← Quay lại trang sách

Chương 17 SẮP XẾP NHỮNG MẢNH GHÉP LẠI VỚI NHAU: TỰ LÃNH ĐẠO BẢN THÂN

Cuộc sống đời người như một nhà trọ. Mỗi sáng, lại có một người khách mới. Một niềm hân hoan, một nỗi đau buồn, một sự độc ác, một vài khoảnh khắc tỉnh thức chợt đến, như những vị khách bất ngờ... Hãy chào đón và tiếp đãi họ. Hãy trân trọng từng vị khách một. Hãy gặp gỡ và mời vào nhà cả những suy nghĩ đen tối, sự ác tâm, nhục nhã. Hãy biết ơn bất kỳ ai đã vào trọ, bởi mỗi vị khách được gửi đến như một lời chỉ dẫn từ trời cao.

Rumi

Những ngày đầu vào nghề, tôi từng trị liệu tâm lý ba tháng cho Mary – một cô gái e thẹn, cô đơn với vẻ ngoài ủ rũ. Cô đang vật lộn với quá khứ bị lạm dụng trầm trọng khi còn bé.

Một ngày nọ, tôi mở cửa phòng chờ và thấy cô ấy đang đứng đó, mặc váy ngắn cũn cỡn, khêu gợi, mái tóc nhuộm đỏ rực, tay cầm cốc cà phê, đôi môi cong lên. “Chắc ông là bác sĩ Van Der Kolk?” cô nói. “Tôi là Jane, và tôi đến để cảnh báo với ông rằng đừng tin những lời dối trá của Mary. Tôi có thể nói chuyện với ông về cô ta không?”.

Tôi vô cùng kinh ngạc khi đối mặt với “Jane” nhưng gắng giữ bình tĩnh để lắng nghe cô nói. Trong suốt buổi gặp mặt, tôi không chỉ gặp Jane mà còn gặp một bé gái nhỏ bị tổn thương và một nam thanh niên giận dữ. Đó là khởi đầu cho một quá trình điều trị lâu dài và hiệu quả.

Mary là bệnh nhân đầu tiên của tôi bị chứng rối loạn nhân dạng phân ly (Dissociative identity disorder – DID), lúc đó được gọi là rối loạn đa nhân cách. Cũng kịch tính như các triệu chứng của nó, sự tách rời và sự xuất hiện của các nhân cách khác biệt trong DID chỉ là điểm cực đoan của quang phổ cuộc sống tinh thần. Chúng ta thường có cảm giác đang sống trong những xung lực hoặc các phần đang xung đột với nhau, nhưng đối với những người bị sang chấn, họ đặc biệt thường xuyên phải sử dụng các biện pháp cực đoan như thế này để tồn tại. Khám phá – thậm chí kết bạn với – những phần đó là một việc quan trọng của quá trình điều trị.

KHI RƠI VÀO TÌNH HUỐNG TUYỆT VỌNG, BẠN CẦN HÀNH ĐỘNG MẠNH MẼ, QUYẾT LIỆT

Khi bị ai đó làm nhục, chúng ta sẽ ra sức tự vệ, tìm mọi cách để sinh tồn. Chúng ta có thể đè nén cảm xúc, tức điên lên, nuôi dưỡng âm mưu trả thù, quyết định mình phải trở nên mạnh mẽ và thành công để không ai có thể làm mình tổn thương nữa. Nhiều hành vi được phân loại là vấn đề tâm thần, bao gồm một số ám ảnh, cưỡng bách và hoảng loạn, cũng như các hành vi tự hủy hoại.

Những sự thích ứng với sang chấn này có thể ảnh hưởng đến khả năng chăm sóc sức khỏe và bệnh nhân thường tin rằng mình không thể nào hồi phục hoàn toàn. Nếu chúng ta xem các triệu chứng này như một dạng khuyết tật vĩnh viễn thì chúng ta sẽ thu hẹp trọng tâm của quá trình điều trị nhằm tìm ra chế độ thuốc men thích hợp, điều này có thể dẫn đến sự lệ thuộc suốt đời, như thể những người sống sót sau sang chấn giống như bệnh nhân thận lọc máu.

Sẽ tốt hơn nếu ta xem sự hung hăng hoặc trầm cảm, kiêu ngạo hoặc thụ động như là các hành vi được bệnh nhân rút ra: Tại một thời điểm nào đó, bệnh nhân đã tin rằng họ chỉ có thể sống sót nếu họ cứng rắn, hoặc họ biến mình trở nên vô hình hay vắng mặt ở đó. Giống như những ký ức sang chấn vẫn tiếp tục xâm nhập cho đến khi chúng an nghỉ, thì sự thích ứng với sang chấn cũng tiếp tục diễn ra cho đến khi cơ thể con người cảm thấy an toàn và tích hợp lại được tất cả các phần của bản thân – vốn bị mắc kẹt trong trạng thái chiến đấu hoặc do tránh né sang chấn.

Mỗi người sống sót sau sang chấn mà tôi gặp đều có thể phục hồi theo cách của riêng họ. Mỗi câu chuyện của họ đều khiến người khác không khỏi ngỡ ngàng về khả năng thích ứng của con người. Khi hiểu được họ đã phải tốn bao nhiêu năng lượng cho sự sống còn, tôi không còn ngạc nhiên về cái giá mà họ thường phải trả: Thiếu đi một mối quan hệ yêu thương với cơ thể, tâm trí và linh hồn của chính họ.

Việc thích ứng có cái giá của nó. Đối với nhiều trẻ em, việc các em chọn cách căm ghét bản thân sẽ an toàn hơn là tỏ ra tức giận hoặc chạy trốn khỏi nhà. Kết quả là những trẻ em bị lạm dụng, khi lớn lên có thể tin rằng mình, về cơ bản, là khó ưa. Đó là cách duy nhất mà trí óc non nớt của chúng có thể giải thích tại sao chúng bị đối xử tệ như vậy. Các em sống sót bằng cách từ chối, bỏ qua và chia tách những khối lớn của thực tế: Chúng quên mình bị lạm dụng; chúng đàn áp cơn thịnh nộ hay tuyệt vọng của mình, trống rỗng về cảm giác thể chất của mình.

Nếu bạn từng bị ngược đãi khi còn bé, có thể còn một “phần” trẻ con bên trong bạn đang bị đóng băng với thời gian, vẫn còn khư khư giữ lấy sự tự ghê tởm và từ chối bản thân mình. Nhiều người lớn trải qua những kinh nghiệm khủng khiếp cũng bị mắc kẹt trong cái bẫy tương tự. Tránh né những cảm xúc tàn phá dữ dội có thể giúp bạn thích nghi cao trong thời gian ngắn. Nó có thể giúp bạn bảo vệ nhân phẩm và sự độc lập của mình; nó có thể giúp bạn duy trì sự tập trung vào các nhiệm vụ quan trọng như cứu một người đồng đội, chăm sóc con cái hoặc xây lại ngôi nhà của bạn.

Nhưng sau đó thì các vấn đề mới xuất hiện. Sau khi nhìn thấy người bạn của mình bị nổ tung, người lính có thể quay lại cuộc sống dân sự và cố gắng xua đuổi trải nghiệm ấy ra khỏi tâm trí. Một “phần” tự vệ của anh ta biết làm thế nào để được kiểm soát công việc của mình và làm thế nào để hòa hợp với các đồng nghiệp. Nhưng anh ta có thể thình lình nổi giận với bạn gái của mình hoặc cảm thấy trống rỗng và đông cứng khi cảm giác thích thú, đầu hàng trước sự vuốt ve của người bạn gái khiến anh cảm thấy mình đang mất kiểm soát.

Có lẽ anh ta sẽ không nhận thức được rằng tâm trí mình tự động liên kết sự đầu hàng thụ động với tình trạng tê liệt mà anh ta cảm thấy khi bạn mình bị giết. Vì vậy, một “phần” tự vệ khác của anh đã bước vào để đánh lạc hướng: Anh tức giận và không biết điều gì khiến anh như thế, anh nghĩ mình nổi điên vì hành động của bạn gái anh đã làm. Dĩ nhiên, nếu anh ta cứ nổi giận với cô ấy (và với cô bạn gái tiếp theo), anh ta sẽ trở nên cô lập hơn. Nhưng có thể anh ta sẽ không bao giờ nhận ra rằng một “phần” bị sang chấn của anh đã bị kích động bởi tính thụ động và một “phần” khác của anh, một “người quản lý” đang tức giận, đã bước vào để bảo vệ cái “phần” dễ bị tổn thương kia.

