quan giữa sinh lý và thần kinh trong chứng hysteria ở cả nam và nữ, tất cả đều nhấn mạnh đến trí nhớ nội hàm và thiếu ngôn ngữ. Ví dụ, năm 1889 ông xuất bản bài viết kể về trường hợp một bệnh nhân tên Lelog bị tê liệt chân sau tai nạn với một chiếc xe ngựa. Dù Lelog ngã xuống đất và mất ý thức, nhưng đôi chân của anh ta không hề hấn gì.
⚝ ✽ ⚝
PIC
Không có dấu hiệu thần kinh nào có thể chỉ ra nguyên nhân thể chất khiến chân anh bị tê liệt. Charcot phát hiện ngay trước khi Lelog ngất đi, anh đã nhìn thấy bánh của chiếc xe lăn về phía mình, anh tin chắc bánh xe sẽ cán qua mình. Charcot cũng ghi chú rằng “bệnh nhân... không nhớ gì cả. Anh ta không thể trả lời bất kỳ câu hỏi nào. Anh ta không biết hay gần như chẳng biết gì”13. Lelog biểu hiện trải nghiệm thể chất của mình: thay vì nhớ lại vụ tai nạn, anh đã phát triển chứng tê liệt ở đôi chân của mình 14.
Nhưng đối với tôi, anh hùng thực sự của câu chuyện này chính là Pierre Janet, người đã giúp Charcot thành lập một phòng thí nghiệm nghiên cứu chứng hysteria ở Salpatrière.
Năm 1889, Janet xuất bản cuốn sách khoa học đầu tiên về stress sang chấn: Lautomatisme Psychologique (Tâm lý học tự động)15. Janet đã đề xuất rằng nguyên nhân của cái mà hiện nay chúng ta gọi là PTSD là trải nghiệm của “những cảm xúc kịch liệt” hoặc sự kích thích cảm xúc mãnh liệt. Cuốn sách giải thích rằng sau khi bị sang chấn, con người tiếp tục lặp lại các hành động, cảm xúc và cảm giác nhất định liên quan đến sang chấn.
Janet đã dành vô số thời gian để tiếp xúc với các bệnh nhân, cố gắng khám phá điều gì đang diễn ra trong đầu họ. Janet là người tiên phong và cũng là bác sĩ lâm sàng lỗi lạc nhất, người luôn hướng đến mục tiêu điều trị cho các bệnh nhân. Ông cũng là một trong những người thầy quan trọng nhất của tôi 16.
MẤT TRÍ NHỚ, PHÂN LY VÀ TÁI HIỆN
Janet là người đầu tiên chỉ ra sự khác biệt giữa “trí nhớ tường thuật” – câu chuyện kể về sang chấn – và “trí nhớ sang chấn”. Một trong những trường hợp của ông là câu chuyện về Irene – một phụ nữ trẻ nhập viện sau khi mẹ cô qua đời vì bệnh lao”. Suốt nhiều tháng, Irene đã vừa chăm sóc mẹ vừa đi làm để kiếm tiền hỗ trợ người cha nghiện rượu và trả tiền chữa trị cho mẹ. Khi mẹ qua đời, Irene kiệt sức vì căng thẳng và thiếu ngủ. Suốt mấy tiếng liền, cô cố gắng hồi sinh mẹ, kêu gào mẹ, cố gắng để thuốc xuống họng bà.
Đến một lúc, xác người mẹ rơi khỏi giường, rớt xuống ngay cạnh người bố nát rượu của cô đang ngủ say như chết. Ngay cả khi một người dì đến và bắt đầu chuẩn bị chôn cất người quá cố, Irene vẫn tiếp tục từ chối sự thật rằng mẹ đã ra đi vĩnh viễn. Mọi người thuyết phục mãi cô mới đến dự lễ tang và cô cười suốt cả buổi lễ. Một vài tuần sau, cô được đưa đến Salpetrière - nơi Janet đang tiếp quản.
Ngoài việc mất trí nhớ vì cái chết của mẹ, Irene còn bị một triệu chứng khác: Nhiều lần trong tuần, cô nhìn chằm chằm, thất thần vào một chiếc giường trống, không hề quan tâm xung quanh nữa. Và cô bắt đầu chăm sóc một người tưởng tượng. Cô đã tái hiện chi tiết cái chết của mẹ cô.
Những người bị sang chấn vừa nhớ quá ít nhưng cũng nhớ quá nhiều. Một mặt, Irene không có ý thức về cái chết của mẹ nên cô không thể kể lại được chuyện gì đã xảy ra. Mặt khác, cô bị ép buộc có những hành động thể chất đối với chuyện mẹ qua đời. Thuật ngữ “hành động vô thức tự động” (automatism) của Janet truyền đạt bản chất tự động, vô thức trong hành động của cô.
