← Quay lại trang sách

Chương 12 KHI HỒI TƯỞNG LÀ MỘT NỖI ĐAU QUÁ SỨC CHỊU ĐỰNG

Cơ thể chúng ta chính là những bản ghi chép ký ức, vì thế, việc nhở lại chẳng khác gì hồi sinh.

Katie Cannon

Thế chiến thứ nhất năm 1914 khiến giới y học và tâm lý học một lần nữa phải đối mặt với hàng trăm ngàn nam giới có triệu chứng tâm lý kỳ lạ, các tình trạng bệnh lý không rõ ràng và mất trí nhớ. Ngày nay, trên YouTube, chúng ta có thể quan sát được các trạng thái thể xác lạ lùng của họ, những lời nói mâu thuẫn, những biểu hiện khuôn mặt khủng khiếp và những cơn co giật cùng những biểu hiện thể chất của sang chấn: “Một ký ức được ghi lại đồng thời trong tâm trí, dưới dạng những hình ảnh và lời nói bên trong, và trên cơ thể”..

Đầu chiến tranh, người Anh đã tạo ra chẩn đoán “cú sốc do đạn trái phá” (shell sock), cho phép các cựu chiến binh được điều trị và nhận trợ cấp tàn tật. Chẩn đoán thay thế tương tự là “suy nhược thần kinh” thì họ không nhận được điều trị cũng như tiền trợ cấp. Chẩn đoán mà người lính nhận được tùy thuộc vào định hướng của bác sĩ điều trị.

Đã từng có hơn một triệu lính Anh chiến đấu ở mặt trận phía Tây. Chỉ riêng trong những giờ đầu tiên của ngày 1 tháng 7 năm 1916, trong trận đánh ở sông Somme (Pháp), quân đội Anh đã thương vong 57.470 người, trong đó có 19.240 người tử trận. Đó là ngày đẫm máu nhất trong lịch sử quân đội Anh. Nhà sử học John Keegan nói về người chỉ huy của họ, Thống chế Douglas Haig, như sau: “Trong lời nói công khai và nhật ký riêng tư của mình, ông ta hoàn toàn không hề quan tâm đến nỗi đau khổ của nhân loại”. Ở trận Somme “ông ta đã đưa những nhành hoa tuổi trẻ của Anh quốc vào chỗ chết hoặc tàn phế”.

Trong suốt cuộc chiến, cú sốc do đạn trái phá làm giảm đáng kể hiệu quả chiến đấu của các lực lượng quân đội. Giữa việc coi trọng sự đau khổ của binh lính và đẩy mạnh chiến thắng với quân Đức, Tổng tham mưu Anh đã ban hành lệnh Tổng Thường vụ 2384 vào tháng 6 năm 1917, trong đó yêu cầu tất cả những binh lính có vấn đề tâm thần chỉ được chẩn đoán là “NYDN” (Not Yet Diagnosis, Nervous - Chưa chẩn đoán được, bồn chồn)*.

Năm 1922, chính phủ Anh đưa ra Báo cáo Southborough với mục đích loại bỏ chẩn đoán “cú sốc do đạn trái phá” trong bất kỳ cuộc chiến nào trong tương lai và giảm yêu sách bồi thường. Báo cáo này đề xuất loại bỏ chẩn đoán “cú sốc do đạn trái phá” ra khỏi danh mục bệnh chính thức và nhấn mạnh những trường hợp này chỉ được phép gọi là “một thương tích chiến tranh” chứ không phải là một dạng bệnh tật. Quan điểm chính thức là quân đội được đào tạo tốt, đúng đắn sẽ không bị “cú sốc do đạn trái phá” và những ai lâm vào rối loạn này là những người lính không có kỷ luật và không sẵn lòng. Trong khi cơn bão chính trị về tính hợp pháp của “cú sốc do đạn trái phá” tiếp tục diễn ra trong nhiều năm thì những báo cáo về cách xử lý hiệu quả nhất cho những trường hợp này đã biến mất khỏi các tài liệu khoa học.

Ở Mỹ, số phận các cựu chiến binh cũng đầy rắc rối. Năm 1918, khi họ trở về nhà từ chiến trường của Pháp và Flanders, họ đã được chào đón như những anh hùng dân tộc, giống như những người lính trở về từ Iraq và Afghanistan sau này. Trong năm 1924, Quốc hội đã bỏ phiếu thưởng cho họ một khoản tiền thưởng là 1,25 đô-la cho mỗi ngày họ đã phục vụ ở nước ngoài, nhưng quá trình giải ngân đã bị trì hoãn cho đến năm 1945.

Đến năm 1932, nước Mỹ đang ở giữa cuộc Đại suy thoái và vào tháng 5 năm đó có khoảng 15.000 cựu chiến binh thất nghiệp và không có tiền đã cắm trại ở khu mua sắm The Mall tại Washington DC để yêu cầu thanh toán ngay khoản tiền thưởng của họ. Một tháng sau, Tổng thống Hoover ra lệnh cho quân đội giải tán nơi cắm trại của cựu chiến binh. Đám đông cựu chiến binh phải đối mặt với những binh lính được trang bị vũ khí và bị ném hơi cay. Và họ, những cựu chiến binh, không bao giờ nhận được tiền trợ cấp.

Mặc dù chính trị và y học quay lưng lại với những người lính, nhưng những nỗi kinh hoàng của chiến tranh đã được ghi nhận trong văn học và nghệ thuật. Trong cuốn “All Quiet on the Western Front” (Phía Tây không có gì lạ)* của nhà văn người Đức Erich Maria Remarque kể về trải nghiệm chiến tranh của người lính, nhân vật chính của cuốn sách, Paul Baumer, đã nói thay cho cả một thế hệ: “Tôi biết rằng tôi, trong vô thức, đã đánh mất cảm xúc của mình tôi không còn ở đây nữa, tôi sống trong một thế giới ngoài hành tinh. Tôi muốn ở một mình, không bị quấy rầy bởi bất cứ ai. Họ nói quá nhiều – tôi không thể liên hệ đến họ – họ chỉ bận rộn với những thứ hời hợt”.