Như chúng ta đã thấy trong chương 13, một nhiệm vụ trọng tâm để phục hồi từ sang chấn là học cách sống với những kỷ niệm của quá khứ mà không bị chúng làm quá tải trong hiện tại. Nhưng hầu hết những người sống sót – kể cả những người đang sống tốt thì trong một số khía cạnh của cuộc sống, họ vẫn phải đối mặt với một thách thức lớn hơn nữa: tái cấu trúc lại một cách lành mạnh hệ thống não/tâm trí của họ – vốn đã bị thay đổi để đối phó với những điều tồi tệ nhất. Cũng như chúng ta cần nhắc lại những ký ức gây sang chấn để tích hợp chúng thì chúng ta cũng cần phải xem lại những “phần” của chính mình đã phát triển những thói quen phòng vệ giúp chúng ta tồn tại.

⚝ ✽ ⚝

TÂM TRÍ LÀ MỘT BỨC TRANH KHẢM

Chúng ta có nhiều phần” của chính mình. Ngay bây giờ, một “phần” của tôi cảm thấy như muốn ngủ trưa; một “phần” khác muốn tiếp tục viết. Dù thấy bị tổn thương do bức thư điện tử khó chịu gây ra, nhưng một “phần” của tôi vẫn muốn nhấn “trả lời” với tâm trạng hậm hực háo thắng, trong khi một “phần” khác chỉ muốn nhún vai cho qua. Hầu hết những người biết tôi đã thấy những “phần” mạnh mẽ, chân thành và cáu kỉnh của tôi; một số đã gặp “con chó nhỏ gầm gừ” đang sống trong tôi. Con tôi hồi tưởng về việc đi nghỉ mát trong gia đình với những “phần” vui vẻ và phiêu lưu của tôi.

Khi bạn bước vào văn phòng vào buổi sáng, nhìn thấy mặt mày sếp hầm hầm, bạn biết chính xác những gì sắp xảy ra. “Phần” giận dữ trong con người có một giọng điệu đặc biệt, từ vựng và điệu bộ riêng. Các “phần” ấy không chỉ là những cảm xúc mà còn là những cách tồn tại khác nhau, có niềm tin, dự định và vai trò riêng của chúng trong toàn bộ hệ sinh thái cuộc sống của chúng ta.

Việc chúng ta có thể hòa hợp được với bản thân mình phần lớn phụ thuộc vào kỹ năng lãnh đạo nội tâm của chúng ta, chúng ta lắng nghe được những “phần” khác nhau của ta như thế nào, đảm bảo rằng chúng cảm thấy được chăm sóc, và ngăn cản chúng xâu xé lẫn nhau.

Các “phần” thường được coi là tuyệt đối trong khi thực tế chúng chỉ đại diện cho một phần tử của một “chòm sao” phức tạp những tư tưởng, cảm xúc và cảm giác. Nếu Margaret hét lên: “Tôi ghét anh!” khi đang cãi cọ với Joe thì Joe có thể nghĩ rằng cô ấy khinh thường mình và trong giây phút đó, Margaret có thể đồng ý với suy nghĩ này. Nhưng thật ra chỉ có một “phần” của cô ấy tức giận, và một “phần” đó tạm thời che giấu cảm xúc rộng lượng và tình cảm của cô

ấy dành cho Joe. Khi nhìn thấy sự đau khổ trên khuôn mặt của Joe, cô ấy sẽ lại bao dung và vẫn thương yêu anh.

Mọi trường phái lớn trong tâm lý học đều nhận ra rằng con người có những tính chất phi thường và đặt cho những tính chất ấy những cái tên khác nhau. Năm 1890, William James viết: “Phải công nhận rằng tổng thể ý thức có thể được chia thành các phần cùng tồn tại với nhau, không nhận ra sự liên quan lẫn nhau nhưng lại chia sẻ các đối tượng kiến thức cùng nhau”. Carl Jung đã viết: “Tâm lý là một hệ thống tự điều chỉnh giúp duy trì sự cân bằng của nó cũng như của cơ thể”, “Trạng thái tự nhiên của tâm hồn con người bao gồm sự xáo trộn các thành phần và hành vi mâu thuẫn của chúng”. và “Sự hòa giải những mặt đối lập này là một vấn đề lớn. Do đó, đối thủ không ai khác hơn là “con người khác” trong tôi”.

Khoa học thần kinh hiện đại đã khẳng định khái niệm này như là một loại xã hội. Michael Gazzaniga, người đã tiến hành nghiên cứu chia tách não, kết luận rằng tâm trí bao gồm các mô-đun chức năng bán tự động (semiautonomous functioning modules), mỗi phần có một vai trò đặc biệt. Trong cuốn sách The Social Brain (Bộ não xã hội) (1985), ông viết: “Từ nghiên cứu [chia tách não] của chúng tôi, có một ý tưởng mới xuất hiện là có nhiều bản ngã và họ không nhất thiết phải trò chuyện với nhau”.

Nhà khoa học MIT – Marvin Minsky – người tiên phong về trí thông minh nhân tạo, tuyên bố: “Truyền thuyết về “Cái Tôi” duy nhất chỉ có thể làm chúng ta lệch khỏi mục tiêu của công cuộc tìm hiểu đó”... Việc có nhiều phần tâm trí khác nhau, một xã hội, bên trong não bộ của bạn là một điều hợp lý. Giống như các thành viên trong gia đình, những tâm trí khác nhau có thể làm việc cùng nhau để giúp đỡ lẫn nhau, mỗi người đều có kinh nghiệm tinh thần của mình mà những người khác không bao giờ biết”10.

Các nhà trị liệu được đào tạo để nhìn nhận con người là những cá nhân phức tạp có nhiều đặc điểm và tiềm năng có thể giúp họ khám phá hệ thống các “phần” bên trong và chăm sóc các phần bị thương của bản thân. Có một số cách tiếp cận điều trị như vậy, bao gồm mô hình phân ly cấu trúc (the structural dissociation model) do các đồng nghiệp của tôi, Onno van der Hart và Ellert Nijenhuis và Kathy Steel ở Atlanta, phát triển và được áp dụng rộng rãi ở châu Âu và công trình của Richard Kluft ở Mỹ".

20 năm sau khi làm làm việc với Mary, tôi đã gặp Richard Schwartz - nhà phát triển liệu pháp hệ thống gia đình nội bộ (Internal family systems therapy - IFS). Chính qua công trình của ông, phép ẩn dụ “gia đình” của Minsky thực sự đã sống dậy trong tôi và giúp tôi làm việc một cách có hệ thống với những “phần” bị tách ra ở những bệnh nhân sang chấn. Cốt lõi của IFS là khái niệm về việc tâm trí của mỗi người chúng ta giống như một gia đình trong đó các thành viên có mức độ trưởng thành, tính dễ bị kích động, trí tuệ và đau đớn khác nhau. Các “phần” này tạo thành một mạng lưới hoặc hệ thống, trong đó, sự thay đổi ở bất kỳ một “phần” nào đều ảnh hưởng đến tất cả các “phần” khác.

Mô hình IFS đã giúp tôi nhận ra sự phân ly xảy ra liên tục. Khi ta bị sang chấn, hệ thống này sẽ tan vỡ, các “phần” của hệ thống bị phân cực và đối kháng với nhau: sự tự ghê tởm tồn tại chung (và đối kháng) với sự vĩ đại của bản thân, sự yêu thương chăm sóc với lòng hận thù, sự tê liệt và thụ động với cơn thịnh nộ, hiếu chiến. Những “phần” cực đoan trong ta phải hứng chịu gánh nặng của sang chấn.

