Lời kết NHỮNG LỰA CHỌN CỦA CHÚNG TA
Xã hội đang ngày càng quan tâm đến vấn đề sang chấn. Nhiều nhà khoa học trên khắp thế giới đang miệt mài nghiên cứu những ảnh hưởng của sang chấn đến tâm trí, não bộ, cơ thể. Rất nhiều người đang không ngừng tìm kiếm các biện pháp can thiệp hiệu quả hơn dành cho bệnh nhân bị sang chấn. Nếu bạn đã đồng hành cùng tôi trong suốt cuốn sách này tức là bạn đã trở thành một phần của cộng đồng rất quan tâm đến sang chấn.
Những tiến bộ trong khoa học thần kinh đã giúp chúng ta hiểu rõ hơn cách sang chấn làm thay đổi não bộ, thay đổi sự tự điều chỉnh và khả năng tập trung, hòa hợp với những người khác. Các kỹ thuật hình ảnh tinh vi đã xác định được nguồn gốc của PTSD trong não, vì vậy giờ đây chúng ta đã hiểu tại sao những người bị sang chấn thường cô lập, tại sao âm thanh và ánh sáng lại làm phiền họ và tại sao họ có thể bùng nổ hoặc rút lui khi đáp lại sự khiêu khích dù chỉ nhẹ nhàng. Chúng ta đã biết các trải nghiệm làm thay đổi cấu trúc, chức năng của não và thậm chí ảnh hưởng đến các gene mà chúng ta truyền lại cho con mình. Việc hiểu được các quá trình cơ bản gây ra stress của cơ thể sẽ giúp mở ra cánh cửa để can thiệp vào khu vực não liên quan đến cơ chế tự điều chỉnh, tự nhận thức và chú ý. Chúng ta không chỉ biết làm thế nào để điều trị sang chấn mà ngày càng biết thêm nhiều cách thức mới để ngăn chặn sang chấn.
Các cuộc thảo luận về PTSD vẫn có xu hướng tập trung vào những quân nhân mới trở về từ chiến trường, nạn nhân của các vụ đánh bom khủng bố hoặc những người sống sót sau các tai nạn khủng khiếp. Tuy nhiên, sang chấn thực tế là một vấn đề sức khỏe cộng đồng rộng lớn hơn rất nhiều. Chúng ta không thể chữa lành những sang chấn khi bỏ qua nguồn gốc của nó.
Thu nhập của người dân, cơ cấu gia đình, nhà ở, việc làm và cơ hội giáo dục ảnh hưởng không chỉ đến nguy cơ bị stress sau sang chấn mà còn tác động đến việc tiếp cận những giải pháp hiệu quả để xử lý sang chấn đó. Nghèo đói, thất nghiệp, trường học chất lượng kém, sự cô lập xã hội, nhà ở dưới chuẩn... đều là những cơ sở gây ra sang chấn. Sang chấn sinh ra thêm nhiều sang chấn, những người bị tổn thương gây tổn thương cho người khác.
Về cơ bản, chúng ta là những sinh vật xã hội, bộ não của chúng ta thúc đẩy việc làm việc và chơi đùa cùng nhau. Sang chấn tàn phá hệ thống tương trợ xã hội và can thiệp vào sự hợp tác, nuôi dưỡng cũng như khả năng hoạt động của con người như một thành viên có ích cho xã hội. Trong cuốn sách này, chúng ta đã thấy có biết bao vấn đề về sức khỏe tâm thần, từ việc nghiện ma túy đến hành vi tự gây thương tích, tất cả đều bắt nguồn từ những nỗ lực để đối phó với những cảm xúc trở nên không thể chịu nổi do thiếu sự tiếp xúc và hỗ trợ về mặt con người. Vì vậy, để chữa trị cho những trẻ em và người lớn đã bị sang chấn, chúng ta nên tập trung vào việc ngăn chặn những cảm xúc khó chịu và những hành vi khiến họ gặp rắc rối thay vì tập trung vào việc chỉnh sửa những “suy nghĩ sai lầm”.
Mọi người có thể học cách kiểm soát và thay đổi hành vi của họ, nhưng chỉ khi họ cảm thấy đủ an toàn thì họ mới có thể thử các giải pháp. Những sang chấn được mã hóa thành những cơn đau của cơ thể, như đau ngực, quặn thắt ruột; vì thế, ưu tiên hàng đầu của chúng tôi là giúp mọi người thoát khỏi trạng thái phải chiến đấu hoặc bỏ chạy, giúp họ nhìn nhận lại cách họ nhận thức về nguy hiểm và quản lý các mối quan hệ. Nếu quan tâm đến tình trạng sang chấn trẻ em thì chúng ta nhất định không thể cắt bỏ khỏi thời khóa biểu học tập những hoạt động như: đồng ca, giáo dục thể chất, giờ ra chơi và bất cứ thứ gì liên quan đến vận động, vui chơi.