Nhưng khi Hitler lên nắm quyền một vài năm sau đó, Phía Tây không có gì lạ bị Đức Quốc xã xem là một trong những cuốn sách “thoái hóa” đầu tiên và đã bị đốt cháy trên quảng trường công cộng trước Đại học Humboldt ở Berlin. Rõ ràng, nhận thức về tác động tàn khốc của chiến tranh đối với tâm trí người lính sẽ là mối đe dọa cho Đức Quốc xã.

⚝ ✽ ⚝

BỘ MẶT MỚI CỦA SANG CHẤN

Sự bùng nổ của Thế chiến thứ hai đã thúc đẩy Charles Samuel Myers và nhà tâm thần học người Mỹ Abram Kardiner xuất bản các báo cáo về công trình của họ với các binh lính và cựu chiến binh của Thế chiến thứ nhất. Shell Shock in France 1914-1918 (Cú sốc do đạn trái phá ở Pháp 1914-1918) (xuất bản năm 1940)' và The Traumatic Neuroses of War (Hậu quả sang chấn Thần kinh của Chiến tranh) (xuất bản năm 1941) là những hướng dẫn chính cho các nhà tâm thần học đang điều trị cho những người lính trong cuộc xung đột mới, những người có “rối loạn thần kinh do chiến tranh”. Bộ phim tài liệu Let There Be Light (Hãy thắp sáng nơi đó) của đạo diễn John Huston (1946) cho thấy cách xử lý chủ yếu đối với những cơn rối loạn thần kinh chiến tranh lúc bấy giờ là thôi miên.

Nhà lý luận nữ quyền Germaine Greer đã viết về cách cho mình được điều trị PTSD sau Thế chiến thứ hai như sau: “Khi các nhân viên y tế] kiểm tra những người đàn ông có rối loạn nghiêm trọng, họ hầu như không tìm thấy nguyên nhân gốc rễ trong kinh nghiệm trước chiến tranh: những người đàn ông bị bệnh không phải là lực lượng chiến đấu tinh nhuệ nhất... Tuyên bố của quân đội là không phải chiến tranh làm cho con người bị bệnh, nhưng những người đàn ông bị bệnh thì không thể chiến đấu được”14. Có vẻ như các bác sĩ đã không thể giúp bố cô khá hơn, nhưng những nỗ lực của Greer nhằm hiểu được nỗi khổ đau của bố mình hẳn đã tiếp sức cho cô khám phá ra sự thống trị về mặt giới tính được biểu hiện dưới những hành vi ghê tởm như hãm hiếp, loạn luân và bạo lực gia đình.

Khi làm việc tại Bộ Cựu chiến binh, tôi đã rất bối rối vì phần lớn bệnh nhân ở khoa tâm thần là những người trẻ tuổi, các cựu chiến binh Việt Nam vừa được giải ngũ. Năm 1983, tôi đã tiến hành khảo sát các cựu binh của Thế chiến thứ hai. Phần lớn trong số họ có số điểm cao đối với PTSD trên thang điểm đánh giá do tôi đưa ra, nhưng việc điều trị cho họ tập trung vào các vấn đề về y tế hơn là những phàn nàn về tâm lý. Những cựu chiến binh này biểu hiện nỗi khổ của họ qua những con chuột rút và đau ngực hơn là những Cơn ác mộng và cơn thịnh nộ. Giống như những người thân của tôi, những người đã chiến đấu hoặc bị bắt trong Thế chiến thứ hai, đa số họ rất miễn cưỡng chia sẻ trải nghiệm của mình. Cảm giác của tôi là cả bác sĩ lẫn bệnh nhân đều không muốn nhắc đến cuộc chiến.

Sau Thế chiến thứ hai, Đạo luật GI Bill được ban hành đã hỗ trợ hàng triệu cựu chiến binh về giáo dục và nhà ở, nhằm thúc đẩy kinh tế nói chung và tạo ra một tầng lớp trung lưu có học thức cao. Bộ Cựu chiến binh đã xây dựng các cơ sở trên toàn nước Mỹ để giúp đỡ việc chăm sóc sức khỏe cho các cựu chiến binh. Tuy nhiên, những vết sẹo tâm lý của chiến tranh vẫn không được công nhận và chứng rối loạn thần kinh do sang chấn đã biến mất hoàn toàn khỏi thuật ngữ chính thức của bệnh tâm thần. Bài viết khoa học cuối cùng về sang chấn do chiến đấu sau Thế chiến thứ hai xuất hiện năm 1947 15.

⚝ ✽ ⚝

TÁI KHÁM PHÁ SANG CHẤN TÂM LÝ

Như tôi đã lưu ý trước đó, khi tôi bắt đầu làm việc với các cựu chiến binh trở về từ chiến trường Việt Nam thì không có cuốn sách nào về sang chấn do chiến tranh. Nhưng cuộc chiến tranh Việt Nam đã truyền cảm hứng cho rất nhiều nghiên cứu, dẫn đến sự hình thành của nhiều tổ chức học thuật cũng như những kết luận chẩn đoán PTSD.

Vào năm 1974, cuốn Comprehensive Textbook of Psychiatry (Giáo trình toàn diện về Tâm thần học) của Freedman và Kaplan đã nói rằng “loạn luân là cực kỳ hiếm, và không xảy ra ở hơn 1 trên 1,1 triệu người”lý. Như chúng ta đã thấy trong chương 2, cuốn sách trên đã nêu lợi ích cần thiết của loạn luân: “Những hành vi loạn luân này làm giảm khả năng mắc chứng rối loạn tâm thần và giúp con người có sự điều chỉnh tốt hơn đối với thế giới bên ngoài... Phần lớn trong số đó không phải là trải nghiệm tồi tệ”.

Sự sai lệch của những tuyên bố này đã trở nên rõ ràng hơn khi sự phát triển của phong trào nữ quyền cùng với nhận thức về tình trạng sang chấn ở các cựu chiến binh đã khuyến khích hàng chục ngàn người là nạn nhân của nạn lạm dụng tình dục trẻ em, lạm dụng trong gia đình và hiếp dâm lên tiếng.