Trong IFS, một “phần” được xem không chỉ là một trạng thái cảm xúc thoáng qua hay mô hình suy nghĩ thông thường mà còn là một hệ thống tinh thần khác biệt, với lịch sử, khả năng, nhu cầu và thế giới quan của riêng nó. Sang chấn làm tê liệt “phần” niềm tin và cảm xúc, cô lập nó ra khỏi nền tảng giá trị tự nhiên của chúng ta. Ví dụ, tất cả chúng ta đều có những “phần” trẻ trung và vui nhộn. Khi chúng ta bị ngược đãi, các “phần” này bị tổn thương nhiều nhất, và chúng trở nên đông cứng lại, chứa đựng nỗi đau, nỗi kinh hoàng cùng nỗi ám ảnh vì bị phản bội, bị lạm dụng. Gánh nặng này làm chúng trở nên độc hại – là những “phần” mà tâm trí chúng ta cần phải chối bỏ bằng mọi giá. Bởi vì chúng bị nhốt lại bên trong, IFS gọi chúng là “những kẻ lưu đày”.

Khi ấy, các “phần” khác sẽ sắp xếp để bảo vệ gia đình bên trong không bị “những kẻ lưu đày” tấn công. Những “phần bảo vệ” này giữ các “phần độc hại” tránh xa, nhưng cũng đồng thời trở thành những kẻ độc đoán gây hại cho hệ thống cảm xúc. Các nhà quản lý cầu toàn và độc đoán này đảm bảo rằng chúng ta không bao giờ gắn kết với bất cứ ai hoặc thúc đẩy chúng ta phải luôn luôn làm việc không ngừng. Một nhóm bảo vệ khác, mà IFS gọi là lính cứu hỏa, thì phản ứng khẩn cấp, hành động bốc đồng bất cứ khi nào có một trải nghiệm kích hoạt những cảm xúc của “những kẻ lưu đày”.

Mỗi “phần” bị chia tách ra ấy có ký ức, niềm tin, và cảm giác thể chất khác nhau; một số vẫn giữ sự xấu hổ, những số khác thì giận dữ, một số thấy vui vẻ và hứng thú, một số lại thấy cô đơn hoặc luôn chống đối. Đây là tất cả các khía cạnh của trải nghiệm bị lạm dụng. Quan trọng là chúng ta cần hiểu tất cả những “phần” này đều có một chức năng: bảo vệ bản thân khỏi nỗi kinh hoàng có sức mạnh hủy diệt.

Trẻ em bộc lộ nỗi đau đớn của chúng, thay vì kìm nén lại, thường được chẩn đoán là “rối loạn thách thức chống đối”, “rối loạn gắn bó” hoặc “rối loạn cư xử”. Nhưng các chẩn đoán này bỏ qua thực tế là trẻ nổi cơn thịnh nộ và phớt lờ đi mọi thứ chỉ nhằm nỗ lực trong tuyệt vọng để tồn tại. Cố gắng kiểm soát hành vi của một đứa trẻ trong khi không giải quyết vấn đề cơ bản là trẻ bị lạm dụng sẽ dẫn đến các phương pháp điều trị không hiệu quả mà còn có hại. Khi lớn lên, các “phần” của trẻ không tự tích hợp thành một nhân cách thống nhất mà lại tiếp tục dẫn tới một sự tồn tại tương đối tách biệt.

Những phần “bị lưu đày có thể hoàn toàn không biết đến những “phần” khác của hệ thống. Phần lớn những người đàn

ông từng bị xâm hại tình dục lúc nhỏ mà tôi đã chữa trị đều uống steroid đồng hóa và dành nhiều thời gian nâng tạ trong phòng gym. Những người đàn ông tập thể hình một cách miễn cưỡng này sống trong một nền văn hóa nam tính đầy mồ hôi, bóng đá và bia để che giấu sự yếu đuối và nỗi sợ hãi trong lòng. Chỉ sau khi họ cảm thấy an toàn với tôi thì tôi mới gặp được những đứa trẻ đang sợ hãi bên trong họ.

Bệnh nhân cũng có thể không thích các “phần” bộc lộ ra bên ngoài: Những “phần” giận dữ, phá hoại hoặc phê bình. Nhưng IFS cung cấp một khuôn khổ để chúng ta hiểu được những “phần” này và nói về chúng mà không có thái độ thương hại. Nhận thức được rằng mỗi “phần” đều bị mắc kẹt dưới gánh nặng quá khứ và tôn trọng chức năng của từng “phần” trong toàn bộ hệ thống sẽ giúp chúng ta thấy nó ít có tính đe dọa hơn hoặc ít bị nó áp đảo hơn.

Như Schwartz tuyên bố: “Nếu người ta chấp nhận ý tưởng cơ bản là con người có một cơ chế tự nhiên để nuôi dưỡng sức khỏe của chính họ, thì điều này ngụ ý rằng, khi con người có những vấn đề trong lâu dài nghĩa là có một cái gì đó đang cản trở họ tiếp cận các nguồn lực bên trong họ. Nhận thức được điều này, vai trò của các nhà trị liệu là cộng tác chứ không phải là giảng dạy, đối đầu hoặc lấp đầy lỗ hổng tâm lý của bạn”14.

Bước đầu tiên trong sự hợp tác này là đảm bảo hệ thống bên trong sẽ chào đón tất cả các “phần” và nhận thức rằng tất cả các “phần”, thậm chí cả “phần” tự tử hoặc tự hủy hoại, đều được hình thành nhằm mục đích bảo vệ hệ thống giá trị bản thân – bất kể giờ đây chúng có vẻ đe dọa đến hệ thống bên trong ấy.

⚝ ✽ ⚝

TỰ LÃNH ĐẠO

IFS nhận thấy việc tôi luyện khả năng tự lãnh đạo trong sự tỉnh thức là nền tảng cho việc trị liệu sang chấn. Sự tỉnh thức không chỉ giúp ta quan sát được cảnh quan bên trong mình với lòng trắc ẩn và tò mò mà còn có thể chủ động hướng chúng ta đi đúng hướng để tự chăm sóc bản thân. Tất cả các hệ thống như gia đình, tổ chức, quốc gia chỉ có thể hoạt động khi có sự lãnh đạo tốt và rõ ràng. “Gia đình bên trong” cũng vậy: Tất cả các khía cạnh của bản thân chúng ta đều cần phải tham gia. “Nhà lãnh đạo bên trong” phải phân phối các nguồn lực sẵn có một cách khôn ngoan và cung cấp một tầm nhìn tổng quát cho tất cả các “phần” trong hệ thống.

Richard Schwartz giải thích:

“Hệ thống bên trong của nạn nhân bị lạm dụng khác với hệ thống không-bi-lạm dụng ở chỗ: Nó không được lãnh đạo hiệu quả, các “phần” hoạt động theo những quy tắc cực đoan và thiếu cân bằng, thiếu hài hòa. Thông thường, các “phần” hoạt động xung quanh các giả định đã lỗi thời, với niềm tin bắt nguồn từ việc bị lạm dụng thời thơ ấu. Ví dụ họ tin rằng việc họ tiết lộ bí mật về những trải nghiệm thời thơ ấu mà họ đã phải chịu đựng là điều cực kỳ nguy hiểm.”15

Điều gì xảy ra khi bản thân mất kiểm soát? IFS gọi đây là “pha trộn”: tình trạng Cái Tội đồng nhất với một “phần”, như “Tôi muốn tự giết mình” hoặc “Tôi ghét các người”. Chú ý sự khác biệt của “Một phần trong tôi muốn tôi chết” hoặc “Một phần trong tôi bị kích động khi bạn làm điều đó và khiến tôi muốn giết bạn”.

Schwartz đưa ra hai khẳng định giúp mở rộng khái niệm chánh niệm vào lĩnh vực lãnh đạo chủ động. Thứ nhất, Cái Tôi không cần phải vun bồi hay phát triển. Ở những nạn nhân của sang chấn, bên dưới các phần bảo vệ” vẫn tồn tại một bản chất không bị hủy hoại, đó chính là Cái Tôi tự tin, tò mò và bình tĩnh, một Cái Tôi đã được che chở để không bị những “người bảo vệ” hủy diệt khi những “người bảo vệ” này trỗi dậy nhằm đảm bảo sự sống còn cho nạn nhân. Một khi những “người bảo vệ” tin rằng tình thế đã đủ an toàn thì “họ” sẽ rời đi, Cái Tôi sẽ tự xuất hiện và các “phần” có thể được chữa lành.