Việc dùng thuốc điều trị sang chấn ngày càng phổ biến nhưng không giải quyết được các vấn đề thực sự: Bệnh nhân đang phải đối phó với những điều gì? Nguồn lực bên trong và bên ngoài của họ là gì? Làm thế nào để họ bình tĩnh trở lại? Họ có mối quan hệ thân thương với cơ thể của họ hay không và họ làm gì để nuôi dưỡng cơ thể về mặt sức mạnh, sức sống và thư giãn? Họ có tích cực tương tác với người khác không? Ai thực sự hiểu họ, yêu thương họ, quan tâm đến họ? Khi họ sợ hãi, khi con họ ốm, họ có thể tin tưởng ai? Họ Có phải là thành viên của cộng đồng và họ có giữ vai trò quan trọng gì trong cuộc sống của những người xung quanh họ không? Họ có những kỹ năng cụ thể nào để tập trung, chú ý và lựa chọn? Họ có ý thức về mục đích hay không? Họ giỏi làm cái gì? Làm sao chúng ta có thể giúp họ cảm thấy tự chủ trong cuộc sống?
Tôi có một tấm hình chụp gia đình lúc tôi năm tuổi, đang ngồi giữa anh chị ruột của mình. Trong hình, tôi hãnh diện cầm một chiếc thuyền đồ chơi bằng gỗ, cười toe toét: “Xem nè, tôi quả thực là một đứa bé siêu phàm và tôi có một chiếc thuyền tuyệt cú mèo! Mọi người có muốn chơi với tôi không?”.
Tất cả chúng ta, đặc biệt là trẻ em, đều cần sự tự tin như vậy, nghĩa là tin rằng mọi người biết đến ta, thừa nhận ta, trân trọng ta. Thiếu điều đó, chúng ta sẽ không thể phát triển ý thức để khẳng định: “Đây là điều tôi tin tưởng, đây là những gì tôi bảo vệ; vì nó mà tôi sẽ cống hiến cả đời mình”. Miễn là chúng ta cảm thấy mình được an toàn trong trái tim và tâm trí của những người yêu thương ta, chúng ta sẽ dám leo lên những ngọn núi cao, sẽ dám vượt qua sa mạc và ở lại làm việc cả đêm để hoàn thành dự án. Trẻ em và người lớn sẽ làm bất cứ điều gì cho những người mà họ tin tưởng và trân trọng.
Nhưng nếu chúng ta cảm thấy bị bỏ rơi, cảm thấy mình chẳng có tí giá trị gì, hoặc cảm thấy mình vô hình, thì mọi sự với ta đều thành vô nghĩa. Nỗi sợ tiêu diệt tính tò mò và sự vui tươi. Để có một xã hội lành mạnh, chúng ta phải nuôi dạy những đứa trẻ có thể chơi và học một cách an toàn. Bạn không thể phát triển nếu không có trí tò mò. Bạn không thể hình thành khả năng thích ứng nếu bạn mất khả năng khám phá bạn là ai và điều gì là quan trọng đối với bạn.
Những người cảm thấy an toàn và có sự gắn kết ý nghĩa với người khác sẽ không có lý do để lãng phí cuộc đời mình vào việc dùng ma túy, ngồi bất động trước truyền hình, ăn uống vô độ hoặc tấn công người khác. Tuy nhiên, nếu những việc họ làm lại không thể khiến mọi thứ khác đi thì họ cảm thấy bị mắc kẹt và trở nên dễ bị cám dỗ với thuốc gây nghiện, các băng đảng, các tôn giáo cực đoan, các phong trào chính trị bạo lực hoặc bất cứ cái gì, bất cứ ai hứa hẹn mang lại sự cứu rỗi.
Hy vọng lớn nhất cho trẻ em bị tổn thương, bị lạm dụng và bị bỏ rơi là nhận được nền giáo dục tốt tại các trường học – nơi chúng được nhìn thấy và được biết đến, nơi chúng học cách tự điều chỉnh bản thân và nơi chúng có thể phát triển được sự tỉnh thức. Trong điều kiện tốt nhất, các trường học có thể trở thành những hòn đảo an toàn trong thế giới hỗn độn. Họ có thể dạy cho trẻ cách hoạt động của cơ thể và bộ não, cách chúng có thể hiểu và xử lý cảm xúc của mình. Các trường học có thể đóng vai trò quan trọng trong việc đối phó với những sang chấn trong khu dân cư hoặc gia đình. Nếu cha mẹ buộc phải làm hai công việc để kiếm sống, hoặc nếu họ quá khắt khe, quá tải, hoặc chán nản nên không hòa hợp được với nhu cầu của con cái thì khi đó, trường học phải là nơi mà trẻ em được dạy cách tự lãnh đạo và tự kiểm soát bản thân.