Được cảnh báo bởi lịch sử, tôi bắt đầu tự hỏi liệu sẽ xảy ra cuộc phản đối khác chống lại sự thừa nhận thực tế của sang chấn như những năm 1895, 1917 và 1947 hay không. Và quả thực là vậy. Vào đầu những năm 1990, trên nhiều tờ báo và tạp chí hàng đầu ở Hoa Kỳ và châu Âu bắt đầu xuất hiện các bài nói về cái gọi là Hội chứng trí nhớ giả, trong đó các bệnh nhân tâm thần được cho là tự tạo ra những ký ức giả dối, phức tạp về lạm dụng tình dục mà họ nói rằng chúng đã ngủ yên trong nhiều năm.

Điều nổi bật về những bài viết này là lời tuyên bố rằng không có bằng chứng cho thấy sự khác biệt trong việc một người nhớ lại sang chấn so với việc họ nhớ lại những sự kiện bình thường. Có lần, tôi được một tờ nhật báo nổi tiếng ở London hỏi ý kiến về vấn đề bộ nhớ bị tổn thương. Tôi đã khá nhiệt tình về câu hỏi của họ và đề nghị họ xem xét một bài báo trong tờ The Lancet in năm 1944, mô tả hậu quả của việc giải cứu toàn bộ quân đội Anh ở bãi biển Dunkirk năm 1940. Hơn 10% những người lính được nghiên cứu đã bị mất trí nhớ rất nhiều sau khi sơ tán:7. Sau đó, trong bài viết đăng trên báo, họ nói với độc giả của mình rằng không có bằng chứng nào cho thấy mọi người đôi khi mất đi một phần hay toàn bộ trí nhớ do các sự kiện sang chấn.

Tuy nhiên, trong những năm 1980 và đầu 1990, khi các vấn đề tương tự về trí nhớ bắt đầu được ghi nhận ở phụ nữ và trẻ em bị lạm dụng trong gia đình, nỗ lực của nạn nhân trong việc tìm kiếm công lý chống lại thủ phạm đã chuyển vấn đề từ khoa học sang chính trị và luật pháp. Các chuyên gia về trí nhớ đã phải đối đầu với nhau trong các tòa án trên khắp Hoa Kỳ và sau đó là ở châu Âu và Úc.

⚝ ✽ ⚝

KHOA HỌC CỦA KÝ ỨC BỊ KÌM NÉN

Đã có hàng trăm ấn phẩm khoa học trong hơn một thế kỷ qua ghi lại những ký ức về sang chấn có thể bị kìm nén và chỉ xuất hiện lại sau nhiều năm hoặc nhiều thập niên 18. Nhiều tài liệu đã ghi chép về hiện tượng mất trí nhớ ở những người đã trải qua thiên tai, tai nạn, sang chấn chiến tranh, bắt cóc, tra tấn, trại tập trung và bị lạm dụng thể chất và tình dục.

Hiện tượng mất trí nhớ hoàn toàn là phổ biến nhất ở nạn nhân bị lạm dụng tình dục khi còn bé, với tỷ lệ mắc bệnh từ 19-38% 19. Mất trí nhớ đã là một phần của tiêu chí cho PTSD khi chẩn đoán này lần đầu tiên được giới thiệu.

Tiến sĩ Linda Meyer Williams đã tiến hành một trong những nghiên cứu thú vị nhất về sự kìm nén trí nhớ khi cô là sinh viên cao học về xã hội học tại Đại học Pennsylvania vào đầu những năm 1970. Williams đã phỏng vấn 206 bé gái từ 10-12 tuổi nhập viện cấp cứu sau khi bị lạm dụng tình dục. Các kết quả xét nghiệm của các em, các cuộc phỏng vấn với các em và cha mẹ của các em đều được lưu giữ trong hồ sơ bệnh án của bệnh viện.

17 năm sau, Williams theo dõi 136 trẻ em này, tất nhiên họ nay đã là người lớn. Cô phỏng vấn họ. Hơn 1/3 số phụ nữ (38%) không nhớ chuyện mình bị lạm dụng tình dục nhưng chỉ có 15 phụ nữ (12%) nói rằng họ chưa bao giờ bị lạm dụng khi còn nhỏ. Hơn 2/3 (68%) kể về các sự cố khác về lạm dụng tình dục trẻ em. Những phụ nữ từng bị lạm dụng tình dục khi còn rất bé và những người bị lạm dụng tình dục bởi người quen thường quên mất chuyện mình bị lạm dụng tình dục.

Nghiên cứu này cũng kiểm tra độ tin cậy của những ký ức được hồi phục. 1/10 phụ nữ (16% những người nhớ lại vụ lạm dụng) nói rằng họ đã quên nó trong một khoảng thời gian trước đây rồi sau đó nhớ lại rằng điều đó đã xảy ra. Williams cũng xác định rằng những ký ức đã hồi phục này cũng không toàn vẹn: Họ nhớ chính xác về sự kiện chính của vụ việc, nhưng không có câu chuyện nào họ kể chính xác tới từng chi tiết như trong tài liệu ghi chép”.

Phát hiện của William được ủng hộ bởi nghiên cứu khoa học thần kinh mới đây, cho thấy những ký ức nào được phục hồi có xu hướng trở về trú ngụ lại trong ngân hàng ký ức thì đều bị chỉnh sửa”. Khi không thể tiếp cận được ký ức thì tâm trí không thể thay đổi được ký ức ấy. Nhưng khi ta có thể bắt đầu kể lại câu chuyện đó, đặc biệt nếu có thể kể lại nhiều lần, thì câu chuyện đó sẽ thay đổi, chỉ cần kể ra thôi là đã thay đổi câu chuyện đó rồi. Tâm trí sẽ gán ý nghĩa cho những gì nó biết và chính những ý nghĩa ta có từ cuộc sống của mình sẽ làm thay đổi cách thức chúng ta ghi nhớ và những điều ta ghi nhớ.

