← Quay lại trang sách

Chương 19 TÁI KẾT NỐI NÃO BỘ: PHẢN HỒI THẦN KINH

Đó là sự thật - hay là tôi mơ tưởng - rằng nhờ vào dòng điện, thế giới vật chất trở thành một hệ thần kinh khổng lồ, rung động hàng ngàn dặm chỉ trong một khoảnh khắc?

Nathaniel Hawthorne

Mùa hè đầu tiên của tôi khi theo học trường y, tôi làm trợ lý nghiên cứu bán thời gian trong phòng thí nghiệm giấc ngủ của Ernest Hartmann tại Bệnh viện bang Boston. Công việc của tôi là chuẩn bị và theo dõi những người tham gia nghiên cứu và phân tích điện não đồ (electroencephalogram - EEG) của họ, còn gọi là sóng não. Những người tham gia sẽ đến vào buổi tối, tôi dán một mớ dây điện lên đầu họ và một bộ điện cực khác xung quanh mắt để ghi lại những chuyển động mắt nhanh xảy ra trong giấc mơ. Sau đó, tôi sẽ đưa họ đến phòng ngủ, chúc họ ngủ ngon và khởi động máy đa ký để ghi nhận lại sóng não,

Mặc dù các đối tượng của chúng tôi đã ngủ thiếp đi nhưng các tế bào thần kinh trong não của họ tiếp tục điên cuồng truyền thông tin nội bộ, các tín hiệu này được truyền sang máy đa ký suốt đêm. Khi điện não cho thấy họ đang trong giai đoạn giấc ngủ REM thì tôi sẽ đánh thức họ dậy và hỏi những gì họ đã nằm mơ rồi ghi lại báo cáo. Sáng hôm sau, tôi giúp họ điền một bảng câu hỏi về chất lượng giấc ngủ và cho họ về nhà.

Trong những đêm yên tĩnh ở phòng thí nghiệm của Hartmann, tôi đã ghi chép nhiều về giấc ngủ REM và góp phần xây dựng những hiểu biết cơ bản về quá trình ngủ, mở đường cho các khám phá quan trọng mà tôi đã thảo luận trong chương 15. Tuy nhiên, cho đến gần đây, niềm hy vọng EEG sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về cơ chế hoạt động của não bộ đối với các vấn đề tâm thần thì vẫn chưa được hiểu rõ.

⚝ ✽ ⚝

LẬP BẢN ĐỒ NHỮNG MẠCH ĐIỆN NÃO

Trước khi cuộc cách mạng dược lý xuất hiện, mọi người hiểu rằng hoạt động não phụ thuộc vào cả hai tín hiệu hóa học và điện. Sự thống trị tiếp theo của dược lý học gần như đã làm người ta không còn quan tâm đến điện sinh lý học của não trong nhiều thập kỷ.

Bảng ghi đầu tiên của hoạt động điện não được nhà tâm thần học người Đức Hans Berger thực hiện vào năm 1924. Ban đầu, công nghệ mới này đã bị cơ sở y tế hoài nghi và chế nhạo, tuy nhiên, điện não đồ trở thành một công cụ không thể thiếu để chẩn đoán hoạt động của những cơn co giật ở bệnh nhân động kinh. Berger phát hiện những mẫu sóng não khác nhau phản ánh những hoạt động tinh thần khác nhau. (ví dụ: cố gắng giải một bài toán tạo ra dãy sóng có tần số nhanh vừa phải gọi là sóng beta). Ông hy vọng rằng cuối cùng khoa học sẽ có thể liên kết các vấn đề tâm thần khác nhau với những điểm bất thường trong điện não đồ.

Sự mong đợi này được thúc đẩy nhờ các báo cáo đầu tiên về mô hình EEG trong “trẻ em có vấn đề về hành vi” vào năm 1938. Hầu hết những trẻ em hiếu động và bốc đồng này đều có sóng não chậm hơn bình thường ở thùy trán. Kể từ đó, phát hiện này đã \được mô phỏng lại vô số lần. Và vào năm 2013, Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm (Food and Drug Administration - FDA) đã công nhận hoạt động sóng chậm ở vùng não trán trước là dấu chỉ sinh học cho chứng rối loạn tăng động giảm chú ý – ADHD. Hoạt động sóng não chậm ở thùy trán giải thích tại sao những đứa trẻ này có chức năng điều hành nghèo nàn: Phần não lý trí của chúng không kiểm soát được phần não cảm xúc, điều này cũng xảy ra khi lạm dụng và sang chấn đã làm cho trung tâm cảm xúc bị cảnh báo nguy hiểm quá mức và được sắp xếp để khiến người ta chiến đấu hoặc chạy trốn.

Tôi cũng hy vọng rằng EEG có thể giúp chúng tôi chẩn đoán tốt hơn. Giữa thập niên 1980 và 1990, tôi đã lập EEG cho nhiều bệnh nhân của tôi để xác định xem sự mất ổn định cảm xúc của họ có bắt nguồn từ những điểm bất thường về thần kinh hay không. Các báo cáo thường có cụm từ sau: “có những bất thường không đặc hiệu ở thùy thái dương”?. Kết quả không cho tôi biết được gì nhiều và bởi vì tại thời điểm đó, cách duy nhất chúng ta có thể thay đổi những mô hình không rõ ràng này là dùng các loại thuốc có nhiều tác dụng phụ hơn hiệu quả chữa trị nên tôi từ bỏ việc đo EEG cho bệnh nhân.

Năm 2000, một nghiên cứu của bạn tôi – Alexander McFarlane và các cộng sự của ông (các nhà nghiên cứu ở Adelaide, Australia) đã khơi lại sự hứng thú của tôi với EEG vì nó đã chứng minh sự khác biệt rõ ràng trong cách xử lý thông tin của các đối tượng bị sang chấn và một nhóm người Úc “bình thường”. Các nhà nghiên cứu đã sử dụng một bài kiểm tra được chuẩn hóa gọi là “bài trắc nghiệm phát hiện điểm bất thường” (the oddball paradigm), trong đó các đối tượng được yêu cầu phát hiện ra những thứ không phù hợp trong một loạt các hình ảnh có liên quan (như tìm ra một chiếc kèn trumpet trong một nhóm ảnh về bàn ghế). Không có hình ảnh nào liên quan đến sang chấn.

Trong các nhóm “bình thường”, các vùng chủ chốt của não đã làm việc với nhau để tạo ra một mẫu điện não có chọn lọc, tập trung và phân tích chặt chẽ (hình bên trái phía dưới). Ngược lại, sóng não của các đối tượng bị sang chấn lại phối hợp một cách lỏng lẻo hơn và không thành công trong việc kết hợp với nhau thành một mô hình chặt chẽ (hình bên phải phía dưới). Cụ thể, họ không tạo ra mô hình sóng não giúp con người chú ý đến công việc đang làm bằng cách lọc ra các thông tin không liên quan. Ngoài ra, cấu hình xử lý thông tin cốt lõi của não không được xác định rõ ràng, chiều sâu của sóng xác định chúng ta có thể tiếp nhận và phân tích dữ liệu tốt như thế nào. Đây là thông tin quan trọng về cách những người bị sang chấn xử lý các thông tin không gây sang chấn, điều này giúp ta hiểu cách các bệnh nhân bị sang chấn xử lý thông tin trong cuộc sống hằng ngày. Những mẫu sóng não này có thể giải thích tại sao rất nhiều người bị sang chấn gặp khó khăn khi học hỏi kinh nghiệm và tham gia trọn vẹn vào cuộc sống hằng ngày của họ. Bộ não của họ không được tổ chức để chú ý đến những gì đang xảy ra trong giây phát hiện tại.

⚝ ✽ ⚝

PIC

Nghiên cứu của McFarlane nhắc nhở tôi về những gì Pierre Janet đã nói vào năm 1889: “Stress do sang chấn là một dạng bệnh lý của việc không thể sống trọn vẹn ở hiện tại”. Nhiều năm sau, khi tôi xem bộ phim The Hurt Locker (Chiến dịch Sói sa mạc), kể về trải nghiệm của những người lính ở Iraq, tôi lập tức nhớ lại nghiên cứu của McFarlane: Khi phải đối phó với những căng thẳng cao độ, những người đàn ông này thể hiện sự tập trung chính xác, nhưng khi trở lại cuộc sống dân sự, họ lại bị choáng ngợp khi phải đưa ra những lựa chọn đơn giản trong siêu thị.