Janet chữa trị cho Irene trong vòng vài tháng, chủ yếu bằng phương pháp thôi miên. Cuối cùng, ông hỏi cô về cái chết của mẹ. Irene bắt đầu khóc và nói: “Đừng nhắc tới những chuyện khủng khiếp đó. Mẹ tôi đã chết và cha tôi say khướt như mọi khi. Tôi phải chăm sóc thi thể của mẹ suốt cả đêm. Tôi đã làm rất nhiều điều ngớ ngẩn để hồi sinh bà ấy. Đến khi trời sáng thì tôi hoàn toàn mất trí”.
Irene không chỉ có thể kể lại câu chuyện mà cô còn hồi phục lại cảm xúc của mình: “Tôi cảm thấy rất buồn và cảm thấy bị bỏ rơi”. Janet nói rằng bộ nhớ của cô đã “hoàn chỉnh” vì bây giờ bộ nhớ ấy đã đi kèm với với những cảm xúc phù hợp.
Janet lưu ý những khác biệt đáng kể giữa ký ức bình thường và ký ức sang chấn. Những ký ức sang chấn bị các tác nhân kích hoạt cụ thể thôi thúc. Trong trường hợp của Julian, kích hoạt là lời nhận xét tình tứ của người bạn gái. Trong trường hợp của Irene thì đó là một chiếc giường. Khi một yếu tố của một trải nghiệm sang chấn bị kích hoạt, các yếu tố khác có xu hướng tự diễn ra theo sau.
Trí nhớ sang chấn không hề súc tích: Irene mất ba đến bốn giờ để tái hiện câu chuyện của cô, nhưng cuối cùng cô chỉ mất chưa tới một phút để nói những gì đã xảy ra. Sự tái hiện sang chấn không có chức năng gì cả. Ngược lại, trí nhớ bình thường mang tính thích nghi. Câu chuyện của chúng ta rất linh hoạt và có thể được điều chỉnh sao cho phù hợp với hoàn cảnh. Trí nhớ bình thường còn mang tính xã hội cơ bản, chính câu chuyện mà chúng ta kể mới là vì một mục đích nào đó. Trong trường hợp của Irene, cô kể chuyện là để nhờ bác sĩ giúp đỡ và an ủi mình. Trong trường hợp của Julian, anh kể chuyện là để thuyết phục tối tham gia tìm kiếm công lý và phục thù người đã lạm dụng anh. Nhưng trí nhớ sang chấn không có tính xã hội. Cơn giận dữ của Julian với bạn gái thì không có mục đích hữu dụng gì. Sự tái hiện bị đóng băng theo thời gian, không thay đổi, và chúng luôn là những trải nghiệm cô đơn, nhục nhã và xa lánh.
Janet đặt ra thuật ngữ “phân ly” (dissociation) để miêu tả sự tách rời và cô lập các dấu ấn của bộ nhớ mà ông thấy ở bệnh nhân của mình. Ông cũng tiên đoán về cái giá nặng nề để giữ những trí nhớ sang chấn này khỏi tuôn trào. Về sau, ông viết rằng khi bệnh nhân phân ly trải nghiệm sang chấn của mình, họ trở nên “gắn chặt với một trở ngại không thể vượt qua được”18: “Khi không thể hợp nhất những ký ức sang chấn của mình, họ dường như cũng mất khả năng hấp thụ những trải nghiệm mới. Nó là... như thể nhân cách của họ đã hoàn toàn dừng phát triển ở một điểm nhất định và không thể mở rộng thêm nữa bằng cách bổ sung hoặc tiếp nhận các yếu tố mới?19.
Ông đoán rằng trừ khi họ nhận thức được các yếu tố bị tách rời và hợp nhất chúng vào một câu chuyện từng xảy ra trong quá khứ nhưng giờ đây đã kết thúc, còn không thì họ sẽ dần suy giảm các chức năng cá nhân và chuyên môn. Hiện tượng này đã được ghi nhận rõ ràng trong các nghiên cứu đương đại”.