Việc mất mát trí nhớ và trì hoãn nhớ lại những trải nghiệm sang chấn chưa bao giờ được ghi nhận trong phòng thí nghiệm nên một số nhà khoa học về nhận thức đã phủ nhận sự tồn tại của những hiện tượng này và cho rằng những ký ức sang chấn được hồi phục là không chính xác. Tuy nhiên, những gì mà bác sĩ gặp phải trong phòng cấp cứu, tại các bệnh viện tâm thần, trên chiến trường hoàn toàn khác với những gì các nhà khoa học quan sát thấy trong các phòng thí nghiệm.

Hãy xem xét thử nghiệm “đi lạc trong khu mua sắm”. Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng có thể khá dễ dàng cấy ghép ký ức về những sự kiện chưa bao giờ xảy ra, ví dụ ký ức đi lạc trong khu mua sắm khi còn bé 25. Khoảng 25% các đối tượng trong các nghiên cứu này sau đó “nhớ lại” rằng họ đã sợ hãi và thậm chí viết ra chi tiết chuyện mình đi lạc. Nhưng những hồi tưởng như vậy không liên quan đến những nỗi khiếp sợ mà một đứa trẻ thực sự bị lạc mẹ trải nghiệm.

Một dòng nghiên cứu khác tập trung vào sự thiếu tin cậy trong lời khai của các nhân chứng. Những người tham gia nghiên cứu được cho xem đoạn ghi hình một chiếc xe chạy trên đường, sau đó họ được hỏi có nhìn thấy biển báo bên đường hay cột đèn điện không. Các trẻ em tham gia nghiên cứu có thể được hỏi là có nhớ cái áo của người đàn ông đến thăm lớp học có màu gì hay không. Các phép thực nghiệm này cho thấy câu hỏi đặt ra cho các nhân chứng có thể làm thay đổi những gì họ tuyên bố là đã nhớ. Những nghiên cứu này giúp cảnh sát và tòa án thực hành việc đặt câu hỏi cho các bên có liên quan, nhưng nó lại không mấy liên quan đến ký ức sang chấn vì những sự kiện diễn ra trong phòng thí nghiệm không thể xem là tương đương với điều kiện khi xảy ra ký ức sang chấn.

Tiến sĩ Roger Pitman đã tiến hành một nghiên cứu tại Harvard, trong đó ông cho các sinh viên xem bộ phim Faces of Death (Những khuôn mặt của tử thần) có đoạn phim về những ca tử vong và tử hình. Bộ phim cực kỳ tàn khốc này hiện bị cấm chiếu ở nhiều nơi, nhưng nó không khiến những sinh viên tình nguyện của Pitman phát triển triệu chứng PTSD. Nếu muốn nghiên cứu bộ nhớ sang chấn, bạn phải nghiên cứu trải nghiệm của những người đã thực sự bị sang chấn.

⚝ ✽ ⚝

KÝ ỨC BÌNH THƯỜNG VÀ SANG CHẤN

Năm 1994, tôi và các đồng nghiệp tại Bệnh viện Đa khoa Massachusetts quyết định tiến hành một nghiên cứu có hệ thống, So sánh cách mọi người nhớ lại những trải nghiệm ôn hòa và những trải nghiệm khủng khiếp. Chúng tôi đăng quảng cáo trên các tờ báo địa phương, trong các tiệm giặt ủi và trên bản tin hội sinh viên với nội dung như sau: “Có điều gì khủng khiếp từng xảy ra với bạn, khiến bạn không thể quên được không? Hãy gọi 727-5500. Ai tham gia chương trình này sẽ được trả 10 đô-la”. Sau đợt quảng cáo đầu tiên, có 76 tình nguyện viên tham gia nghiên cứu của chúng tôi?.

Trong cuộc phỏng vấn, sau khi tự giới thiệu, chúng tôi bắt đầu hỏi những người tham gia: “Bạn có thể cho chúng tôi biết về một sự kiện trong cuộc sống mà bạn nghĩ bạn sẽ luôn luôn nhớ, nhưng không phải là sang chấn không?”. Một người tham gia rạng rỡ nói: “Đó là ngày con gái tôi chào đời”. Một số người khác nhắc đến ngày cưới, ngày giành chiến thắng giải thể thao nào đó, ngày lễ tốt nghiệp thủ khoa trung học phổ thông,...

Sau đó, chúng tôi yêu cầu họ tập trung vào các chi tiết cảm giác cụ thể của những sự kiện đó, chẳng hạn như: “Có bao giờ bạn đang ở đâu đó và đột nhiên trong đầu bạn hiện lên hình ảnh sống động của chồng bạn trong ngày cưới không?”. Câu trả lời luôn luôn là không. “Vậy còn cảm giác của bạn về cơ thể của chồng trong đêm tân hôn thì sao?” (một số người khi nghe câu hỏi này đã nhìn chúng tôi bằng ánh mắt kỳ lạ). Chúng tôi tiếp tục hỏi: “Bạn có bao giờ có một hồi tưởng sống động, chính xác về bài phát biểu khi bạn nhận danh hiệu tốt nghiệp thủ khoa không?”, “Bạn có bao giờ nhớ những cảm giác mãnh liệt khi nhớ lại sự ra đời của đứa con đầu lòng không?”. Những câu trả lời đều là “Không”.

Sau đó, chúng tôi hỏi họ về những sang chấn đã đưa họ đến với cuộc nghiên cứu - nhiều người trong số họ từng bị hãm hiếp. “Bạn có bao giờ bất thình lình nhớ lại mùi của kẻ đã hãm hiếp bạn không?”, “Bạn có từng trải nghiệm những cảm giác thể chất giống như lúc bạn bị cưỡng hiếp không?”. Những câu hỏi này khiến họ có những phản ứng cảm xúc mạnh mẽ. Họ nói: “Đó là lý do tại sao tôi không thể đi đến các bữa tiệc nữa bởi vì mùi rượu trong hơi thở của một ai đó khiến tôi cảm thấy mình như lại đang bị cưỡng hiếp” hoặc “Tôi không còn có thể quan hệ tình dục với chồng nữa, vì nếu anh ấy chạm vào người tôi theo kiểu nào đó là khiến tôi cảm thấy như đang bị cưỡng hiếp lần nữa”.