Nghiên cứu của McFarlane đã làm sáng tỏ việc thiếu tập trung và thiếu chú ý ở những người bị PTSD nhưng nó cũng đưa ra một thách thức hoàn toàn mới: Có cách nào để thay đổi những mẫu sóng não bị rối loạn này không?

Năm 2007, tôi gặp Sebern Fisher tại một cuộc hội thảo về những đứa trẻ bị rối loạn gắn bó. Sebern từng là trưởng khoa lâm sàng ở một trung tâm điều trị nội trú dành cho thanh thiếu niên bị quấy rối nghiêm trọng. Cô ấy nói mình đã sử dụng phản hồi thần kinh (neurofeedback) trong khoảng mười năm. Cô cho tôi xem bản vẽ trước và sau khi điều trị của một cậu bé mười tuổi. Cậu bé này đã có những cơn nóng giận, bị khuyết tật học tập và gặp khó khăn trong việc tự chủ tới mức không thể sinh hoạt ở trường.

Bức tranh gia đình đầu tiên của em (xem hình ở trang sau), được vẽ trước khi đợt điều trị bắt đầu, bức tranh được vẽ ở trình độ như một em bé ba tuổi. Chưa đầy năm tuần sau, sau hai mươi đợt phản hồi thần kinh, Cơn cáu giận của em đã giảm và bức tranh của em cho thấy nét vẽ cải thiện nhiều, phức tạp hơn. Thêm mười tuần và hai mươi buổi trị liệu nữa, bức tranh của em đã có một bước nhảy vọt về độ phức tạp và hành vi của em đã trở lại bình thường.

Tôi chưa bao giờ thấy một phương pháp điều trị nào có thể tạo ra một sự thay đổi đáng kể của chức năng tâm thần trong một thời gian ngắn như vậy. Do đó, khi Sebern mời tôi tham gia một buổi thao diễn phản hồi thần kinh, tôi háo hức đồng ý ngay.

⚝ ✽ ⚝

PIC

⚝ ✽ ⚝

NHÌN VÀO BẢN GIAO HƯỞNG CỦA NÃO BỘ

Tại văn phòng của Sebern ở Northampton, Massachusetts, cô đã cho tôi xem thiết bị phản hồi thần kinh: hai máy tính để bàn và một bộ khuếch đại nhỏ cùng một số dữ liệu cô ấy thu thập được.

Sau đó cô dán một điện cực vào mỗi bên hộp sọ của tôi và một điện cực khác lên tại phải tôi. Chẳng mấy chốc, trên máy tính hiện ra hàng sóng não giống như những gì tôi thấy trên máy đa ký trước kia. Máy tính xách tay nhỏ bé của Sebern có thể phát hiện, ghi lại và hiển thị bản giao hưởng điện não nhanh hơn và chính xác hơn so với bộ máy móc hàng triệu đô-la trong phòng thí nghiệm của Hartmann.

Như Sebern đã giải thích, phản hồi cung cấp cho não bộ một tấm gương phản chiếu chức năng của nó: các dao động và nhịp để làm cơ sở cho dòng mạch điện thần kinh. Phản hồi thần kinh thúc đẩy bộ não tạo thêm nhiều hoặc bớt tạo ra một số sóng não nhằm hình thành các mô hình mới làm tăng tính phức tạp tự nhiên và thiên hướng tự điều chỉnh. “Có hiệu quả”, cô nói với tôi, “chúng ta có thể giải phóng các đặc tính dao động bẩm sinh nhưng đang bị mắc kẹt trong não và cho phép phát triển những dao động mới”.

Sebern đã điều chỉnh một số thiết lập, “để kích thích và hạn chế tần số”, như cô giải thích, từ đó phản hồi có thể củng cố các mẫu sóng não đã chọn đồng thời làm ức chế những mẫu sóng não khác. Bây giờ tôi nhìn vào một cái gì đó giống như trò chơi video với ba tàu vũ trụ có màu sắc khác nhau. Máy tính phát ra âm thanh không đều và các tàu vũ trụ đang di chuyển khá ngẫu nhiên. Tôi phát hiện khi tôi chớp mắt, chúng dừng lại, và khi tôi bình tĩnh nhìn chằm chằm vào màn hình thì chúng di chuyển song song, kèm theo tiếng bíp thường lệ. Sebern sau đó khuyến khích tôi làm cho các tàu vũ trụ màu xanh di chuyển trước những con tàu màu khác. Tôi nghiêng về phía trước để tập trung, nhưng tôi càng cố gắng thì càng có nhiều tàu vũ trụ màu xanh rơi lại phía sau.

Cô mỉm cười và nói với tôi rằng tôi sẽ làm tốt hơn nếu tôi thư giãn và để cho não của tôi tiếp nhận sự phản hồi do máy tính tạo ra. Vì vậy, tôi ngồi xuống, và sau một lúc chiếc tàu vũ trụ xanh bắt đầu vượt lên trên những chiếc khác. Tôi cảm thấy bình tĩnh, tập trung và phi thuyền của tôi đã chiến thắng.

Theo một cách nào đó, phản hồi thần kinh cũng giống như quan sát khuôn mặt của ai đó khi trò chuyện. Nếu bạn nhìn thấy nụ cười hoặc gật đầu nhẹ, bạn sẽ được khen thưởng và bạn tiếp tục kể câu chuyện của mình hoặc đưa ra quan điểm. Nhưng thời điểm người nói chuyện với bạn trông buồn chán hoặc thay đổi ánh mắt, bạn sẽ bắt đầu tóm lại chủ để hoặc thay đổi chủ đề. Trong phản hồi thần kinh, phần thưởng là một giai điệu hoặc chuyển động trên màn hình thay vì một nụ cười, và sự ức chế là một mô hình sóng não không mong muốn, nó có tính trung lập hơn nhiều so với cái nhăn mặt của người đối diện khi trò chuyện.

Tiếp đó, Sebern giới thiệu một tính năng khác của phản hồi thần kinh: khả năng theo dõi các mạch điện ở các phần cụ thể trong não. Cô di chuyển các điện cực từ hai thái dương sang lông mày trái của tôi và tôi bắt đầu cảm thấy nhạy và tập trung. Cô ấy nói với tôi rằng cô ấy đã kích thích các sóng beta ở vỏ não trán trước của tôi, điều này đã giúp tôi tỉnh táo. Khi cô ấy di chuyển các điện cực đến đỉnh đầu của tôi, tôi cảm thấy tách rời hơn khỏi các hình ảnh máy tính và nhận thức rõ hơn về những cảm giác trong cơ thể. Sau đó, cô ấy cho tôi thấy một biểu đồ tóm tắt ghi nhận sóng não của tôi đã thay đổi như thế nào khi tôi trải qua những thay đổi tinh tế trong trạng thái tinh thần và cảm giác thể chất của tôi.

Làm sao có thể sử dụng phản hồi thần kinh để giúp điều trị sang chấn? Như Sebern giải thích: “Với phản hồi thần kinh, chúng tôi hy vọng sẽ can thiệp vào các mạch điện não đã thúc đẩy và duy trì trạng thái sợ hãi, xấu hổ và giận dữ. Đó là việc đốt cháy lặp đi lặp lại những mạch điện não gây ra sang chấn”. Bệnh nhân cần được giúp đỡ để thay đổi các mô hình não do sang chấn gây ra và hậu quả của nó. Khi các mô hình sợ hãi được thư giãn, não trở nên ít nhạy cảm hơn trước các phản ứng tự động gây căng thẳng và có thể tập trung tốt hơn vào các sự kiện bình thường. Dù sao đi nữa, stress không phải là một di sản từ chính nó, mà đó là do cách thức chúng ta dán nhãn và phản ứng với sự kiện gây stress. Phản hồi thần kinh chỉ đơn giản là ổn định bộ não và tăng khả năng phục hồi, cho phép chúng ta phát triển nhiều lựa chọn hơn trong cách phản ứng.