Janet phát hiện rằng việc ký ức của con người thay đổi và bị bóp méo là chuyện bình thường, thì với những người bị PTSD, họ không thể bỏ qua cái sự kiện thực tế đã tạo nên phần ký ức ấy của họ. Sự phân ly đã ngăn cản sự kiện gây sang chấn hòa vào kho trí nhớ những ký ức có tính gắn kết và không bao giờ thay đổi), mà nó lại hình thành nên một hệ thống trí nhớ kép. Trí nhớ bình thường sẽ kết hợp các yếu tố của từng trải nghiệm vào dòng chảy liên tục của kinh nghiệm bản thân thông qua một quá trình liên kết phức tạp. Quá trình này giống như một mạng lưới dày đặc nhưng linh hoạt, mà trong đó, từng yếu tố có ảnh hưởng tinh tế đến những yếu tố khác. Nhưng trong trường hợp của Julian, cảm giác, suy nghĩ và cảm xúc của sang chấn đã được lưu giữ riêng rẽ thành những mảnh đông cứng khó hiểu. Nếu vấn đề của PTSD là sự phân ly thì mục tiêu của điều trị chính là sự kết hợp (association): Tích hợp các yếu tố bị cắt bỏ của sang chấn vào câu chuyện đang diễn ra của cuộc sống, để bộ não của bệnh nhân có thể nhận ra rằng “chuyện đó thuộc về quá khứ, còn đây là hiện tại”.
NGUỒN GỐC CỦA PHƯƠNG PHÁP “CHỮA BỆNH BẰNG TRÒ CHUYỆN”
Phân tâm học được sinh ra từ Salpetrière. Năm 1885, Freud tới Paris để làm việc với Charcot. Năm 1893, Freud và Josef Breuer, đã trích dẫn lời của Charcot và Janet trong một bài viết xuất sắc về nguyên nhân gây ra chứng hysteria. Họ nói, “Những người bị chứng hysteria bị ảnh hưởng chủ yếu bởi hồi tưởng”. Họ lưu ý rằng những ký ức này không phải chịu “quá trình loại bỏ dần dần” mà “tồn tại lâu dài với sự tươi mới đáng kinh ngạc.”
Những người bị sang chấn cũng không thể kiểm soát được những ký ức này nếu chúng trỗi dậy: “Chúng ta phải đề cập đến một sự thật đáng kinh ngạc khác rằng với những ký ức này, người bệnh không thể kiểm soát việc giữ lại hay vứt bỏ, giống như việc họ có thể làm với những ký ức trong cuộc sống trước kia của mình. Ngược lại, những kinh nghiệm này hoàn toàn vắng bóng trong bộ nhớ của bệnh nhân khi họ ở trong trạng thái thể chất bình thường, hoặc chỉ tồn tại trong một hình thức tóm tắt rất cao”?. (Tất cả chữ in nghiêng trong đoạn trích dẫn là của Breuer và Freud.)
Breuer và Freud tin rằng những ký ức sang chấn đã bị lãng quên trong ý thức bình thường vì “hoàn cảnh khiến họ không thể phản ứng lại”, hoặc vì chúng bắt đầu với “những tê liệt mãnh liệt, như nỗi khiếp sợ”. Năm 1896, Freud dũng cảm tuyên bố rằng “nguyên nhân cuối cùng của chứng hysteria luôn luôn là do người lớn quyến rũ trẻ em”22. Sau đó, khi phải đối mặt với bằng chứng do chính mình đưa ra về nạn lạm dụng tại những gia đình danh giá nhất ở Vienna, ông nhận ra điều này có thể được hiểu là chính cha đẻ của mình, vì vậy ông nhanh chóng rút lại lời mình nói. Phân tâm học chuyển sang nhấn mạnh đến những ước muốn và mơ tưởng vô thức, mặc dù Freud đôi khi vẫn thừa nhận tính thực tế của lạm dụng tình dục.
Sau khi đối mặt với sự kinh hoàng của Thế chiến thứ nhất, Freud khẳng định lại rằng thiếu trí nhớ ngôn ngữ là trọng tâm của sang chấn và nếu một bệnh nhân không thể nhớ thì anh ta có thể hành động: “Cái anh ta tái tạo không phải là một ký ức mà là một hành động, anh ta vô thức lặp đi lặp lại nó, và rồi chúng ta hiểu ra rằng đó là cách để anh ta ghi nhớ sự việc đó”24.
Di sản từ một bài nghiên cứu của Breuer và Freud năm 1893 chính là “liệu pháp trò chuyện”, một phương pháp giúp bệnh nhân có thể miêu tả lại sự kiện đã khiến họ sang chấn càng chi tiết càng tốt và diễn đạt được bằng ngôn ngữ những ảnh hưởng của sự kiện đó đối với họ.
Mặc dù phân tâm học ngày nay vẫn còn nhiều khúc mắc, “liệu pháp trị liệu bằng cách trò chuyện” vẫn được sử dụng và các nhà tâm lý học thường cho rằng kể lại câu chuyện sang chấn càng chi tiết càng tốt sẽ giúp người ta có thể bỏ câu chuyện ấy lại sau lưng. Đó cũng là một tiền đề cơ bản của liệu pháp nhận thức hành vi (cognitive behavioral therapy - CBT), đây là nội dung hiện đang được giảng dạy trong các khoa học tâm lý học tại các trường đại học trên thế giới.