Giả định thứ hai, là thay vì làm một người quan sát thụ động, Cái Tôi có ý thức này có thể giúp tái cơ cấu lại hệ thống bên trong và liên lạc với các “phần” để giúp chúng tin tưởng rằng có ai đó bên trong có thể xử lý vấn đề. Một lần nữa, nghiên cứu về khoa học thần kinh cho thấy đây không chỉ là phép ẩn dụ. Chánh niệm làm tăng kích hoạt vùng giữa của vỏ não trán trước và làm giảm kích hoạt các cấu trúc như hạch hạnh nhân, vùng não kích hoạt phản ứng cảm xúc của chúng ta. Điều này giúp chúng ta tăng sự kiểm soát đối với bộ não cảm xúc.

Còn hơn cả việc khuyến khích mối quan hệ giữa một nhà trị liệu và một bệnh nhân, IFS tập trung vào việc nuôi dưỡng mối quan hệ bên trong giữa Cái Tôi và các “phần bảo vệ” khác. Trong mô hình điều trị này, Cái Tôi không chỉ chứng kiến hoặc thụ động quan sát như trong một số phương pháp thiền định truyền thống mà nó có một vai trò lãnh đạo chủ động. Cái Tôi cũng giống như một nhạc trưởng, giúp cho tất cả các bộ phận hoạt động hài hòa như một bản giao hưởng chứ không phải một mớ tạp âm.

⚝ ✽ ⚝

TÌM HIỂU THẾ GIỚI NỘI TÂM

Nhiệm vụ của nhà trị liệu là giúp bệnh nhân tách biệt cái hỗn hợp khó hiểu này thành các thực thể riêng biệt, để họ có thể nói: “Phần này của tôi giống như một đứa trẻ, và một phần của tôi trưởng thành hơn nhưng cảm thấy như một nạn nhân”. Họ có thể không thích những phần này, nhưng việc xác định được chúng giúp họ thấy ít bị chúng đe dọa hoặc áp đảo hơn. Bước tiếp theo là khuyến khích bệnh nhân yêu cầu mỗi “phần bảo vệ” khi trỗi dậy thì hãy tạm thời “lùi lại” để chúng ta có thể nhìn thấy nó đang bảo vệ cái gì. Khi lặp đi lặp lại quá trình này, các “phần” bắt đầu rời ra khỏi Cái Tôi và nhường chỗ cho sự tự quan sát. Bệnh nhân học cách buông bỏ nỗi sợ hãi, sự giận dữ, hoặc ghê tởm mà họ đang có và mở lòng cho những trạng thái tò mò và tự phản ánh (self-reflection). Từ quan điểm ổn định của Cái Tôi, họ có thể bắt đầu trò chuyện với các “phần” của mình.

Bệnh nhân được yêu cầu xác định “phần” liên quan đến vấn đề hiện tại, như cảm thấy vô giá trị, bị bỏ rơi hoặc bị ám ảnh bởi những tư tưởng thù hận. Khi họ tự hỏi: “Những gì bên trong tôi cảm thấy như vậy?” thì một hình ảnh có thể xuất hiện trong tâm trí. Có lẽ là “phần” trầm cảm trông giống như một đứa trẻ bị bỏ rơi hoặc một người đàn ông lớn tuổi, hoặc một y tá chăm sóc người bị thương một “phần” thù hận có thể xuất hiện như một binh sĩ hoặc một thành viên của băng đảng đường phố.

Tiếp theo, nhà trị liệu hỏi: “Bạn cảm thấy thế nào đối với phần đó (buồn bã, thù hận, sợ hãi) của bạn?”. Điều này đặt ra một “sân khấu” để họ tự quan sát chính mình khi tách rời “bạn” khỏi các “phần” đang được nhắc đến. Nếu bệnh nhân có một phản ứng cực đoan như: “Tôi ghét nó”, nhà trị liệu biết rằng có một “phần bảo vệ” bị trộn lẫn với Cái Tôi. Nhà trị liệu có thể hỏi tiếp, “Hãy xem “phần” ghét bỏ này có thể lùi lại không”. Sau đó, “phần bảo vệ” thường được cảm ơn vì sự cảnh giác của nó và yên tâm rằng nó có thể trở lại bất cứ khi nào cần thiết. Nếu “phần bảo vệ” này sẵn lòng làm thế thì câu hỏi tiếp theo là: “Giờ đây bạn cảm thấy thế nào đối với phần (trước kia bị từ chối) này?”. Có khả năng bệnh nhân sẽ nói: “Tôi không rõ vì sao nó lại như vậy (buồn, thù hận,...)”. Điều này tạo cơ hội để tìm hiểu về “phần” đó tốt hơn, ví dụ bằng cách hỏi xem “phần” đó bao nhiêu tuổi và nó cảm thấy như thế nào.

Một khi bệnh nhân biểu hiện một Cái Tôi tự ti, kiểu đối thoại thế này bắt đầu diễn ra một cách tự phát. Tại thời điểm này, điều quan trọng là nhà trị liệu phải tránh qua một bên và chỉ để ý đến các “phần” khác có thể xen vào hoặc thỉnh thoảng đưa ra ý kiến đồng cảm hoặc đặt câu hỏi như: “Bạn nói gì với “phần” đó về chuyện ấy?”, “Bạn muốn đi đầu vào lúc này?”, “Giờ bạn muốn làm gì tiếp theo?” cũng như những câu hỏi đi tìm Cái Tôi, “Giờ đây bạn cảm thấy như thế nào về phần” này?”.

CUỘC SỐNG TRONG NHỮNG “PHẦN”

Joan nhờ tôi giúp cô quản lý những cơn nóng giận không kiểm soát được và đối phó với tội lỗi của cô ấy vì nhiều lần ngoại tình, đa phần là với huấn luyện viên tennis của cô. Trong buổi gặp đầu tiên, cô nói: “Tôi chuyển từ một người phụ nữ thành một đứa trẻ rên rỉ, một con quỷ cái điên cuồng, một chiếc máy ăn đáng xấu hổ chỉ trong vòng 10 phút. Tôi không biết tôi thực sự là ai trong số những bản ngã này”.

Cũng trong phiên trị liệu này, Joan phê bình các tấm hình dán trên tường của tôi, những món đồ nội thất ọp ẹp và bàn làm việc lộn xộn của tôi. Cách phòng thủ tốt nhất của cô là chê bai, nhục mạ người khác. Cô ấy đã chuẩn bị tâm lý để bị tổn thương một lần nữa khi tuôn ra những lời nhận xét ấy. Nhưng tôi đã làm cô ấy thất vọng khi chẳng phàn nàn gì.

Cô ấy biết rằng để việc điều trị có tác dụng thì cô phải bộc lộ con người yếu đuối, mất kiểm soát của mình, vì vậy cô ấy đã phải tìm hiểu xem tôi có thể chịu đựng được sự giận dữ, sợ hãi và đau khổ của cô ấy hay không. Tôi nhận ra rằng cách duy nhất để chống lại sự phòng thủ của cô ấy là tỏ ra thật quan tâm đến những chi tiết của cuộc đời cô, thể hiện sự ủng hộ nhiệt tình khi cô ấy đã mạo hiểm đến nói chuyện với tôi và chấp nhận những “phần” mà cô ấy cảm thấy xấu hổ nhất.

Tôi hỏi Joan liệu cô ấy có nhận thấy một “phần” của chính bản thân cô có tính phê phán cao hay không. Cô ấy thừa nhận rằng là có và tôi đã hỏi cô ấy cảm thấy thế nào đối với nhà phê bình đó. Câu hỏi then chốt này cho phép cô bắt đầu tách biệt khỏi “phần” đó và tiếp cận Cái Tôi của mình. Joan đáp rằng cô ghét nhà phê bình vì nó gợi nhớ đến mẹ cô.

Khi tôi hỏi cô ấy cái “phần” quan trọng đó đang bảo vệ cái gì thì sự tức giận của cô giảm xuống và cô trở nên tò mò, trầm ngâm hơn:

“Tôi tự hỏi không hiểu vì sao cô ấy thấy cần phải gọi tôi bằng những cái tên mà mẹ tôi từng gọi tôi, hoặc thậm chí tệ hơn”. Joan nói về cảm giác sợ mẹ khi cô dần lớn lên, cảm giác cô chẳng làm gì nên hồn cả. Nhà phê bình rõ ràng là một người quản lý: Nó không chỉ bảo vệ Joan khỏi tôi, mà còn cố gắng ngăn để tránh lời chỉ trích của mẹ cô.