⚝ ✽ ⚝

SỰ RA ĐỜI CỦA PHẢN HỒI THẦN KINH

Phản hồi thần kinh không phải là một kỹ thuật mới vào năm 2007. Ngay từ cuối những năm 1950, giáo sư tâm lý học Joe Kamiya của Đại học Chicago đã khám phá ra rằng mọi người có thể học hỏi thông qua phản hồi để nói khi nào họ đang tạo ra sóng alpha, dạng sóng liên quan đến sự thư giãn. (Một số người tham gia nghiên cứu chỉ mất bốn ngày để đạt được độ chính xác 100%.) Sau đó, ông đã chứng minh rằng họ cũng có thể tự nguyện bước vào một trạng thái alpha để đáp lại một tín hiệu âm thanh đơn giản.

Vào năm 1968, một bài báo về công trình của Kamiya đã được xuất bản trên tạp chí Psychology Today (Tâm lý học ngày nay) và ý tưởng luyện tập sóng alpha có thể làm giảm stress và các bệnh liên quan đến stress trở nên nổi tiếng.

Công trình khoa học đầu tiên do Barry Sterman thực hiện tại UCLA cho thấy phản hồi thần kinh có thể ảnh hưởng đến các điều kiện bệnh học. NASA (The National Aeronautics and Space Administration - Cơ quan Hàng không và Vũ trụ Quốc gia) đã đề nghị Sterman nghiên cứu độc tính của một loại nhiên liệu tên lửa, monomethylhydrazine (MMH), gây ra ảo giác, buồn nôn và động kinh.

Sterman trước đây đã huấn luyện một số con mèo để tạo ra một tần số EEG cụ thể được gọi là nhịp cảm giác vận động (sensorimotor rhythm). Ông phát hiện ra rằng mặc dù các chú mèo trong phòng thí nghiệm của ông đã phát triển động kinh sau khi tiếp xúc với MMH, nhưng những con mèo được tập phản hồi thần kinh thì không. Việc luyện tập phản hồi thần kinh bằng cách nào đó đã ổn định bộ não của chúng.

Năm 1971, lần đầu tiên, Sterman đã gắn thiết bị phản hồi thần kinh lên con người – đó là Mary Fairbanks, 23 tuổi. Cô bị chứng động kinh từ năm lên tám, mỗi tháng bị co giật mạnh hai lần hoặc nhiều hơn. Cô đã tập luyện 1 tiếng/ngày, 2 ngày/tuần. Sau ba tháng tập luyện, cô hầu như không còn bị động kinh nữa. Sterman sau đó nhận \được tài trợ từ Viện Sức khỏe Quốc gia để tiến hành một nghiên cứu có hệ thống hơn và kết quả ấn tượng đã được công bố trên tạp chí Epilepsia năm 19786.

Kể từ đó, lĩnh vực phản hồi thần kinh đã phát triển với nhiều nền tảng khoa học đang được thực hiện ở châu Âu, Nga và Úc. Tuy nhiên, mặc dù có khoảng mười ngàn nhà thực hành phản hồi thần kinh ở Mỹ nhưng phương pháp này vẫn chưa được nghiên cứu đầy đủ để được chấp nhận rộng rãi.

⚝ ✽ ⚝

TỪ NHÀ TÌNH THƯƠNG TRỞ THÀNH TRẠM Y TẾ

Sebern đã sắp xếp để tôi nói chuyện với ba bệnh nhân của cô. Tất cả đều kể những câu chuyện đáng chú ý, nhưng khi tôi nghe câu chuyện của Lisa, 28 tuổi, đang học y tá tại một trường đại học gần đó, tôi như bừng tỉnh trước tiềm năng tuyệt vời của phương pháp điều trị này. Lisa sở hữu một yếu tố mà duy nhất con người mới có được: Cô ấy là một người hấp dẫn, tò mò và rõ ràng là rất thông minh. Cô có thể giao tiếp bằng mắt rất tuyệt vời và cô rất mong muốn chia sẻ những gì đã học được về bản thân mình. Điều hay nhất là cô ấy có khiếu hài hước và thích đùa.

Dựa vào những gì tôi biết về xuất thân của Lisa thì việc cô ấy rất bình tĩnh và tự chủ quả là kỳ diệu. Cô đã sống nhiều năm trong nhà tập thể và bệnh viện tâm thần và nhiều lần được cấp cứu vì dùng thuốc quá liều hoặc vì mất máu do vết thương tự gây ra.

Cô bắt đầu câu chuyện của mình như sau: “Tôi thường ghen tị với những đứa trẻ biết trước bố mẹ sẽ làm gì khi say rượu vì chí ít chúng còn đoán được bố mẹ sẽ đập phá, chửi bới, đánh đập con cái thế nào. Trong gia đình tôi không hề có một khuôn mẫu nhất định nào cả. Bất cứ điều gì cũng có thể khiến mẹ tôi nổi nóng, từ chuyện tôi ăn tối, xem ti vi hay đi từ nhà đến trường, mặc quần áo. Tôi không thể đoán trước bà ấy sẽ làm gì hay sẽ làm tổn thương tôi bằng cách nào. Mọi việc thường rất ngẫu nhiên”.

Bố cô đã bỏ nhà ra đi khi cô mới ba tuổi, để mặc cô chịu đựng người mẹ bị tâm thần phân liệt của mình. “Bị tra tấn” không phải là từ quá nặng nề để miêu tả những gì Lisa phải chịu đựng.

Cô kể: “Tôi ở trong phòng gác mái và trên đó còn có một phòng khác mà tôi sẽ vào đó và đi tiểu lên tấm thảm vì quá sợ hãi chuyện đi xuống cầu thang để vào phòng tắm. Tôi lột hết quần áo của những con búp bê của mình rồi dùng bút chì đâm thủng chúng rồi treo chúng trên cửa sổ”.

Năm 12 tuổi, Lisa chạy trốn khỏi nhà, sau đó bị cảnh sát bắt và đưa về nhà. Khi cô chạy khỏi nhà lần thứ hai, những nhân viên bảo vệ trẻ em đã can thiệp. Sáu năm tiếp theo, Lisa ở trong các bệnh viện tâm thần, nhà trú ẩn, nhà tập thể, những gia đình nhận con nuôi và kể cả sống trên đường phố. Cô chẳng ở nơi nào được lâu vì cô quá tách biệt và khiếp sợ những người chăm sóc mình.

Cô sẽ tự làm hại bản thân hoặc đập phá đồ đạc, rồi sau đó không nhớ mình đã làm gì, thế nên nhiều người nghĩ cô là kẻ nói dối. Nhìn lại, Lisa nói với tôi, cô ấy thiếu ngôn ngữ để mô tả những gì đang diễn ra với mình.

Năm 18 tuổi, cô phải bắt đầu cuộc sống tự lập với hoàn cảnh không có gia đình, không học vấn, không tiền bạc, không kỹ năng. Nhưng ngay sau khi xuất viện, cô đi tìm Sebern. Sebern vừa mua thiết bị phản hồi thần kinh đầu tiên. Sebern vẫn còn nhớ Lisa, người từng ở trung tâm điều trị nội trú mà Sebern từng làm việc. Sebern luôn quý mến cô gái lạc lõng này và khuyên Lisa thử sử dụng bộ thiết bị mà cô vừa mua.

Sebern nhớ lại: “Khi Lisa đến gặp tôi lần đầu, đó là mùa thu. Cô đi đi lại lại với một ánh nhìn trống rỗng, tay cầm một quả bí ngô”.

Bất kỳ hình thức trò chuyện trị liệu nào cũng không thể thực hiện được đối với Lisa. Bất cứ khi nào Sebern hỏi cô về điều gì căng thẳng, Lisa liền đóng sập bản thân lại hoặc trở nên hoảng loạn.