Năm 1986, tôi tiếp nhận trường hợp một phụ nữ bán thuốc lá ở hộp đêm Cocoanut Grove ở Boston khi nơi này bị thiêu rụi vào năm 194225. Trong suốt hai thập kỷ 1970-1980, mỗi năm một lần, cô lại tái hiện cảnh hỏa hoạn kinh hoàng năm nào và lấy hết sức bình sinh tháo chạy ngay trên đường Newbury, cách hộp đêm năm xưa chỉ vài căn nhà. Cô phải nhập viện, được chẩn đoán bị tâm thần phân liệt và rối loạn lưỡng cực.
Năm 1989, tôi ghi nhận trường hợp một cựu chiến binh Mỹ, người từng tham gia chiến trường Việt Nam, hằng năm đều diễn một màn “cướp có vũ trang” vào đúng ngày chết của bạn mình 26. Anh ta cho một ngón tay vào trong túi quần, tuyên bố đó là một khẩu súng lục, bảo người thu ngân vét hết tiền đưa mình, điều này giúp cho người thu ngân có khá nhiều thời gian để báo cảnh sát. Nỗ lực vô thức để “tự sát nhờ cảnh sát” này đã kết thúc sau khi một thẩm phán giới thiệu người cựu chiến binh này đến gặp tôi để điều trị. Sau khi tôi giúp anh ấy xử lý xong cảm giác tội lỗi, cắn rứt vì cái chết của bạn, anh ấy không còn tái hiện màn “cướp có vũ trang” thêm lần nào nữa.
Những sự cố như vậy làm dấy lên một câu hỏi quan trọng: Làm sao các bác sĩ, cảnh sát hay nhân viên xã hội có thể nhận ra ai đó đang bị ảnh hưởng từ stress do sang chấn nếu người đó cứ tiếp tục tái hiện hành động đó thay vì nhớ lại? Làm sao bệnh nhân tự xác định được nguồn gốc hành vi của họ? Nếu không ai biết câu chuyện quá khứ của họ thì họ có thể bị gán cho cái mác bị điên khùng hoặc bị trừng trị như những tên tội phạm hơn là được giúp đỡ để hòa hợp với quá khứ.
⚝ ✽ ⚝
TÍNH PHÁP LÝ CỦA KÝ ỨC SANG CHẤNCó ít nhất 24 người đàn ông thừa nhận họ đã bị Paul Shanley lạm dụng, và nhiều người trong số họ đã đạt được các thỏa thuận dân sự với địa phận tổng giám mục Boston. Julian là nạn nhân duy nhất được gọi ra làm chứng ở phiên tòa xét xử Shanley. Vào tháng 2 năm 2005, cựu linh mục Paul Shanley bị tuyên có tội với hai tội danh cưỡng dâm trẻ em và hai tội danh hành hung trẻ em. Ông ta bị kết án 12 đến 15 năm tù giam.
Vào năm 2007, Robert F. Shaw Jr., luật sư của Shanley, nộp đơn kiến nghị cho một vụ xét xử mới, nói rằng bản án của Shanley đã bị xử sai. Shaw lập luận rằng cộng đồng khoa học, nhìn chung, không chấp nhận cái gọi là “ký ức bị kìm nén”, rằng bản án của Shanley đã dựa trên thứ “khoa học rác” và không có chứng cứ đầy đủ về tình trạng khoa học của các ký ức bị kìm nén trước khi diễn ra phiên tòa. Vị thẩm phán của phiên tòa ban đầu đã bác bỏ kháng cáo này nhưng hai năm sau đó, Tòa án cấp cao bang Massachusetts đã chấp nhận đơn. Gần một trăm nhà tâm thần học và tâm lý học hàng đầu khắp Hoa Kỳ và tám quốc gia khác đã ký một bản tham vấn gởi cho tòa án để giúp tòa có thêm thông tin để xử lý vụ việc, trong đó nói rằng chưa họ chưa bao giờ thấy sự tồn tại của “ký ức bị kìm nén” và nó không nên được xem là một loại chứng cứ. Tuy nhiên, vào ngày 10 tháng 1 năm 2010, tòa đã nhất trí giữ nguyên bản án của Shanley với lời tuyên bố: “Tóm lại, việc thiếu kiểm chứng khoa học không làm cho giả thuyết về việc một người có thể bị phân ly trí nhớ là không đáng tin cậy... Lời tham vấn của chuyên gia về trí nhớ bị phân ly là vô tư”.
Ở chương tiếp theo, tôi sẽ nói nhiều hơn về trí nhớ và lãng quên cũng như cuộc tranh luận về ký ức bị kìm nén đã diễn ra từ thời của Freud kéo dài cho đến tận ngày nay.