Có hai sự khác biệt lớn giữa cách mọi người nói về những trải nghiệm tích cực và khi nói về những trải nghiệm sang chấn: (1) cách sắp xếp của ký ức (2) những phản ứng thể chất của họ đối với ký ức đó.

Họ nhớ về đám cưới, ngày sinh đứa con đầu lòng, lễ tốt nghiệp như nhớ lại những sự kiện vốn thuộc về quá khứ, họ kể có bắt đầu, diễn biến và kết thúc. Chẳng ai được phỏng vấn nói rằng họ đã quên hoàn toàn phần nào đó của những sự kiện này. Ngược lại, khi nhớ về những ký ức sang chấn thì phần ký ức của họ bị xáo trộn. Họ nhớ rất rõ ràng một số chi tiết (ví dụ: mùi của kẻ hiếp dâm, vết rách trên trán của một đứa trẻ đã chết) nhưng không nhớ được chuỗi các sự kiện hoặc các chi tiết quan trọng khác (ví dụ: không thể nhớ ra ai là người đầu tiên đến cứu giúp, không nhớ rõ xe cứu thương hay là xe cảnh sát đã đưa họ đến bệnh viện).

Chúng tôi cũng đã hỏi những người tham gia cách họ nhớ lại sang chấn của họ tại ba thời điểm: ngay sau khi chuyện đó xảy ra, khi họ gặp rắc rối với triệu chứng của họ và trong tuần lễ trước khi tham gia nghiên cứu này. Tất cả mọi người đều nói rằng ngay sau khi chuyện đó xảy ra, họ đã không thể kể chính xác chuyện đó với người khác (thông tin này hẳn không làm nhân viên phòng cấp cứu hoặc dịch vụ cứu thương bất ngờ vì họ thường chứng kiến cảnh một người sống sót trong vụ tai nạn xe hơi ngồi chết sững, vẻ mặt kinh hoàng cạnh một người bạn hoặc một đứa trẻ đã chết).

Hầu như tất cả những người tham gia đều tái diễn lại những cảnh hồi tưởng: Họ cảm thấy bị áp đảo bởi hình ảnh, âm thanh, cảm giác và cảm xúc. Theo thời gian, ngay cả khi có nhiều cảm giác, cảm xúc chi tiết đã được kích hoạt, nhưng hầu hết những người tham gia cũng chỉ mới bắt đầu hiểu chút chút về chuyện đã xảy ra với mình. Họ bắt đầu “biết” những gì đã xảy ra, bắt đầu có thể kể câu chuyện của mình cho người khác, tức câu chuyện mà chúng tôi gọi là “ký ức của sang chấn”.

Nạn nhân sẽ giảm dần tần suất các hình ảnh và sự hồi tưởng nhưng lại tăng khả năng sắp xếp các chi tiết và trình tự của sự kiện. Vào thời điểm nghiên cứu của chúng tôi, 85% trong số họ đã có thể kể một câu chuyện mạch lạc, gồm mở đầu, diễn biến và kết thúc, chỉ một ít người kể câu chuyện bị thiếu nhiều chi tiết. Chúng tôi lưu ý rằng có 5 người nói họ đã bị lạm dụng tình dục khi còn nhỏ có những mẩu tự truyện bị phân mảnh nhất thì những ký ức của họ vẫn ùa về dưới dạng những hình ảnh, cảm giác thể chất và cảm xúc mãnh liệt.

Về bản chất, nghiên cứu của chúng tôi đã xác nhận hệ thống bộ nhớ kép mà Janet và các đồng nghiệp của ông tại Salpetrière đã mô tả cách đây hơn 100 năm: Về cơ bản, những ký ức sang chấn khác với những câu chuyện chúng ta kể về quá khứ. Chúng bị phân ly: Những cảm giác khác nhau đã xâm nhập vào não ta khi ta bị sang chấn và chúng không được tập hợp thành một câu chuyện hoặc một mẩu tự truyện của chính ta.

Kết luận quan trọng nhất trong nghiên cứu của chúng tôi có lẽ là việc nhớ lại sang chấn với tất cả những ảnh hưởng có liên quan không giúp giải quyết được sang chấn, giống như Breuer và Freud đã nói vào năm 1893.

Nghiên cứu của chúng tôi không hỗ trợ ý tưởng rằng ngôn ngữ có thể thay thế cho hành động. Hầu hết những người tham gia nghiên cứu của chúng tôi có thể kể một câu chuyện mạch lạc và cũng trải nghiệm những đau đớn liên quan đến câu chuyện đó, nhưng họ vẫn bị ám ảnh bởi những hình ảnh và cảm giác thể chất không thể chịu đựng nổi.

Nghiên cứu về việc điều trị phơi nhiễm (contemporary exposure treatment), một phần chủ yếu của liệu pháp nhận thức hành vi, có kết quả đáng thất vọng tương tự: Phần lớn bệnh nhân được điều trị bằng phương pháp này tiếp tục có các triệu chứng PTSD nghiêm trọng sau khi kết thúc điều trị. Việc dùng từ ngữ để mô tả điều gì đã xảy ra với bạn có thể mang lại chuyển biến nào đó, nhưng không phải lúc nào cũng xóa bỏ những hồi tưởng hoặc cải thiện sự tập trung, kích thích bệnh nhân tích cực tham gia các hoạt động trong cuộc sống hơn hoặc giúp họ bớt mẫn cảm với những thất vọng và tổn thương mà họ đã gánh chịu.