Theo lời của Lisa: “Mỗi lần chúng tôi cố gắng nói về những chuyện đã xảy ra với tôi thì tôi đều suy sụp. Tôi sẽ thức dậy với vết cắt, vết bỏng và không thể ăn được gì. Tôi cũng không thể ngủ được”.

Cô cảm thấy sợ hãi mọi lúc mọi nơi: “Tôi luôn sợ hãi. Tôi không thích ai đó chạm vào mình. Tôi lúc nào cũng hốt hoảng và lo sợ. Tôi không thể nhắm mắt lại khi có ai đó ở xung quanh. Sẽ chẳng thể thuyết phục được tôi rằng ai đó sẽ không đá vào tôi khi tôi nhắm mắt lại. Điều đó khiến bạn cảm thấy mình thật điên rồ. Bạn biết rằng mình đang ở trong một căn phòng với người mà bạn có thể tin tưởng được, bạn biết rằng sẽ chẳng có điều gì xảy đến với bạn nhưng cả cơ thể bạn thì khác và bạn không thể nào thanh thản được. Nếu ai đó ôm lấy tôi, tôi sẽ lùi lại”. Cô bị mắc kẹt trong một trạng thái liên tục bị kích động.

Lisa nhớ lại sự phân ly khi cô còn là một cô bé, nhưng mọi thứ trở nên tồi tệ hơn sau tuổi dậy thì: “Tôi bắt đầu tỉnh dậy với những vết cắt trên người và bạn học của tôi sẽ gọi tôi bằng nhiều cái tên khác nhau. Tôi không thể có được một người bạn trai lâu dài vì khi tôi phân ly nhân cách, tôi sẽ quen những người khác và tôi không thể nhớ ra được. Tôi từng ngất xỉu rất nhiều và khi mở mắt ra, tôi đều trông thấy vô vàn những tình huống khác nhau”. Giống như nhiều người bị sang chấn nghiêm trọng, Lisa không thể nhận ra mình trong gương.

Không gì có thể mô tả tình trạng của cô. “Năm 17 tuổi, tôi sống trong một nhà tập thể dành cho những thanh thiếu niên bất ổn trầm trọng, tôi dùng nắp hộp thiếc cắt cơ thể mình. Họ đưa tôi đến phòng cấp cứu nhưng tôi không thể nói với bác sĩ rằng tôi đã tự cắt mình bằng cách nào vì tôi không nhớ bất cứ gì về điều đó. Bác sĩ cấp cứu tin rằng chứng rối loạn đa nhân cách không tồn tại... Rất nhiều người trong lĩnh vực sức khỏe tâm thần nói với bạn rằng nó không tồn tại. Không phải là bạn không có bệnh mà là căn bệnh đó không tồn tại”.

Điều đầu tiên Lisa làm sau khi đã quá tuổi theo quy định của chương trình điều trị nội trú chính là ngưng dùng thuốc: “Điều này không phải là đúng cho tất cả mọi người”, cô thừa nhận, “nhưng nó đã trở thành một lựa chọn cá nhân đúng đắn của tôi. Tôi biết có những người cần thuốc, nhưng đó không phải là trường hợp của tôi. Sau khi ngưng dùng thuốc và bắt đầu trị liệu phản hồi thần kinh, tôi trở nên minh mẫn hơn”.

Khi mời Lisa thử nghiệm phương pháp phản hồi thần kinh, Sebern không biết mình mong đợi điều gì vì Lisa là bệnh nhân bị phân ly đầu tiên mà cô thử nghiệm. Họ gặp nhau hai lần một tuần và bắt đầu bằng cách tưởng thưởng cho các mô hình não phù hợp hơn trong thùy thái dương bên phải, trung tâm sợ hãi của não. Sau vài tuần, Lisa nhận thấy mình không còn quá căng thẳng với mọi người nữa và cô không còn sợ hãi khi ở trong tầng hầm giặt ủi tại tòa nhà của cô nữa. Sau đó đã có một bước đột phá: Cô không còn phân ly nữa. “Tôi luôn có những cuộc đối thoại thì thầm trong đầu mình”, cô hồi tưởng. “Tôi đã sợ mình bị tâm thần phân liệt. Sau nửa năm dùng phương pháp phản hồi thần kinh, tôi không còn nghe thấy những tiếng nói đó nữa. Có lẽ là tôi đã tích hợp được. Mọi thứ đã hòa vào nhau”.

Khi Lisa phát triển một cảm giác liên tục hơn về bản thân, cô đã có thể kể lại những trải nghiệm của mình: “Bây giờ tôi thực sự có thể nói về những thứ như tuổi thơ của tôi. Lần đầu tiên tôi bắt đầu có thể thực hiện liệu pháp điều trị. Cho đến lúc đó, tôi vẫn không có đủ khoảng cách và tôi không có đủ bình tĩnh. Nếu bạn vẫn bị mắc kẹt, bạn sẽ rất khó nói ra. Tôi đã không thể gắn bó theo cách mà bạn cần phải gắn bó và cởi mở theo cách mà bạn cần phải cởi mở để có bất kỳ kiểu quan hệ nào với một nhà trị liệu”. Đây là một sự nhận thức tuyệt vời: Rất nhiều bệnh nhân không thể có những kết nối có ý nghĩa bởi vì họ vẫn “mắc kẹt trong đó”. Tất nhiên, khi mọi người không biết họ là ai, họ không thể nhìn thấy thực tế của những người xung quanh họ.

Lisa tiếp tục: “Có rất nhiều mối lo âu xung quanh việc gắn bó. Tôi sẽ vào phòng và cố gắng ghi nhớ mọi cách để có thể thoát ra, mọi chi tiết về một người. Tôi cố gắng hết sức để theo dõi mọi thứ có thể làm tôi tổn thương. Bây giờ tôi nhận biết mọi người theo một cách khác. Nó không dựa trên việc ghi nhớ họ vì tôi sợ hãi. Khi bạn không sợ bị tổn thương, bạn có thể biết mọi người theo một cách khác”.

Người phụ nữ trẻ tuổi hoạt bát này, từ đáy sâu thẳm của tuyệt vọng và hỗn độn đã trỗi dậy với một sự sáng suốt và tập trung mà tôi chưa từng thấy. Rõ ràng là chúng ta phải khám phá tiềm năng của phản hồi thần kinh ở Trung tâm Điều trị Sang chấn.

⚝ ✽ ⚝

BẮT ĐẦU VỚI PHẢN HỒI THẦN KINH

Trước tiên, chúng tôi phải quyết định chọn cái nào trong năm hệ thống phản hồi thần kinh để áp dụng và sau đó, tìm một dịp nghỉ cuối tuần dài ngày để học các nguyên tắc và thực hành với nhau.

Tám nhân viên và ba huấn luyện viên đã tình nguyện dành thời gian khám phá sự phức tạp của điện não đồ, điện cực và phản hồi do máy tính tạo ra. Vào buổi sáng thứ hai của đợt huấn luyện, khi tôi hợp tác với đồng nghiệp Michael, tôi đã đặt một điện cực ở phía bên phải đầu của anh ấy, ngay phía trên dải cảm giác vận động của não anh ấy và chọn tần số từ 11 đến 14 hertz.

Ngay sau khi buổi huấn luyện kết thúc, Michael yêu cầu cả nhóm chú ý. Anh ấy kể mình vừa có một trải nghiệm lạ thường. Anh ấy luôn cảm thấy không thoải mái và không an toàn trước sự có mặt của người khác, kể cả những đồng nghiệp như chúng tôi. Mặc dù không ai chú ý đến điều này – bởi anh là một nhà trị liệu đáng nể trọng - anh sống trong một cảm giác bất an gặm nhấm kéo dài. Cảm xúc đó giờ đã biến mất và anh cảm thấy an toàn, thoải mái và cởi mở. Trong ba năm tiếp theo, Michael trở thành một trong những người đóng góp có giá trị nhất cho chương trình phản hồi thần kinh của chúng tôi.