Vài tuần sau, Joan nói với tôi rằng cô ấy đã bị bạn trai của mẹ lạm dụng tình dục, có lẽ lúc cô học lớp một hoặc lớp hai. Cô nghĩ cô đã bị những mối quan hệ thân mật “hủy hoại”. Trong khi cô ấy đòi hỏi và chỉ trích chồng mình, người mà cô thiếu ham muốn tình dục, thì cô lại say mê và liều lĩnh trong những mối quan hệ ngoài luồng. Nhưng các cuộc ngoại tình luôn kết thúc giống nhau: Đang làm tình thì cô ấy đột nhiên trở nên sợ hãi và cuộn tròn thành một quả bóng rên rỉ như một cô bé. Những cảnh này khiến cô bối rối và ghê tởm chính mình, thế nên cô chẳng thể tiếp tục gì với người yêu của mình nữa.

Giống như Marilyn trong Chương 8, Joan nói với tôi rằng cô đã học cách khiến mình biến mất khi cô bị lạm dụng tình dục, trôi nổi bồng bềnh và nhìn xuống cảnh một cô gái khác đang bị lạm dụng. Nhờ đẩy việc bị lạm dụng ra khỏi tâm trí mà Joan có thể đi học bình thường, có bạn gái và tham gia chơi thể thao đồng đội. Rắc rối bắt đầu khi cổ vào tuổi thiếu niên, có khinh thường, cư xử lạnh lùng với những chàng trai đối xử tốt với cô và chuyện quan hệ tình dục khiến cô nhục nhã và hổ thẹn. Joan nói với tôi rằng chứng ăn uống vô độ của cô là một cơ chế để đối phó với người khác và việc quan hệ tình dục với chồng cô cũng giống như việc người khác ói ra vậy. Trong khi những ký ức cụ thể về việc bị lạm dụng của cô đã tách ra (phân ly) thì cô vô tình tiếp tục tái hiện nó.

Tôi không cố giải thích cho Joan lý do tại sao cô ấy cảm thấy tức giận, tội lỗi hoặc đóng sập bản thân lại. Cô ấy đã nghĩ mình là kẻ hư hỏng rồi. Trong trị liệu, trọng tâm của quá trình xử lý bộ nhớ chính là quá trình tiếp cận ký ức gây sang chấn một cách từ từ. Để Joan có thể đối phó với nỗi khổ và tổn thương của mình, chúng tôi sẽ phải “chiêu mộ” sức mạnh và lòng tự yêu thương bản thân, cho phép cô tự chữa lành.

Điều này có nghĩa là tập trung vào nhiều nguồn lực bên trong của Joan và tôi tự nhắc nhở mình rằng tôi không thể mang lại cho cô ấy tình yêu và sự quan tâm mà cô ấy đã không nhận được khi còn nhỏ. Nếu các nhà trị liệu, giáo viên hoặc người cố vấn cố gắng lấp đầy những lỗ hổng của sự thiếu hụt thì họ trở thành sai người, sai thời gian và sai địa điểm. Liệu pháp trị liệu cần tập trung vào mối quan hệ của Joan với chính các “phần” của cô hơn là tập trung vào mối quan hệ của Joan với tôi, nhà trị liệu.

⚝ ✽ ⚝

GẶP GỠ NHỮNG NHÀ QUẢN LÝ

Khi tiến trình điều trị của Joan tiến triển, chúng tôi đã xác định được nhiều “phần” khác nhau phụ trách vào những thời điểm khác nhau: một phần trẻ con hiếu chiến hay giận dữ, một phần thanh thiếu niên bướng bỉnh, một phần tự sát, một phần là nhà quản lý ám ảnh, một nhà đạo đức chân chính, và nhiều nữa.

Như thường lệ, chúng tôi đã gặp các nhà quản lý trước. Nhiệm vụ của chúng là ngăn chặn sự sỉ nhục và bỏ rơi để giữ cho cô ấy ổn định và an toàn. Một số nhà quản lý có thể hiếu chiến, như nhà phê bình của Joan, trong khi số khác lại có tính cầu toàn hay kín đáo, cẩn thận để không thu hút quá nhiều sự chú ý. Chúng có thể khuyên chúng ta đừng để tâm đến những gì đang xảy ra và giữ cho chúng ta thụ động để tránh nguy hiểm. Các nhà quản lý bên trong này cũng kiểm soát mức độ chúng ta tiếp cận các cảm xúc để hệ thống tự chủ của ta không bị choáng ngợp.

Để giữ cho hệ thống nằm trong tầm kiểm soát sẽ cần một nguồn năng lượng cực lớn. Chỉ một lời nhận xét mang tính ve vãn thôi cũng có thể kích thích một số phần” cùng lúc: một “phần” bị kích động tình dục mạnh mẽ, một “phần” khác vô cùng tự căm ghét chính mình, một “phần” thứ ba cố gắng trấn tĩnh bằng cách tự cắt cơ thể. Các nhà quản lý khác tạo ra những nỗi ám ảnh và xao lãng hoặc từ chối thực tế. Nhưng mỗi “phần” nên được tiếp cận như là một người bảo vệ đang duy trì một vị trí phòng thủ quan trọng. Nhà quản lý mang gánh nặng trách nhiệm lớn và thường làm quá mọi thứ lên.

Một số “nhà quản lý” cực kỳ giỏi. Nhiều bệnh nhân của tôi giữ vị trí cao trong công việc, làm công việc chuyên môn xuất sắc và có thể trở thành những bậc phụ huynh tận tụy tuyệt vời. Nhà quản lý đầy phê phán của Joan chắc chắn đóng góp vào sự thành công của cô trong vai trò một bác sĩ nhãn khoa. Tôi đã có nhiều bệnh nhân là giáo viên hoặc y tá có tay nghề cao. Các đồng nghiệp của họ có thể cảm thấy họ xa cách hoặc dè dặt, nhưng đều không ngờ rằng họ lại có thể tự cắt cơ thể, rối loạn ăn uống hoặc có những hành vi tình dục kỳ quái.

Dần dần Joan bắt đầu nhận ra việc cô đồng thời trải nghiệm những cảm xúc hoặc suy nghĩ mâu thuẫn là chuyện bình thường và điều đó đã giúp cô tự tin hơn khi đối mặt với những mục tiêu sắp tới. Thay vì tin rằng sự ghét bỏ làm tiêu hao toàn bộ bản thân cô thì cô hiểu rằng chỉ có một “phần” của cô cảm thấy bị sự ghét bỏ đó làm cho tê liệt mà thôi. Tuy nhiên, sau một lần bị đánh giá tiêu cực ở nơi làm việc, thái độ của Joan thay đổi hoàn toàn, cô tự trách vì đã không tự bảo vệ mình, sau đó cô cảm thấy nhút nhát, yếu đuối và bất lực.

Khi tôi hỏi cô ấy cái “phần” bất lực đó nằm ở đâu trong cơ thể của cô và cô cảm thấy như thế nào thì cô ấy đã kháng cự lại. Joan nói với tôi rằng cô ấy không thể chịu đựng được cái phần con gái yếu đuối, kém cỏi, chỉ khiến cô thấy xấu hổ và bị khinh thường. Tôi nghi ngờ “phần” này nắm giữ nhiều ký ức về việc cô bị lạm dụng và tôi quyết định không gây áp lực cho cô vào thời điểm này. Cô ấy rời khỏi phòng làm việc của tôi trong ủ rũ và buồn bã.

Ngày hôm sau, cô đã lục lọi tủ lạnh, ăn điên cuồng rồi ói suốt cả tiếng. Khi trở lại văn phòng của tôi, Joan nói với tôi rằng cô muốn tự tử. Và cô rất ngạc nhiên khi thấy tôi đã không tò mò, không phán xét cũng như không lên án cô vì chứng rối loạn ăn uống cũng như ý muốn tự tử. Khi tôi hỏi Joan “phần nào có liên quan thì “nhà phê bình” quay trở lại và thốt lên: “Cô ta thật đáng kinh tởm”. Khi Joan yêu cầu “phần” đó lùi lại, “phần” tiếp theo nói: “Sẽ chẳng có ai yêu tôi cả”, rồi tiếp ngay sau đó lại là “nhà phê bình” nói với tôi rằng cách tốt nhất để giúp cô ấy là bỏ qua tất cả ồn ào đó và tăng liều thuốc cho cô.