⚝ ✽ ⚝

LẮNG NGHE NGƯỜI SỐNG SÓT KỂ CHUYỆN

Chẳng ai muốn nhớ về sang chấn cả, từ nạn nhân cho đến xã hội. Tất cả chúng ta đều muốn sống trong một thế giới an toàn, nhân văn và có thể lường trước mọi việc. Các nạn nhân sang chấn đã nhắc nhở chúng ta rằng thế giới tuyệt vời ta hằng mơ ước này không phải lúc nào cũng tồn tại. Để hiểu được sang chấn của bệnh nhân, chúng ta phải dám đối mặt với những thực tế tàn bạo của cuộc sống, phải rèn đủ lòng dũng cảm để dám lắng nghe những lời khai của các bệnh nhân.

Trong tác phẩm Holocaust Testimonies: The Ruins of Memory (Nhân chứng nạn diệt chủng: Những ký ức đổ nát) (1991) Lawrence Langer đã viết: “Lắng nghe những câu chuyện về nạn diệt chủng, chúng ta khai quật được một bộ tranh khảm của những bằng chứng thường bị vùi lấp dưới tầng tầng lớp lớp của sự không hoàn thiện 28. Chúng ta vật lộn với phần mở đầu của một câu chuyện mãi mãi không bao giờ hoàn thiện, đầy những khoảng trống, đối mặt với những nhân chứng nao núng và thường câm nín trong khổ sở vì bị những ký ức sâu xa đàn áp”.

Một người sống sót khác, Charlotte Delbo, miêu tả cuộc sống kép của cô sau khi được giải phóng khỏi trại tập trung Auschwitz: “Cái tôi, người trong trại tập trung đó, không phải là tôi, không phải là người đang ngồi đây, đối diện với anh. Không, điều đó thật khó tin. Và những gì đã xảy đến cho bản ngã” này khi còn ở Auschwitz không liên quan gì đến tôi nữa, những ký ức sâu xa và những ký ức thường ngày quá khác biệt... Nếu không có sự phân tách này, tôi đã chẳng thể sống sót quay trở về”29.

Cô nói rằng ngay cả lời nói cũng có ý nghĩa kép: “Nếu không thì, ai đó trong trại] bị tra tấn bằng cách cho khát khô cổ hàng tuần liền hẳn đã chẳng bao giờ có thể nói được câu: “Khát ghê. Mình làm tách trà đi.” Cơn khát [sau chiến tranh] một lần nữa đã trở thành một cụm từ được sử dụng thường xuyên. Mặt khác, nếu tôi mơ về Cơn khát của mình khi còn ở Birkenau [nơi thi hành diệt chủng ở Auschwitz], tôi thấy bản thân mình lúc đó đói khát, chẳng còn lý do để sống, vất vưởng”.

Langer kết luận đầy ám ảnh: “Ai có thể tìm thấy một ngôi mộ đúng đắn cho những bức tranh khảm đã bị tàn phá của tâm trí, nơi họ có thể an nghỉ? Cuộc sống vẫn tiếp diễn, nhưng theo hai hướng thời gian cùng một lúc, tương lai không thể thoát khỏi sự kìm kẹp của ký ức đầy đau đớn” 31.

Bản chất của sang chấn là rất dữ dội, khó tin và quá sức chịu đựng. Thế nên, để có thể lắng nghe trọn vẹn tiếng nói của từng bệnh nhân, ta cần phải thôi nghĩ về những điều ta cho là bình thường, ta cũng cần chấp nhận rằng mình đang đối diện với một thực tế kép: cái thực tế tương đối an toàn và có thể tiên đoán được đang tồn tại song song với một quá khứ hoang tàn, chưa bao giờ bị lãng quên.

⚝ ✽ ⚝

CÂU CHUYỆN CỦA NANCY

Nancy, Trưởng khoa điều dưỡng tại một bệnh viện ở miền Trung Tây Boston (Mỹ) – là người hiếm hoi có thể kể lại sống động trải nghiệm kinh hoàng của mình.

Sau khi sinh đứa con thứ ba, Nancy đã trải qua phẫu thuật thắt ống dẫn trứng bằng nội soi, trong đó các ống dẫn trứng được đốt chai cứng để tránh mang thai. Vì thuốc mê không đủ liều nên cô đã tỉnh dậy trong quá trình phẫu thuật và nhận thức được toàn bộ quá trình phẫu thuật.

Đôi lúc cô rơi vào một “giấc ngủ ngắn” hoặc “mơ”, đôi lúc CÔ lại có thể cảm nhận rõ toàn bộ tình trạng khủng khiếp của mình. Cô không thể chuyển động hay kêu gào để thông báo cho đội phẫu thuật vì họ đã tiêm cho cô một liều thuốc tê cơ đủ để ngăn cơn co giật trong suốt quá trình phẫu thuật.

Một số mức độ “thức tỉnh khi gây mê” (anesthesia awareness) hiện ước tính xảy ra ở khoảng ba mươi nghìn bệnh nhân được phẫu thuật hàng năm tại Hoa Kỳ và trước đây tôi đã làm chứng cho một số người bị sang sang chấn do vấn đề này. Tuy nhiên, Nancy không muốn khởi kiện bác sĩ phẫu thuật hay bác sĩ gây mê. Cô tập trung toàn lực vào việc tái hiện thực tế sang chấn của mình để giải thoát bản thân khỏi sự xâm nhập của nó trong đời sống thường ngày.

Sau đây, tôi xin chia sẻ một phần nội dung các e-mail Nancy gửi cho tôi để mô tả hành trình hồi phục đầy mệt mỏi của cô.

Ban đầu, Nancy không biết chuyện gì đã xảy ra với cô. Cô viết: “Khi về đến nhà, tôi vẫn còn mê man. Tôi làm những việc thường ngày vẫn làm nhưng không thực sự cảm thấy mình đang sống hay đang hiện hữu. Đêm đó tôi không ngủ được. Trong nhiều ngày, tôi vẫn ở trong thế giới riêng bị ngắt kết nối của mình. Tôi không thể dùng máy sấy tóc, lò nướng bánh mì, bếp hoặc bất cứ thứ gì làm ấm. Tôi không thể tập trung vào những gì mọi người đang làm hoặc nói với tôi. Tôi không quan tâm gì cả. Tôi càng ngày càng lo lắng, càng ngủ ít hơn. Tôi biết mình đang hành xử kỳ lạ và cố gắng hiểu điều gì đã khiến tôi sợ hãi như vậy.