Với sự trợ giúp của Quỹ ANS, chúng tôi đã bắt đầu nghiên cứu đầu tiên của chúng tôi với một nhóm 17 bệnh nhân không đáp ứng với các phương pháp điều trị trước đó. Chúng tôi tập trung vào vùng não thái dương bên phải của não, vùng não bị kích hoạt mãnh liệt trong suốt thời gian stress do sang chấn (được mô tả trong các nghiên cứu của chúng tôi đã trình bày ở chương 3” và chúng tôi đã cho họ 20 buổi phản hồi thần kinh trong hơn mười tuần.

Vì hầu hết những bệnh nhân này đều bị mù cảm xúc nên họ không dễ nói lại phản ứng của họ đối với các phương pháp điều trị. Nhưng hành động của họ thì nói lên tất cả. Họ thường xuyên đến cuộc hẹn rất đúng giờ, ngay cả khi phải lái xe trong bão tuyết. Không ai bỏ cuộc và khi kết thúc đầy đủ 20 buổi trị liệu, chúng tôi có thể ghi lại các cải thiện đáng kể không chỉ ở điểm số PTSD của họ mà còn trong sự thoải mái giữa các cá nhân với nhau, sự cân bằng cảm xúc và sự tự nhận thức của họ. Họ ngủ ngon hơn, cảm thấy bình tĩnh hơn và tập trung hơn.

Trong mọi trường hợp, việc đối tượng tham gia nghiên cứu tự báo cáo lại tình trạng của mình có thể không đáng tin cậy, những thay đổi khách quan trong hành vi mới là các chỉ số tốt hơn để cho biết hướng điều trị có hiệu quả như thế nào. Bệnh nhân đầu tiên tôi điều trị bằng phản hồi thần kinh là một ví dụ điển hình. Anh có chuyên môn, ở tuổi 50, tự coi mình là người thích người khác giới, nhưng anh có sự thôi thúc bắt buộc phải tìm cách quan hệ với những người đồng giới lạ mặt bất cứ khi nào anh cảm thấy bị bỏ rơi và bị hiểu lầm. Hôn nhân của anh tan vỡ vì vấn đề này và anh có HIV dương tính; anh tuyệt vọng trong việc làm chủ hành vi của mình.

Trong một liệu pháp được sử dụng trước đó, anh đã nói rất nhiều về việc mình bị một người chú lạm dụng tình dục khi anh khoảng tám tuổi. Chúng tôi giả định rằng sự, thôi thúc trong anh có liên quan đến việc anh bị lạm dụng, nhưng giả định này không giúp làm thay đổi hành vi của anh. Sau hơn một năm trị liệu tâm lý thường xuyên với một nhà trị liệu giỏi chuyên môn, anh vẫn không có gì thay đổi.

Một tuần sau khi anh được tôi luyện tập để thùy thái dương bên phải của anh tạo ra sóng chậm hơn thì anh và bạn gái xảy ra cãi vã, lúc ấy, thay vì tìm sự giải tỏa trong tình dục đồng giới như thói quen, anh đã quyết định đi câu cá. Tôi cho là phản ứng này thể hiện cơ hội điều trị hiệu quả cho anh.

Trong mười tuần tiếp theo, trong mối quan hệ rối rắm của mình, anh vẫn tiếp tục tìm sự an ủi trong câu cá và bắt đầu cải tạo một cabin bên bờ hồ. Tuy nhiên, khi chúng tôi bỏ qua ba tuần phản hồi thần kinh vì vướng lịch đi nghỉ thì sự cưỡng bách trong anh đột ngột trở lại, điều này cho thấy bộ não của anh vẫn chưa ổn định với mô hình mới của nó. Chúng tôi đã tập luyện thêm sáu tháng nữa và bây giờ, bốn năm sau, tôi gặp anh ta khoảng sáu tháng một lần để kiểm tra. Anh không còn cảm giác ham muốn tham gia vào các hoạt động tình dục nguy hiểm nữa.

Làm thế nào mà bộ não của anh ấy lại có được sự thoải mái từ việc câu cá chứ không phải từ hành vi tình dục cưỡng bức? Tại thời điểm này, chúng tôi vẫn chưa biết lý do. Phản hồi thần kinh làm thay đổi mô hình kết nối trong não; tiếp theo, việc tạo ra các mô hình mới làm thay đổi tâm trí.

⚝ ✽ ⚝

SÓNG NÃO CƠ BẢN TỪ CHẬM ĐẾN NHANH

Mỗi dòng trên EEG biểu diễn cho hoạt động của một phần khác nhau trong não: sự kết hợp của các nhịp điệu khác nhau, từ chậm đến nhanh!?. EEG kết hợp các phép đo độ cao (biên độ) và chiều dài sóng (tần số) khác nhau. Tần số là số lần mà một dạng sóng tăng và giảm trong một giây, được đo bằng Hz hoặc số chu kỳ trong mỗi giây (cycle per second - cps). Mỗi tần số trên EEG liên quan đến việc hiểu và điều trị sang chấn, và những điều cơ bản tương đối dễ nắm bắt.

Sóng delta có tần số chậm nhất (2-5 Hz), xuất hiện nhiều nhất trong lúc ngủ. Não ở trạng thái không hoạt động và tâm trí quay hướng về bên trong. Nếu khi thức mà con người có quá nhiều hoạt động sóng chậm thì suy nghĩ của họ có phần mờ mịt, họ phán đoán kém và khó kiểm soát sự bốc đồng của mình. 80% trẻ em bị ADHD và nhiều người được chẩn đoán bị PTSD có sóng cực chậm thùy trán.

⚝ ✽ ⚝

PIC

⚝ ✽ ⚝

Ý NGHĨA CÁC LOẠI SÓNG NÃO VỚI TRẠNG THÁI TỈNH THỨC CỦA CHÚNG TA

⚝ ✽ ⚝

PIC

Ngủ mơ làm tăng tốc độ sóng não. Tần số theta (4-8 Hz) chiếm ưu thế khi con người ở ngay rìa giấc ngủ (sắp sửa chìm vào giấc ngủ hoặc sắp thức giấc), như trong trạng thái bồng bềnh “nửa tỉnh nửa mê” được mô tả trong chương 15 về EMDR; sóng theta cũng là đặc trưng của trạng thái bị thôi miên. Sóng theta tạo ra một khung tâm trí không bị ràng buộc bởi logic hoặc bởi những đòi hỏi bình thường của cuộc sống, từ đó mở ra khả năng để tạo những kết nối và liên tưởng mới mẻ. Điểm hứa hẹn nhất của việc sử dụng liệu pháp phản hồi thần kinh trong chữa trị cho bệnh nhân bị PTSD đó là luyện tập sóng não alpha/theta sẽ giúp người bệnh nới lỏng các liên tưởng bị đông cứng trong não của họ và tạo điều kiện cho việc học hỏi kiến thức mới. Về nhược điểm, sóng não theta cũng xuất hiện khi chúng ta “mất tập trung” hoặc chán nản.

Sóng alpha (8-12 Hz) đi kèm với cảm giác bình an và bình tĩnh', dạng sóng quen thuộc với những người học thiền chánh niệm. Tôi dùng cách luyện tập sóng não alpha để giúp những người quá trống rỗng hoặc quá kích động đạt được trạng thái thư giãn tập trung. Trung tâm Y tế Quân đội Quốc gia Walter Reed (Walter Reed National Military Medical Center) gần đây đã áp dụng luyện tập sóng não alpha để chữa trị cho những người lính mắc PTSD. Tuy nhiên, tại thời điểm tôi viết cuốn sách này thì kết quả vẫn chưa sẵn sàng cho công bố.

Sóng beta là tần số nhanh nhất (12-20 Hz). Khi sóng beta chiếm ưu thế, não được định hướng ra thế giới bên ngoài. Sóng beta cho phép chúng ta tập trung chú ý trong khi thực hiện một nhiệm vụ nào đó. Tuy nhiên, sóng beta cao (hơn 20 Hz) có liên quan đến sự kích động, lo âu và sự căng thẳng cơ thể, hậu quả là chúng ta luôn luôn cảnh giác, dò xét mối nguy hiểm trong môi trường xung quanh.