Rõ ràng, với mong muốn bảo vệ những “phần” bị thương tích của Joan, những nhà quản lý này đã vô tình làm hại cô. Vì vậy, tôi vẫn hỏi họ nghĩ chuyện gì sẽ xảy ra nếu họ lùi lại. Joan đáp: “Người ta sẽ ghét tôi” và “Tôi sẽ lẻ loi một mình”. Sau đó là một ký ức: Mẹ của cô đã nói với cô rằng nếu cô không vâng lời, cô sẽ bị cho đi làm con nuôi và không bao giờ nhìn thấy chị em hoặc con chó của mình thêm lần nào nữa. Khi tôi hỏi Joan cảm thấy thế nào về cô gái đầy sợ hãi đó, Joan đã khóc và nói rằng cô gái ấy thật đáng thương.

⚝ ✽ ⚝

DẬP LỬA

Tuần sau, Joan không đến gặp tôi. Chúng tôi đã kích hoạt “những kẻ bị đày” trong cô và những người “lính cứu hỏa” của cô đang nổi Cơn thịnh nộ. Sau này cô đã nói với tôi, buổi tối sau khi chúng tôi nói chuyện về nỗi sợ hãi bị cho làm con nuôi, cô cảm thấy như thể cô sẽ nổ tung ra khỏi chính mình. Cô ấy đã đi đến một quán rượu và chọn một chàng trai. Cô về nhà trễ, say bí tỉ và bồn chồn. Cô ấy không muốn nói chuyện với chồng mình và ngủ thiếp đi trong phòng làm việc. Sáng hôm sau cổ đã hành động như thể không có gì xảy ra.

“Lính cứu hỏa” sẽ làm bất cứ điều gì để xua tan cảm giác đau đớn. Ngoài nhiệm vụ nhốt “những kẻ bị đày”, họ còn trái ngược với những “nhà quản lý”: Nhà quản lý thì muốn kiểm soát, trong khi “lính cứu hỏa” sẽ phá hủy cả ngôi nhà để dập tắt lửa. Cuộc đấu tranh giữa các nhà quản lý kiên cường và các lính cứu hỏa ngoài tầm kiểm soát sẽ tiếp tục cho đến khi những kẻ lưu vong đang mang gánh nặng sang chấn được phép trở về nhà và được chăm sóc.

Bất cứ ai làm việc với những người sống sót đều gặp “lính cứu hỏa”. Tôi từng gặp những “lính cứu hỏa” kiểu cuồng mua sắm, nghiện rượu, nghiện trò chơi điện tử, liên tục ngoại tình, hay tập thể dục miễn cưỡng. Những việc này có thể làm lu mờ nỗi kinh hoàng và xấu hổ của đứa trẻ bị lạm dụng, dù chỉ trong một vài giờ.

Cần phải nhớ rằng, về cốt lõi, các lính cứu hỏa cũng đang cố gắng hết sức để bảo vệ hệ thống. Không giống như người quản lý thường hợp tác một cách hời hợt trong quá trình điều trị, các lính cứu hỏa không biết kiềm chế: Họ văng tục và xông ra khỏi phòng. Họ tin rằng những “cảm xúc bị đày ải” sẽ làm hỏng toàn bộ hệ thống. Họ cũng không biết có nhiều cách tốt hơn để đảm bảo sự an toàn về thể chất và tinh thần. Thậm chí ngay cả khi những hành vi như cuồng ăn và tự cắt tay ngừng lại thì những lính cứu hỏa này vẫn sẽ tìm ra các cách khác để tự hủy hoại bản thân. Những chu kỳ này chỉ chấm dứt khi Cái Tôi có thể đứng ra nhận lãnh trách nhiệm và hệ thống cảm thấy an toàn.

⚝ ✽ ⚝

GÁNH NẶNG CỦA ĐỘC TỐ

Những “kẻ bị đày” là bãi thải độc hại của hệ thống. Bởi vì chúng giữ những ký ức, cảm giác, niềm tin và cảm xúc liên quan đến sang chấn như khiếp sợ, gục ngã, thỏa hiệp, nên việc giải phóng chúng có thể gây nguy hiểm. Những kẻ bị đày có thể thể hiện dưới hình thức cảm giác thể chất đau đớn hoặc trống rỗng và họ xúc phạm cá tính hợp lý của nhà quản lý lẫn lòng dũng cảm của lính cứu hỏa.

Giống như hầu hết những người sống sót sau nạn loạn luân, Joan ghét những “kẻ bị đày”, đặc biệt là cái cô bé đã đáp ứng nhu cầu tình dục của kẻ ngược đãi và đứa trẻ sợ hãi nằm rên rỉ một mình trên giường. Khi những kẻ bị đày áp đảo các nhà quản lý, chúng sẽ kiểm soát chúng ta, chúng ta không còn gì ngoài những đứa trẻ bị bỏ rơi, yếu đuối, không được yêu thương. Cái tuổi bị “pha trộn” với những kẻ bị đày, và mọi lựa chọn để thay thế đều bị che khuất. Sau đó, như Schwartz chỉ ra: “Chúng ta nhìn thấy chính mình và thế giới qua đôi mắt của họ và tin rằng đó là thế giới. Trong trạng thái này, chúng ta sẽ chẳng nhận ra rằng mình đã bị chiếm hữu”17.

Tuy nhiên, việc nhất những kẻ bị đày lại không chỉ gạt đi những ký ức và cảm xúc mà còn gạt bỏ luôn những “phần” đang nắm giữ phần ký ức và cảm xúc ấy, những “phần” bị sang chấn làm cho tổn thương nhiều nhất. Như Schwartz đã nói: “Thông thường, đó là những phần nhạy cảm, sáng tạo nhất của bạn, yêu thương, sống động, vui tươi và vô tội. Việc lưu đày chúng khi chúng bị tổn thương sẽ khiến chúng phải chịu đựng hai cú sốc một lúc, sự sỉ nhục của việc bị chối từ cộng thêm vết thương ban đầu”18. Như đã Joan phát hiện ra, việc che giấu và khinh miệt những kẻ bị đày buộc cô phải sống mà không có sự thân mật hay niềm vui chân thật nào.

⚝ ✽ ⚝

MỞ KHÓA QUÁ KHỨ

Vài tháng sau khi điều trị Joan, chúng tôi lại chạm phải một cô gái bị lưu đày, cô gái mang nỗi nhục nhã, bối rối và xấu hổ về tình dục của Joan. Đến lúc đó, Joan đã tin tưởng tôi và phát triển đủ ý thức về bản thân để có thể chịu đựng được khi quan sát chính cô lúc còn nhỏ với tất cả những cảm xúc khủng khiếp, háo hức, đầu hàng và đồng lõa. Cô ấy đã không nói nhiều trong quá trình này. Nhiệm vụ chính của tôi là giữ cô ấy trong trạng thái bình tĩnh tự quan sát. Cô thường có khuynh hướng bỏ chạy khỏi sự ghê tởm và kinh hoàng, để mặc đứa trẻ bị chối từ này ở lại một mình trong nỗi khốn khổ của nó. Vào những lúc này, tôi đề nghị những “người bảo vệ” của Joan hãy lùi lại để Joan tiếp tục lắng nghe những gì mà cô gái bé bỏng ấy muốn nói cho cô biết.

Cuối cùng, với sự động viên của tôi, Joan đã có thể xông vào hiện trường và đưa cô gái đi cùng mình đến một nơi an toàn. Cô kiên quyết nói với kẻ ngược đãi rằng cô sẽ không bao giờ để hắn đến gần cô bé ấy nữa. Thay vì từ chối đứa trẻ, cô đã đóng một vai trò tích cực trong việc giải phóng nó. Như trong EMDR, sang chấn sẽ được giải quyết khi cô có khả năng truy cập trí tưởng tượng của mình và viết lại những cảnh đã khiến cô bị đông cứng cách đây rất lâu. Sự thụ động bất lực đã được thay thế bởi hành động do Cái Tôi quyết định.