Vào đêm thứ tự sau cuộc phẫu thuật, khoảng 3 giờ sáng, tôi bắt đầu nhận ra rằng giấc mơ tôi có suốt thời gian qua liên quan đến các cuộc nói chuyện tôi đã nghe ở phòng mổ. Tôi đột nhiên bị đưa trở lại vào phòng mổ và có thể cảm thấy cơ thể tê liệt của tôi bị đốt cháy. Tôi bị chìm ngập trong một thế giới đáng sợ và kinh hoàng”.

Nancy nói rằng kể từ đó, những ký ức và những hồi tưởng lại bộc phát trong cô. “Như thể cánh cửa đã được hé mở, cho phép người ngoài xâm nhập vào vậy. Có một sự pha trộn của tò mò và tránh né. Tôi tiếp tục có những nỗi sợ vô cớ. Tôi sợ ngủ, tôi hoảng loạn khi nhìn thấy màu xanh. Thật tội cho chồng tôi khi phải chịu đựng những gánh nặng phát sinh từ bệnh tật của tôi. Tôi la lối anh ấy dù tôi không chú ý làm việc đó. Tôi ngủ tối đa 2-3 tiếng một ngày, suốt cả ngày tâm trí tôi tràn ngập những hồi ức. Tôi thường xuyên trong trạng thái cảnh giác, cảm thấy những ý nghĩ của chính mình đang đe dọa mình và chỉ muốn chạy trốn khỏi chúng. Tôi giảm 10kg trong 3 tuần. Mọi người cứ bảo ngoại hình của tôi trông tuyệt quá.

Tôi bắt đầu nghĩ về cái chết, bắt đầu có cái nhìn rất méo mó về cuộc đời của mình, hạ thấp những thành công, khuếch trương những thất bại. Tôi đã làm tổn thương chồng và rất có khả năng sẽ nổi cơn thịnh nộ làm tổn thương con cái.

Ba tuần sau ca phẫu thuật, tôi quay lại làm việc ở bệnh viện. Khi lần đầu nhìn thấy một người mặc bộ đồng phục phẫu thuật bước vào thang máy, tôi đã muốn lao ra khỏi thang máy ngay lập tức, nhưng tất nhiên là tôi không thể. Sau đó tôi cảm thấy bị thôi thúc muốn đánh anh ta, ráng lắm tôi mới kìm chế được. Sự kiện này kích thích những hồi ức, cơn khiếp sợ và phân ly. Tôi khóc ròng trên đường về nhà. Sau đó, tôi ngày càng giải tránh né hơn. Tôi không bao giờ bước vào thang máy, không bao giờ đi đến quán cà phê, tránh né cả tầng lầu khu phẫu thuật”.

Dần dần, Nancy đã có thể ghép lại các đoạn hồi tưởng của cô và tạo ra một ký ức dễ hiểu và khủng khiếp về cuộc phẫu thuật của mình. Cô nhớ những lời trấn an của người y tá phẫu thuật, cô nhớ mình đã ngủ được một chút sau khi được gây mê. Rồi cô nhớ mình bắt đầu tỉnh dậy như thế nào.

“Cả đội phẫu thuật đang vui vẻ bàn tán về mối tình của một y tá nào đó vào đúng lúc nhát dao phẫu thuật đầu tiên đặt xuống. Tôi cảm thấy con dao mổ đâm vào người, rạch trên da thịt tôi, rồi dòng máu nóng ứa ra khắp da thịt. Tôi cố hết sức trong vô vọng để cử động, để thốt nên lời, nhưng cơ thể không hoạt động. Tôi không hiểu gì cả. Tôi cảm nhận được cơn đau thốn tiếp theo khi những thớ cơ bị xé rách toạc. Tôi biết lẽ ra mình không nên cảm thấy điều này”.

Sau đó, Nancy nhớ có ai đó đã “lục lọi” bụng cô, rồi họ đặt những dụng cụ nội soi vào. Cô cảm thấy ống dẫn trứng của mình bị kẹp chặt. “Sau đó là một cơn đau thắt, nóng ran. Tôi cố chạy trốn, nhưng đầu đốt đuổi theo tôi, đốt cháy không ngừng nghỉ. Tôi không thể diễn tả bằng lời nỗi kinh hoàng của tôi trước trải nghiệm này. Cơn đau này không hề giống những cơn đau tôi từng vượt qua như khi gãy xương hoặc sinh nở. Cơn đau bắt đầu vô cùng đau đớn, sau đó tiếp tục không ngừng trong lúc đốt cháy toàn bộ ống dẫn trứng. Cảm giác bị dao mổ cắt vào người chẳng là gì so với cơn đau này.

Và rồi đột nhiên, ống dẫn trứng bên phải cảm nhận được cú chạm của đầu đốt. Khi tôi nghe tiếng cười của họ, trong một khoảnh khắc, tôi không biết mình đang ở đâu. Tôi tin rằng mình đang trong một phòng tra tấn, nhưng không hiểu sao họ có thể tra tấn tôi mà chẳng cần tra khảo thông tin gì. Thế giới của tôi bị thu hẹp lại chỉ còn chiếc bàn mổ. Tôi mất khả năng tiếp nhận thời gian, không có quá khứ, không có tương lai. Nơi đây chỉ có đau đớn, kinh hoàng, và sợ hãi.

Tôi cảm thấy bị cô lập khỏi tất cả nhân loại, vô cùng cô đơn dù có nhiều người đang vây xung quanh. Quả cầu đang thu hẹp về phía tôi. Trong cơn đau quằn quại, tôi hẳn đã cử động nhẹ. Tôi nghe người y tá nói với bác sĩ gây mê rằng bệnh nhân vẫn đang “tỉnh”. Bác sĩ yêu cầu bơm thêm thuốc mê cho tôi và khẽ nói, Không cần viết sự cố này vào bảng ghi chú đâu. Đó là ký ức cuối cùng tôi nhớ được.”