⚝ ✽ ⚝

GIÚP BỘ NÃO TẬP TRUNG

Rèn luyện phản hồi thần kinh có thể cải thiện khả năng sáng tạo, kiểm soát các biểu hiện thể chất và nhận thức nội tâm, ngay cả ở những người đã có thành tích cao. Khi bắt đầu nghiên cứu về phản hồi thần kinh, chúng tôi phát hiện ra rằng y học thể thao là bộ môn duy nhất tại Đại học Boston có hiểu biết về vấn đề này. Một trong những người thầy đầu tiên của tôi về sinh lý học não bộ là nhà tâm lý học thể thao Len Zaichkowsky, người đã sớm rời Đại học Boston để giảng dạy, nâng cao thành tích cho đội khúc côn cầu trên băng Vancouver Canucks bằng phản hồi thần kinh 15.

Phản hồi thần kinh có lẽ đã được nghiên cứu kỹ lưỡng nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động hơn là để xử lý các vấn đề tâm thần. Tại Ý, câu lạc bộ bóng đá AC Milan đã sử dụng phản hồi thần kinh để giúp các cầu thủ duy trì trạng thái thư giãn và tập trung khi họ xem các đoạn phim quay lại những sai sót của họ trong trận đấu.

Sự gia tăng trong khả năng kiểm soát tinh thần và thể chất của các cầu thủ đã được đền đáp khi một số cầu thủ của đội trở thành tuyển thủ của đội Ý và giành chức vô địch World Cup 2006 còn AC Milan đoạt chức vô địch châu Âu vào năm 200716. Phản hồi thần kinh cũng là một phần thuộc nhóm khoa học và công nghệ của Own the Podium, kế hoạch 5 năm trị giá 117 triệu đô-la, được thiết kế để giúp Canada thống trị Thế vận hội mùa đông 2010 ở Vancouver. Canada giành được nhiều huy chương vàng nhất và đứng thứ ba trên bảng tổng xếp hạng.

Phản hồi thần kinh cũng giúp ích cho ngành biểu diễn âm nhạc. Một ban giám khảo của Đại học Âm nhạc Hoàng gia Anh phát hiện ra rằng những sinh viên được John Gruzelier, thuộc trường Đại học London, đào tạo mười buổi phản hồi thần kinh đều có sự cải thiện 10% khi thể hiện một tác phẩm âm nhạc so với những sinh viên chưa được học phản hồi thần kinh. Đây là một khác biệt rất lớn đối với một lĩnh vực đầy tính cạnh tranh như thế.7.

Nhờ vào hiệu quả giúp tăng cường sự tập trung và chú ý, nên không có gì lạ khi phản hồi thần kinh đã thu hút sự chú ý của các chuyên gia về chứng rối loạn tăng động giảm chú ý -ADHD. Ít nhất có 36 nghiên cứu đã cho thấy phản hồi thần kinh có thể là phương pháp điều trị ADHD hiệu quả và có thời gian chữa trị ngắn – hiệu quả chữa trị cũng tốt như các loại thuốc thông thường. Một khi não đã được luyện tập để tạo ra các mô hình giao tiếp điện não khác nhau thì không cần tiếp tục luyện tập nữa, trái lại, thuốc không làm thay đổi hoạt động của bộ não và chỉ có hiệu quả nếu bệnh nhân tiếp tục uống thuốc.

VẤN ĐỀ NẰM Ở ĐÂU TRONG NÃO CỦA TÔI?

Phân tích EEG tinh vi, được biết đến với tên là EEG định lượng (quantitative EEG - TEEG), có thể theo dõi hoạt động của sóng não tới từng mili giây và phần mềm của nó có thể chuyển hoạt động của sóng não thành một bản đồ màu cho thấy tần số cao nhất hoặc thấp nhất trong các vùng trọng yếu của nãoº. qEEG cũng có thể cho biết các vùng não đang trao đổi thông tin hoặc làm việc cùng nhau như thế nào. Một số cơ sở dữ liệu qEEG lớn có sẵn mô hình bình thường và bất thường, cho phép chúng ta so sánh qEEG của một bệnh nhân với hàng ngàn người khác có vấn đề tương tự. Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, trái ngược với phương pháp MRI (chụp MRI chức năng) và phương pháp chụp - quét khác, qEEG tương đối rẻ và có thể cầm tay. qEEG cung cấp bằng chứng thuyết phục cho ranh giới giữa các phân loại chẩn đoán theo DSM hiện tại. Phân loại DSM cho bệnh lý tâm thần không tương thích với các mô hình kích hoạt não cụ thể. Nhiều chẩn đoán có chung các trạng thái tâm thần phổ biến như nhầm lẫn, kích động hoặc cảm giác phân ly với cơ thể đều liên quan đến các mô hình cụ thể trên qEEG. Nói chung, bệnh nhân càng có nhiều vấn đề, qEEG của họ càng xuất hiện nhiều bất thường.

Bệnh nhân của chúng tôi cũng cảm thấy hữu ích khi được xem các mô hình của hoạt động điện não của họ. Chúng tôi có thể chỉ cho họ thấy những mô hình có vẻ như chịu trách nhiệm cho sự khó khăn của họ khi tập trung hoặc khi họ thiếu kiểm soát cảm xúc. Họ có thể thấy tại sao các vùng não khác nhau cần được rèn luyện để tạo ra các tần số và mô hình truyền thông tin khác nhau. Những lời giải thích này giúp họ chuyển từ việc tự trách bản thân trong việc kiểm soát hành vi sang học cách xử lý thông tin theo một cách khác.

SANG CHẤN THAY ĐỔI SÓNG NÃO NHƯ THẾ NÀO?

Trong phòng thí nghiệm phản hồi thần kinh của chúng tôi, chúng tôi thấy những người có lịch sử lâu dài bị stress do sang chấn chỉ đáp ứng được một phần nào các phương pháp điều trị hiện tại. qEEG của họ cho thấy một loạt các mô hình khác nhau. Thường là có hoạt động quá mức ở thùy thái dương phải, trung tâm sợ hãi của não, kết hợp với quá nhiều hoạt động sóng chậm ở vùng phía trước của não. Điều này có nghĩa là bộ não cảm xúc bị kích thích quá mức của họ đang chi phối đời sống tinh thần của họ. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy xoa dịu trung tâm sợ hãi sẽ làm giảm các vấn đề do sang chấn gây ra và cải thiện chức năng hoạt động. Điều này được phản ánh không chỉ ở điểm số PTSD của bệnh nhân giảm đáng kể mà còn trong sự cải thiện rõ rệt về tinh thần và tăng khả năng điều hòa nỗi buồn của họ khi phản ứng lại những khiêu khích tương đối nhỏ 21.

Các bệnh nhân bị sang chấn khác cho thấy những mô hình kích hoạt thái quá khi họ nhắm mắt: Không nhìn thấy những gì đang xảy ra xung quanh khiến họ hoảng sợ và sóng não của họ trở nên rối rắm. Chúng tôi luyện tập cho họ tạo ra nhiều mô hình não thư giãn hơn. Tuy nhiên, một nhóm khác phản ứng quá mức với âm thanh và ánh sáng, một dấu hiệu cho thấy vùng đồi thị gặp khó khăn trong việc lọc ra các thông tin không liên quan. Ở những bệnh nhân này, chúng tôi tập trung vào việc thay đổi mô hình truyền thông tin ở vùng phía sau của não.

Trong khi trung tâm của chúng tôi tập trung tìm cách điều trị tối ưu cho stress do sang chấn kéo dài thì Alexander McFarlane đang nghiên cứu cách thức não bộ đã thay đổi khi tiếp xúc với việc chiến đấu. Bộ Quốc phòng Úc yêu cầu nhóm nghiên cứu của ông đo lường tác động của việc điều quân làm nhiệm vụ chiến đấu ở Iraq và Afghanistan lên hoạt động tinh thần và sinh học, bao gồm cả các mô hình sóng não. Trong giai đoạn đầu, McFarlane và các cộng sự đã đo qEEG của 179 binh sỹ bốn tháng trước mỗi đợt triển khai làm nhiệm vụ ở Trung Đông và bốn tháng sau khi các binh lính xong nhiệm vụ trở về.