Một khi Joan bắt đầu sở hữu những động lực và hành vi của mình, cô nhận ra sự trống rỗng trong mối quan hệ với chồng, anh Brian, và cô bắt đầu quan tâm đến việc thay đổi mối quan hệ này. Tôi nói cô hãy đi cùng Brian đến gặp tôi. Trước khi Brian gặp riêng tôi thì Joan đã trị liệu với tôi được tám buổi.

Schwartz quan sát được rằng IFS có thể giúp các “thành viên trong gia đình” làm “cố vấn” cho nhau khi họ học cách quan sát những “phần” của một người tương tác với người khác như thế nào. Tôi đã trực tiếp chứng kiến điều này với Joan và Brian. Brian ban đầu khá tự hào về việc đã phải chịu đựng hành vi của Joan từ lâu, cảm thấy rằng cô ấy thực sự cần anh và việc này đã giúp anh cân nhắc lại việc ly hôn. Nhưng giờ đây cô lại muốn gần gũi hơn, anh cảm thấy bị ép buộc và không thể thích ứng, điều này khiến anh bộc lộ một “phần” dễ hoang mang và dựng nên một bức tường ngăn cách cảm xúc.

Dần dần, Brian bắt đầu nói về việc anh lớn lên trong một gia đình bị ảnh hưởng bởi rượu, nơi những hành vi say xỉn như Joan thường được bỏ qua. Cha anh có lúc phải vào trung tâm cai nghiện, mẹ anh nhiều lần nhập viện vì bệnh trầm cảm và tự tử. Khi tôi hỏi “phần” hoảng hốt của anh là chuyện gì sẽ xảy ra nếu nó cho phép Brian cảm nhận bất cứ điều gì, thì anh ta thể hiện sự sợ hãi khi bị nỗi đau đớn xâm lấn, nỗi đau của thời thơ ấu nay được chồng thêm nỗi đau trong mối quan hệ với Joan, vợ anh.

Trong vài tuần tiếp theo đó, các “phần” khác xuất hiện. Đầu tiên là một “người bảo vệ” vốn sợ phụ nữ và quyết tâm không bao giờ để

Brian bị tổn thương vì sự thao túng của phụ nữ. Sau đó, chúng tôi phát hiện ra một “phần” chăm sóc mạnh mẽ trong anh đã chăm sóc mẹ và anh chị em của mình. Phần này đã cho Brian một cảm giác về giá trị của bản thân, một mục đích và cách để đối phó với nỗi sợ hãi của mình. Cuối cùng, Brian đã sẵn sàng để gặp “kẻ bị đày” của mình, một đứa bé sợ hãi, không có mẹ, không ai chăm sóc.

Đây là một phiên bản rất ngắn của một chuyến thám hiểm dài, có nhiều lần chuyển hướng, giống như khi nhà phê bình của Joan xuất hiện. Nhưng ngay từ đầu, IFS đã giúp Joan và Brian lắng nghe bản thân, lắng nghe lẫn nhau từ quan điểm của một Cái Tôi khách quan, tò mò và từ bi. Họ đã không còn bị nhốt trong quá khứ và một loạt các khả năng mới mở ra cho họ.

SỨC MẠNH CỦA LÒNG TỰ TRẮC ẢN: ÁP DỤNG IFS TRONG ĐIỀU TRỊ BỆNH VIÊM KHỚP DẠNG THẤP

Nancy Shadick là bác sĩ chuyên khoa xương khớp ở bệnh viện Brigham and Women tại Boston. Cô đã quyết định kết hợp phương pháp IFS vào nghiên cứu can thiệp tâm lý xã hội với bệnh nhân mắc bệnh viêm khớp dạng thấp (Rheumatoid Arthritis – RA).

RA là một bệnh tự miễn dịch, gây ra các chứng viêm trên cơ thể, dẫn đến chứng đau kinh niên và tàn tật. Thuốc có thể trì hoãn tiến triển của bệnh và giảm đau, nhưng không có cách chữa trị hoàn toàn. Bệnh nhân sống chung với RA có thể dẫn đến trầm cảm, lo lắng, cô lập và suy giảm chất lượng cuộc sống. Tôi theo dõi nghiên cứu này với sự quan tâm đặc biệt bởi vì mối liên hệ tôi đã quan sát được giữa sang chấn và bệnh tự miễn dịch.

Tiến sĩ Shadick đã làm việc với chuyên gia trị liệu IFS cao cấp Nancy Sowell để tạo ra một nghiên cứu ngẫu nhiên kéo dài chín tháng, trong đó một nhóm bệnh nhân RA sẽ nhận được cả hướng dẫn theo nhóm lẫn hướng dẫn cá nhân trong IFS, còn một nhóm đối chứng sẽ thường xuyên nhận được thư và các cuộc điện thoại liên quan đến các triệu chứng và quản lý bệnh. Cả hai nhóm tiếp tục uống thuốc của họ như bình thường. Họ được các bác sĩ chuyên khoa thấp khớp đánh giá định kỳ và các chuyên gia này không biết bệnh nhân thuộc nhóm nào.

Mục đích của nhóm IFS là dạy bệnh nhân cách chấp nhận và hiểu nỗi sợ hãi không thể tránh khỏi của họ, sự tuyệt vọng và tức giận và học cách đối xử với những cảm xúc đó như là thành viên của “gia đình bên trong” của chính họ. Họ sẽ học những kỹ năng đối thoại bên trong để giúp họ nhận ra nỗi đau của mình, xác định những suy nghĩ và cảm xúc đi kèm, sau đó tiếp cận những trạng thái bên trong với sự quan tâm và lòng trắc ẩn.

Một vấn đề cơ bản đã sớm xuất hiện. Giống như nhiều người sống sót sau sang chấn, các bệnh nhân RA đều bị mù cảm xúc. Như Nancy Sowell sau này đã kể với tôi, họ không bao giờ phàn nàn về sự đau đớn hoặc khuyết tật của mình trừ khi họ bị quá ngưỡng chịu đựng. Khi được hỏi họ cảm thấy thế nào, họ hầu như luôn trả lời: “Tôi ổn”. Những phần khắc kỷ trong họ rõ ràng đã giúp họ đối phó, nhưng những nhà quản lý này cũng giữ họ trong trạng thái phủ nhận. Một số người đã che giấu cảm giác và cảm xúc về cơ thể đến mức họ không thể hợp tác hiệu quả với bác sĩ của mình.

Để thay đổi điều này, những người dẫn dắt nhóm nghiên cứu đã giới thiệu các “phần” IFS, sắp xếp lại “phương tiện và đạo cụ” đại diện cho người quản lý, kẻ lưu vong và lính cứu hỏa. Trong vài tuần, các thành viên trong nhóm bắt đầu kể rằng những người quản lý đã bảo họ “cười và chịu đựng” vì chẳng ai muốn nghe họ than vãn về nỗi đau của mình đâu. Sau đó, khi họ yêu cầu những “phần” khắc kỷ này lùi lại, họ bắt đầu thừa nhận “phần” giận dữ muốn hét lên và đập phá, “phần” muốn nằm trên giường suốt ngày và “kẻ bị đày” cảm thấy vô ích vì không được phép lên tiếng.

Liệu pháp IFS cá nhân đã giúp bệnh nhân áp dụng ngôn ngữ của các “phần” vào các vấn đề hằng ngày. Ví dụ, một phụ nữ cảm thấy mắc kẹt trong những cuộc xung đột trong công việc của mình, nơi mà người quản lý nhấn mạnh rằng cách duy nhất để giải thoát là làm việc hết mức cho đến khi RA của cô ấy bùng lên. Với sự giúp đỡ của nhà trị liệu, cô nhận ra cô có thể chăm sóc cho nhu cầu của mình mà không làm cho mình bị bệnh.

Hai nhóm, nhóm IFS và nhóm đối chứng, đã được đánh giá ba lần trong suốt chín tháng nghiên cứu và được đánh giá thêm một lần nữa cách sau một năm. Cuối tháng thứ chín, nhóm IFS cho thấy có sự cải thiện đáng kể về đau khớp, chức năng thể chất, lòng trắc ẩn và Cơn đau toàn thân so với nhóm đối chứng. Họ cũng cho thấy những cải thiện đáng kể về triệu chứng trầm cảm và có thêm sự tự tin vào năng lực bản thân. Sự gia tăng nhận thức về cơn đau và triệu chứng trầm cảm của nhóm IFS được duy trì một năm sau đó mặc dù các kiểm tra y tế khách quan không phát hiện được sự cải thiện đáng kể về cơn đau hoặc chức năng. Nói cách khác, điều đã thay đổi nhiều nhất chính là khả năng chung sống với căn bệnh của họ. Trong phần kết luận, Shadick và Sowell nhấn mạnh sự tập trung của IFS vào lòng tự trắc ẩn là một yếu tố then chốt.