Trong những e-mail gửi tối sau đó, Nancy đã cố gắng nắm bắt thực tế hiện tại của sang chấn: “Tôi muốn cho anh thấy hồi ức là như thế nào. Nó giống như thời gian gấp lại hoặc bị uốn cong, khiến quá khứ và hiện tại kết hợp với nhau, như thể tôi đã bị đưa trở lại quá khứ. Các biểu tượng có liên quan đến sang chấn lúc đầu, dù trong thực tế là vô hại, thì chúng đều đã bị bóp méo thành thứ xấu xa, đáng bị căm ghét, sợ hãi, cần phải bị phá hủy nếu có thể, còn nếu tôi không phá hủy được thì đành tránh né. Ví dụ, bất cứ dụng cụ nào có sắt, từ đồ chơi, móc quần áo đều khiến tôi cảm thấy đó là dụng cụ tra tấn. Mỗi khi nhìn thấy bộ quần áo phẫu thuật, tôi đều hồn xiêu phách tán, hoang mang, cảm thấy người mệt lả, thậm chí có khi tôi nổi giận.

Cuộc hôn nhân của tôi đang dần tan vỡ, chồng tôi đại diện cho những người vô tâm cười nói và đang làm tôi đau [tức nhóm phẫu thuật]. Tôi tồn tại trong thực tế kép. Một cơn tê liệt bao phủ tôi như một tấm chăn, và cái chạm nhẹ của một đứa trẻ nhỏ kéo tôi trở lại với thế giới. Trong một thoáng, tôi là một người đang hiện hữu, một phần của cuộc sống, không phải chỉ là một người quan sát từ xa.

Thật thú vị là tôi vẫn làm việc rất tốt, luôn nhận được những phản hồi tích cực. Cuộc sống vẫn tiếp diễn với những sai lầm, lừa dối.

Sự tồn tại kép này thật kỳ quặc, quái lạ. Tôi mệt mỏi vì nó. Nhưng tôi không thể nhắm mắt buông xuôi, không thể lừa dối bản thân mình để tin rằng nếu tôi cố phớt lờ thì những con quái thú sẽ biến mất. Nhiều lần tôi đã nghĩ tôi nhớ lại những sự kiện của cuộc giải phẫu chỉ để tìm kiếm một sự kiện mới.

Có quá nhiều phần bị che khuất trong 45 phút đó của đời tôi. Ký ức của tôi chưa hoàn thiện và còn vỡ vụn, nhưng tôi không còn nghĩ rằng tôi cần biết mọi thứ để hiểu điều gì đã xảy ra.

Khi nỗi sợ giảm xuống, tôi nhận ra mình có thể chịu đựng được, nhưng một phần trong tôi nghi ngờ điều đó. Lực kéo của quá khứ quá mạnh, đó là mặt tối của cuộc đời tôi và tôi thường phải cư ngụ ở đó. Tôi cũng gặp khó khăn trong việc tìm ra cách để biết mình đang sống, tôi cứ đấu tranh đi đấu tranh lại để sống còn, dường như tôi đã thắng, nhưng không thể làm chủ bản thân.”

Khi Nancy tự nguyện làm thêm một cuộc phẫu thuật khác, phức tạp, tôi biết rằng đó là dấu hiệu hồi phục sang chấn của cô. Cô đã chọn một bệnh viện ở Boston để phẫu thuật, đã yêu cầu một cuộc họp trước phẫu thuật với các bác sĩ phẫu thuật và chuyên viên gây mê để thảo luận trải nghiệm trước đây của cô và yêu cầu tôi được phép vào phòng mổ. Lần đầu tiên trong nhiều năm tôi đã mặc bộ đồ phẫu thuật. Tôi ở bên cô ấy trong lúc cô ấy được gây mê. Lần này, cô ấy đã hồi tỉnh và cảm thấy an toàn.

Hai năm sau, tôi đã viết e-mail xin phép Nancy cho phép tôi sử dụng câu chuyện về thức tỉnh khi gây mê của cô trong chương này. Câu trả lời của cô giúp tôi biết cô đã phục hồi đến đâu: “Tôi ước gì có thể nói rằng việc anh đi cùng tôi vào phòng phẫu thuật đã kết thúc nỗi đau của tôi. Thật đáng buồn vì đó không phải là sự thật. Sau sáu tháng, tôi đã có hai lựa chọn khôn ngoan. Tôi rời nhà trị liệu CBT, chuyển sang điều trị với một bác sĩ tâm thần theo trường phái tâm động học và tham gia lớp Pilates để hồi phục sức khỏe và tinh thần.

Trong tháng cuối cùng của chúng tôi, tôi hỏi bác sĩ tâm thần của tôi tại sao ông ấy không cố gắng điều trị cho tôi như tất cả các nhà trị liệu khác đã cố gắng và rồi thất bại. Ông nói ông cho rằng với những gì tôi đã đạt được về đường con cái và sự nghiệp, tôi có khả năng phục hồi đủ để tự chữa lành cho mình nếu ông có thể tạo ra một môi trường giúp cho tôi làm điều đó. Khoảng thời gian điều trị mỗi tuần một tiếng chính là nơi trú ẩn để tôi có thể khám phá bí ẩn tại sao tôi bị tổn thương như vậy và sau đó tự mình tái tạo lại cảm giác hoàn chỉnh về bản thân, không còn vụn vỡ, đau đớn, chỉ còn lại bình an.

Nhờ tập luyện Pilates mà thể chất tôi mạnh mẽ hơn, tôi cũng có một nhóm phụ nữ sẵn sàng đón nhận và hỗ trợ tối. Sự kết hợp giữa củng cố những cốt lõi của tâm lý, xã hội và thể chất đã giúp tôi cảm thấy an toàn, tự chủ, bớt hồi tưởng quá khứ xa xôi, cho phép hiện tại và tương lai hiện diện trong tâm trí”.