Họ nhận thấy rằng tổng số tháng chiến đấu trong khoảng thời gian ba năm có liên quan đến sự suy giảm dần của sóng alpha ở vùng phía sau của não. Khu vực này, theo dõi trạng thái của cơ thể và điều chỉnh các quy trình cơ bản như ngủ và đói, thường có mức sóng alpha cao nhất của bất kỳ khu vực nào trong não, đặc biệt khi người ta nhắm mắt lại. Như chúng ta đã thấy, sóng alpha có liên quan đến sự thư giãn. Sự suy giảm sóng alpha ở những người lính này phản ánh tình trạng hỗn loạn dại dẳng. Đồng thời, ở vùng phía trước của não, nơi thường có mức sống beta cao (sóng nhanh), nay lại chậm đi, càng lúc càng chậm ứng với từng đợt ra quân. Những người lính dần dần phát triển hoạt động thùy trán giống với những trẻ em bị ADHD, gây trở ngại cho chức năng hoạt động và năng lực tập trung của họ.

Kết quả là, sự hưng phấn, vốn được xem là cung cấp năng lượng cần thiết để chúng ta tham gia vào các công việc hằng ngày, không còn giúp những người lính này tập trung vào các công việc bình thường. Nó chỉ đơn giản khiến họ bồn chồn và lo lắng. Ở giai đoạn nghiên cứu này của McFarlane vẫn còn quá sớm để biết liệu có ai trong số những người lính này sẽ phát triển PTSD hay không, và chỉ có thời gian mới cho chúng ta biết các bộ não này sẽ điều chỉnh để thích ứng với cuộc sống bình thường đến mức độ nào.

⚝ ✽ ⚝

PHẢN HỒI THẦN KINH VÀ KHUYẾT TẬT HỌC TẬP

Bị lạm dụng và bị bỏ mặc lâu ngày trong thời thơ ấu gây trở ngại cho việc kết nối giữa các hệ thống tích hợp cảm giác. Trong một số trường hợp, điều này dẫn đến khuyết tật học tập bao gồm các kết nối bị lỗi giữa hệ thống thính giác với xử lý từ ngữ, sự phối hợp tay-mắt kém. Rất khó nhận biết các rắc rối ở trẻ vị thành niên trong cách chúng xử lý thông tin hằng ngày. Nhưng một khi chúng ta điều trị thành công các vấn đề về hành vi cho trẻ thì những khuyết tật học tập của chúng thường trở nên rõ ràng. Ngay cả khi những đứa trẻ bị sang chấn này có thể ngồi yên và chú ý thì nhiều trẻ vẫn bị xem là có khuyết tật về học tập bởi chúng có kỹ năng học tập kém 22.

Lisa mô tả sang chấn đã can thiệp như thế nào vào việc dẫn truyền thông tin của các chức năng xử lý cơ bản. Cô ấy nói cô “luôn bị lạc đường”. Lúc đi học, cô thường nghe rất chậm nên không thực hiện kịp thời và đúng hướng dẫn của giáo viên. Lisa kể: “Hãy hình dung cảnh tượng này, bạn ngồi trong lớp học, cô giáo vào lớp, nói rằng: Chào cả lớp, các em hãy mở sách Toán, trang 72, làm bài tập từ một đến năm. Nếu bạn chỉ cần lơ là một giây, bạn sẽ không biết phải làm gì, rồi bạn rối lên. Tóm lại là không thể nào tập trung được”.

Phản hồi thần kinh đã giúp cô khắc phục khuyết tật học tập này. Cô kể: “Tôi học cách theo dõi mọi thứ, ví dụ như đọc bản đồ. Ngay sau khi chúng tôi bắt đầu điều trị, tôi đã có một kỷ niệm đáng nhớ khi đi từ Amherst đến Northampton [chưa tới 16 km] để gặp Sebern. Tôi lỡ một vài chuyến xe buýt và cuối cùng tôi đã đi bộ vài dặm dọc theo đường cao tốc. Tôi rất bối rối, tôi không thể đọc lịch trình. Tôi không thể bắt kịp được thời gian. Tôi thường quá căng thẳng và hồi hộp, chính những điều này khiến tôi luôn mệt mỏi. Tôi không thể chú ý và sắp xếp mọi chuyện với nhau. Đơn giản là tôi không thể sắp xếp đầu óc mình xoay quanh một việc được”.

Tuyên bố đó đưa ra thách thức cho ngành khoa học não bộ và tâm trí: Làm thế nào chúng ta có thể giúp mọi người học cách tổ chức thời gian, không gian, khoảng cách và mối quan hệ – những năng lực vốn được đặt vào não trong những năm đầu tiên của cuộc đời – nếu sang chấn đã can thiệp vào sự phát triển của họ? Không có thuốc hay phương pháp điều trị thông thường nào được chứng minh là kích hoạt được tính khả biến thần kinh cần thiết để giúp những năng lực này hoạt động trở lại sau khi các giai đoạn quan trọng trong quá trình phát triển các năng lực ấy đã trôi qua. Bây giờ là lúc cần nghiên cứu xem liệu phản hồi thần kinh có thể thành công hay không, nếu các can thiệp khác đã thất bại.

⚝ ✽ ⚝

LUYỆN TẬP ALPHA-THETA

Luyện tập alpha-theta là một quy trình phản hồi thần kinh đặc biệt hấp dẫn bởi vì nó có thể gây ra các loại trạng thái mơ ngủ bản chất của sự thôi miên gây mê – mà chúng ta đã thảo luận trong chương 15 23.

Khi các sóng theta chiếm ưu thế trong não, tâm trí sẽ tập trung vào thế giới bên trong, một thế giới của hình ảnh trôi nổi tự do. Sóng não alpha có thể hoạt động như một cây cầu nối thế giới bên ngoài với bên trong và ngược lại. Trong luyện tập alpha-theta, các tần số này được khuyến khích luân phiên.

Bệnh nhân bị PTSD khó có thể mở rộng tâm trí trước những khả năng mới, do đó họ không thể diễn giải hiện tại như là một sự hồi tưởng liên tục của quá khứ. Các trạng thái mơ hồ, trong đó hoạt động của sóng theta chiếm ưu thế, có thể giúp nới lỏng mối liên hệ có điều kiện giữa kích thích đặc biệt và phản ứng với kích thích đó, chẳng hạn như một tiếng nổ lớn là dấu hiệu có bắn súng, báo hiệu cái chết. Một liên tưởng mới có thể được tạo ra, trong đó cùng tiếng nổ lớn có thể được gắn với pháo hoa chào mừng.

Trong những trạng thái nửa mê nửa tỉnh khi luyện tập alphatheta, người bệnh có thể trải nghiệm lại một cách an toàn các sự kiện gây sang chấn và hình thành nên các liên tưởng mới. Một số bệnh nhân cho biết họ có hình ảnh bất thường và/hoặc những hiểu biết sâu sắc về cuộc sống của họ, những người khác đơn giản là trở nên thoải mái hơn và bớt cứng nhắc. Bất kỳ trạng thái nào mà trong đó họ có thể thấy an toàn khi trải nghiệm lại những hình ảnh, cảm nhận và cảm xúc khiến họ liên tưởng đến nỗi sợ hãi và bất lực dường như đều tạo ra tiềm năng mới và viễn cảnh rộng hơn.

Luyện tập alpha-theta có thể đảo ngược các mô hình kích thích quá mức không? Những bằng chứng tích lũy được rất hứa hẹn. Eugene Peniston và Paul Kulkosky, các nhà nghiên cứu tại Trung tâm Y khoa thuộc Bộ Cựu chiến binh ở Fort Lyon, Colorado, đã sử dụng phản hồi thần kinh để điều trị cho 29 cựu chiến binh từng chiến đấu ở Việt Nam có lịch sử bị PTSD liên quan đến quãng thời gian chinh chiến từ mười hai đến mười lăm năm. Mười lăm người trong số họ được chọn ngẫu nhiên để thực hiện luyện tập EEG alpha-theta và mười bốn người thuộc nhóm đối chứng được hưởng mức chăm sóc y tế chuẩn, bao gồm thuốc hướng thần, trị liệu cá nhân và trị liệu nhóm. Trung bình, những người tham gia trong cả hai nhóm đã nhập viện hơn năm lần vì PTSD. Khi những người đàn ông nằm ngửa và nhắm mắt lại, họ được huấn luyện để cho phép những âm thanh phản hồi thần kinh hướng dẫn họ thư giãn sâu. Họ cũng được yêu cầu sử dụng hình ảnh tinh thần tích cực (ví dụ như tỉnh táo, sống tự tin và hạnh phúc) khi họ tiến đến trạng thái alphatheta nửa tỉnh nửa mê.