Đây không phải là nghiên cứu đầu tiên cho thấy các can thiệp tâm lý có thể giúp đỡ bệnh nhân RA. Các liệu pháp nhận thức hành vị và các thực hành dựa vào chánh niệm cũng cho thấy có ảnh hưởng tích cực đến cơn đau, viêm khớp, khuyết tật cơ thể và trầm cảm. Tuy nhiên, không có nghiên cứu nào đặt ra được câu hỏi then chốt: Có phải hệ miễn dịch hoạt động tốt hơn là do sự an toàn và thoải mái về tâm lý tăng lên?

⚝ ✽ ⚝

GIẢI PHÓNG ĐỨA TRẺ BỊ LƯU ĐÀY

Peter là người đứng đầu khoa ung thư của một trung tâm nghiên cứu y tế có uy tín và chuyên nghiệp nhất Hoa Kỳ. Anh sở hữu cơ thể hoàn hảo và thường xuyên tập thể dục. Khi ngồi trong văn phòng của tôi, anh tỏ ra tự tin đến mức kiêu ngạo. Trông anh gần như không có vẻ gì đang bị ảnh hưởng bởi PTSD. Anh nói với tôi rằng anh chỉ muốn biết làm cách nào có thể giúp vợ mình bớt thích “đụng chạm” chồng hơn. Vợ anh dọa sẽ bỏ anh nếu anh không chấm dứt cái kiểu “hành xử nhẫn tâm” với vợ, tức là không thích cho vợ đụng chạm vào người. Peter quả quyết với tôi rằng vợ anh có nhận thức méo mó về anh vì anh luôn rất đồng cảm với các bệnh nhân.

Anh thích nói chuyện về công việc, anh tự hào vì bệnh nhân và đồng nghiệp phải cạnh tranh khốc liệt để được làm việc với anh cũng như những lời đồn về việc nhân viên của anh khiếp sợ anh. Anh tự coi mình là một người thẳng tính đến tàn nhẫn, một người chỉ luôn nhìn vào sự thật. Rồi anh nhìn tôi đầy ẩn ý, nói rằng anh rất ít kiên nhẫn với những người ngu ngốc. Peter có những tiêu chuẩn cao, nhưng không cao hơn những tiêu chuẩn mà anh tự đặt ra cho chính mình, và anh ấy đảm bảo với tôi rằng anh không cần tình yêu của bất cứ ai, chỉ cần sự tôn trọng của họ.

Peter cũng nói với tôi rằng đợt thực tập đi luân khoa trong trường y đã thuyết phục anh rằng các bác sĩ tâm thần vẫn còn thực hành những phép phù thủy và một chút trải nghiệm của anh trong liệu pháp hòa giải cặp đôi đã tiếp tục khẳng định ý kiến đó. Anh tỏ ra khinh thường những người đổ lỗi cho cha mẹ hoặc xã hội về những vấn đề của họ. Dù anh có chia sẻ nỗi đau khổ khi còn nhỏ nhưng anh đã quyết tâm không bao giờ nghĩ mình là nạn nhân.

Mặc dù sự cứng rắn và lòng yêu thích sự rõ ràng của Peter đa thu hút tôi, nhưng tôi vẫn băn khoăn liệu chúng tôi có thể khám phá ra điều mà tôi thường thấy hay không: Những người quản lý bên trong, cái “phần” bị ám ảnh bởi quyền lực, thường được tạo ra để làm một bức tường ngăn cản cảm giác bất lực.

Khi tôi hỏi về gia đình, Peter nói rằng cha anh điều hành một Công ty. Ông là một người sống sót sau cuộc tàn sát người Do Thái. Cha anh có phần tàn bạo và đòi hỏi nhưng cũng là người dịu dàng và giàu tình cảm. Chính cha đã truyền cảm hứng cho Peter trở thành một bác sĩ.

Khi anh kể về mẹ, lần đầu tiên anh nhận ra rằng mẹ anh vì mải làm việc nhà mà xao nhãng chuyện quan tâm, yêu thương con cái, nhưng điều này không hề làm Peter thấy phiền lòng. Anh đi học và luôn đạt điểm A. Anh đã thể sẽ sống một cuộc đời không bị từ chối và không phải xấu hổ, nhưng trớ trêu thay, khi trưởng thành, anh đã phải sống với cái chết và sự từ chối mỗi ngày: Cái chết của những bệnh nhân ung thư và việc anh phải không ngừng tranh đấu để tìm kiếm nguồn tài trợ cho các nghiên cứu khoa học và cơ hội công bố các nghiên cứu.

Trong buổi gặp tiếp theo với tôi, Peter đi cùng vợ. Cô kể rằng Peter luôn chê bai vợ đủ điều, từ gu thẩm mỹ, cách nuôi dạy con, thói quen đọc sách, trí thông minh, đến cả bạn bè của vợ. Anh hiếm khi ở nhà và ít khi biểu lộ tình cảm. Vì anh có rất nhiều trách nhiệm quan trọng và quá nóng nảy nên cả nhà luôn luôn phải đi nhẹ nói khẽ mỗi khi ở cạnh anh. Cô đã quyết tâm bỏ chồng để bắt đầu một cuộc sống mới trừ khi chồng chịu thực hiện một số thay đổi cơ bản. Lúc này, lần đầu tiên tôi thấy Peter đau khổ rõ ràng. Anh đảm bảo với tôi và vợ rằng anh muốn cải thiện mọi chuyện.

Tại cuộc gặp tiếp theo, tôi yêu cầu Peter thư giãn cơ thể, nhắm mắt lại, tập trung chú ý vào chính nội tâm của mình và tự hỏi cái “phần” ưa chỉ trích, phê bình trong anh rằng anh sợ điều gì sẽ xảy ra khi ngừng chỉ trích vợ. Sau khoảng 30 giây, anh nói rằng anh cảm thấy ngu ngốc khi... tự nói chuyện với chính mình.

Anh bảo anh không muốn thử một mánh lới quảng cáo mới mà muốn được áp dụng “một liệu pháp đã được kiểm chứng”. Tôi cam đoan với anh rằng tôi cũng giống như anh, tôi luôn đi đầu trong các liệu pháp dựa trên thực nghiệm và rằng đây là một trong số các phương pháp đó. Anh im lặng khoảng một phút, rồi thì thầm: “Tôi sẽ bị tổn thương”.

Tôi yêu cầu anh tự hỏi phần con người ưa chỉ trích trong anh rằng sự chỉ trích có những ý nghĩa gì. Vẫn nhắm mắt, Peter trả lời: “Nếu bạn chỉ trích ai đó, họ sẽ không dám làm tổn thương bạn”. Sau đó anh đáp: “Nếu bạn là người hoàn hảo thì không ai có thể chỉ trích bạn”. Tôi yêu cầu anh hãy cảm ơn nhà phê bình trong anh vì đã bảo vệ anh khỏi bị tổn thương và làm nhục. Khi anh ấy lại im lặng, tôi có thể thấy vai anh thả lòng, hơi thở trở nên chậm và sâu hơn.

Rồi anh nói với tôi rằng anh biết sự nhút nhát của anh đang ảnh hưởng đến mối quan hệ của anh với các đồng nghiệp và sinh viên, anh cảm thấy cô đơn và bị coi thường trong các cuộc họp của nhân viên, cảm thấy không thoải mái khi dự các bữa tiệc của bệnh viện. Khi tôi hỏi liệu anh có muốn thay đổi cách mà “phần” giận dữ của anh đe dọa người khác, anh đáp rằng anh đã làm. Sau đó, tôi hỏi anh nó được đặt ở đâu trong cơ thể anh và Peter nói anh thấy nó giữa ngực mình. Vẫn giữ cho anh tập trung vào bên trong chính mình, tôi hỏi anh cảm