Nghiên cứu này, được công bố năm 1991, là một trong những kết quả tốt nhất từng được ghi nhận cho PTSD. Nhóm phản hổ thần kinh đã giảm đáng kể các triệu chứng PTSD cũng như các triệu chứng thể chất, trầm cảm, lo âu và hoang tưởng. Sau giai đoạn điều trị, các cựu chiến binh và người thân của họ được liên lạc định kỳ hằng tháng trong thời gian 30 tháng. Chỉ có 3 trong số 15 người được điều trị phản hồi thần kinh báo cáo là họ có những hồi tưởng phiền muộn và những cơn ác mộng. Cả ba đều chọn thực hiện thêm mười buổi luyện tập sóng não; chỉ còn một người cần trở lại bệnh viện để điều trị thêm. 14 trong số 15 người giảm đáng kể lượng thuốc sử dụng thuốc.

Ngược lại, mọi cựu chiến binh trong nhóm đối chứng đều gia tăng triệu chứng PTSD trong thời gian theo dõi và tất cả đều phải nhập viện ít nhất hai lần nữa. Mười người trong nhóm đối chứng cũng uống thuốc nhiều hơn?4. Nghiên cứu này đã được các nhà nghiên cứu khác lặp lại, nhưng cộng đồng bên ngoài ít chú ý đến nó đến mức đáng ngạc nhiên”.

PHẢN HỒI THẦN KINH, PTSD VÀ NGHIỆN

Khoảng 3 đến 5 số người bị sang chấn nghiêm trọng đã lạm dụng chất gây nghiện 26. Một nghiên cứu gần đây cho thấy một nửa số nạn nhân tai nạn xe cộ đã tìm đến ma túy hoặc rượu. Lạm dụng rượu làm cho người ta bất cẩn và do đó làm tăng khả năng bị sang chấn lần nữa.

Có một mối quan hệ vòng tròn giữa PTSD và lạm dụng chất gây nghiện: Dù ma túy và rượu có thể giúp làm giảm tạm thời các triệu chứng sang chấn nhưng khi ngừng sử dụng ma túy và ngưng uống rượu thì họ lại bị kích thích quá mức, do đó họ càng gặp nhiều đơn ác mộng, càng thêm hồi tưởng và bị kích động. Chỉ có hai cách để kết thúc cái vòng luẩn quẩn này: giải quyết các triệu chứng PTSD bằng các phương pháp như EMDR hoặc điều trị cơn kích động quá mức, vốn là một phần của PTSD, và ngừng sử dụng ma túy hoặc rượu. Các loại thuốc như naltrexone đôi khi được sử dụng để làm giảm tình trạng kích động quá mức nhưng cách điều trị này chỉ hiệu quả trong một số trường hợp.

Một trong những phụ nữ đầu tiên được tôi luyện tập phản hồi thần kinh là người nghiện cocaine từ lâu, từng bị lạm dụng tình dục và bị bỏ rơi. Thật đáng ngạc nhiên, chỉ sau hai buổi luyện tập, cô đã ngừng dùng cocaine và cai suốt đến tận 5 năm tiếp theo. Tôi chưa bao giờ thấy trường hợp nào nào cai thuốc nhanh đến vậy, do đó, tôi đã tìm đọc các tài liệu khoa học hiện có để xem có hướng dẫn gì không?”. Hầu hết các nghiên cứu về chủ đề này đã được thực hiện cách đây hơn hai thập niên; trong những năm gần đây, có rất ít nghiên cứu về phản hồi thần kinh trong điều trị cai nghiện đã được công bố, ít nhất là ở Mỹ.

75%-80% bệnh nhân được điều trị cai nghiện ma túy và rượu đều tái nghiện. Một nghiên cứu khác của Peniston và Kulkosky đã tập trung nghiên cứu tác động của luyện tập phản hồi thần kinh các cựu chiến binh được chẩn đoán kép vừa nghiện rượu vừa bị PTSD28. 15 cựu chiến binh được luyện tập alpha-theta, trong khi nhóm đối chứng được điều trị theo tiêu chuẩn mà không có luyện tập phản hồi thần kinh. Các đối tượng được theo dõi liên tục trong ba năm, trong đó tám người của nhóm phản hồi thần kinh ngừng uống rượu hoàn toàn và có một người say rượu một lần nhưng sau đó anh ta bị bệnh và không uống nữa. Hầu hết trong số họ đều ít bị trầm cảm hơn.

Như Peniston đã nói, những thay đổi được báo cáo tương ứng với việc “biết thông cảm hơn, thông minh hơn, ổn định hơn về mặt tình cảm, thoải mái và hài lòng hơn”29. Ngược lại, tất cả những người được điều trị tiêu chuẩn đều quay trở lại bệnh viện trong vòng mười tám tháng. Kể từ đó, một số nghiên cứu về phản hồi thần kinh đối với nghiện ngập đã được công bố những ứng dụng quan trọng này cần nhiều nghiên cứu hơn nữa để xác định tiềm năng cũng như hạn chế của nó.

⚝ ✽ ⚝

TƯƠNG LAI CHO PHẢN HỒI THẦN KINH

Tôi sử dụng phản hồi thần kinh chủ yếu để xử lý các vấn đề như hưng phấn quá mức, nhầm lẫn và khó tập trung ở bệnh nhân bị ảnh hưởng bởi sang chấn tinh thần. Tuy nhiên, phương pháp này cũng cho kết quả tốt với nhiều vấn đề khác như giảm đau đầu do căng thẳng, cải thiện chức năng nhận thức cho não bị tổn thương sau sang chấn, giảm lo âu và hoảng loạn, điều trị chứng tự kỷ, cải thiện kiểm soát cơn động kinh, tự điều chỉnh khi bị rối loạn tâm trạng, và nhiều nữa.

Vào năm 2013, phản hồi thần kinh được sử dụng trong 17 cơ sở thuộc quân đội và Bộ Cựu chiến binh để điều trị PTSD 32, và tài liệu khoa học về hiệu quả gần đây của nó đối với cựu chiến binh mới bắt đầu được đánh giá. Frank Duffy, Trưởng khoa sinh lý thần kinh và phòng thí nghiệm sinh lý thần kinh phát triển của Bệnh viện Nhi Boston, nhận xét: “Các tài liệu, không có nghiên cứu nào là âm tính, cho thấy phản hồi thần kinh có vai trò lớn trong điều trị ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Theo tôi, nếu bất kỳ phương thuốc nào chứng minh nó có tính hiệu quả phổ quát rộng như vậy thì phương thuốc đó nên được chấp nhận và sử dụng rộng rãi”33.

Vẫn còn nhiều câu hỏi cần được trả lời về các phác đồ điều trị phản hồi thần kinh, và cần thực hiện một cuộc thăm dò sâu hơn về những câu hỏi này. Năm 2010, Thomas Insel, Giám đốc của Viện Sức khỏe Tâm thần Quốc gia (National Institute of Mental Health - NIMH), đã công bố một bài viết trên Scientific American (Khoa học Hoa Kỳ) mang tên “Faulty Circuits” (Mạch bị lỗi), trong đó ông đề nghị quay lại tìm hiểu tâm trí và não bộ trên phương diện nhịp điệu và mô hình truyền thông tin: “Các vùng não hoạt động cùng nhau để thực hiện các hoạt động tinh thần bình thường (và bất thường) có thể được xem tương tự các mạch điện – nghiên cứu mới nhất cho thấy sự hỏng hóc của toàn bộ các mạch có thể gây ra rối loạn tinh thần”34. B