Khi nhóm chúng tôi đến các trường học, phản ứng đầu tiên của giáo viên thường là kiểu “Nếu muốn trở thành nhân viên xã hội thì tôi đã đi học ở trường đào tạo nhân viên xã hội rồi. Tôi ở đây là để làm giáo viên”. Nhiều giáo viên đã nhận ra họ không thể dạy học nếu học sinh của họ là những cái chuông báo động chực chờ réo lên ầm ĩ. Ngay cả những giáo viên và hệ thống trường học tận tâm nhất cũng thường cảm thấy nản lòng và không hoạt động hiệu quả vì học sinh đang bị sang chấn quá mức đến nỗi không thể học hành được. Tập trung vào việc cải thiện điểm số cũng không mang lại khác biệt gì nếu giáo viên không thể giúp học sinh giải quyết những vấn đề trong hành vi của chúng. Tin tốt là các nguyên tắc cơ bản của những biện pháp can thiệp sang chấn có thể chuyển thành các quy trình thực hành hằng ngày và chúng có thể làm biến đổi toàn bộ văn hóa của trường học.
Hầu hết các giáo viên chúng tôi từng làm việc chung đều rất ngạc nhiên khi nhận ra rằng đối với những học sinh bị lạm dụng và bị bỏ bể thì bất kỳ điều gì đi chệch khỏi thói quen thông thường đều được chúng diễn giải là nguy hiểm, và phản ứng cực đoan của chúng thường là biểu hiện của stress sau sang chấn. Rồi chính vì những phản ứng cực đoan ấy mà các học sinh này lại bị khiển trách hoặc thậm chí bị đình chỉ học tập, đây là vấn đề phổ biến đến mức thành bệnh dịch ở các trường học. Quan điểm của các giáo viên bắt đầu thay đổi khi họ biết những hành vi gây rối ấy của học sinh chỉ là cách chúng đang nỗ lực trong tuyệt vọng để xử lý nỗi căng thẳng và cố gắng để tồn tại.
Thách thức quan trọng trong bối cảnh trường học hiện nay là cần thúc đẩy tính tương giao: nghe và được lắng nghe, thấy và được nhìn thấy. Chúng tôi cố gắng hướng dẫn mọi người trong cộng đồng nhà trường, từ hiệu trưởng, giáo viên đến nhân viên văn phòng..., để họ có thể nhận ra và hiểu được những ảnh hưởng của sang chấn đối với trẻ em và tập trung vào tầm quan trọng của việc nâng cao tính an toàn, tính dự đoán, cũng như làm sao để học sinh cảm nhận chúng được người khác biết đến và nhìn thấy. Chúng tôi muốn chắc chắn rằng mỗi buổi sáng, các em được thầy cô gọi tên khi chào đón các em ở trường và thầy cô sẽ tương tác trực tiếp mặt đối mặt với từng em.
Chúng tôi từng làm việc với rất nhiều trẻ chưa bao giờ có thể giao tiếp thành công bằng ngôn ngữ bởi vì chúng thường quen với chuyện bị người lớn hét, ra lệnh, tức giận hoặc phớt lờ lời nói của chúng. Một trong những bước đầu tiên là chúng tôi giúp giáo viên có thêm những cách thức mới để họ có thể nói với học sinh về cảm xúc, nêu kỳ vọng và yêu cầu trợ giúp. Trước một đứa trẻ đang giận dữ hoặc ngồi thu lu trong góc thì thầy cô thay vì hét lên “Dừng lại!”, chúng tôi khuyến khích họ nên chú ý và nói lên đúng trải nghiệm hoặc cảm xúc của trẻ trong lúc đó, ví dụ: “Cô thấy em đang buồn”, và đưa ra các lựa chọn như: “Em có muốn đến một nơi an toàn không, hay là em ngồi vào lòng của cô vậy?”; rồi từ đó, thầy cô tiếp tục giúp các em tìm từ để mô tả cảm xúc và tìm lại được tiếng nói của chính mình như: “Em sẽ làm gì sau giờ học?”. Có thể mất nhiều tháng để đứa trẻ nhận diện được khi nào thì được nói thật (vì không phải lúc nào các em cũng được an toàn khi nói ra sự thật), nhưng với trẻ em cũng như người lớn thì xác định được sự thật của một trải nghiệm là điều cần thiết để thoát khỏi sang chấn.
Ở nhiều trường học, những học sinh nào có biểu hiện giận dỗi, thờ ơ hoặc bùng phát cơn giận – các triệu chứng của stress do sang chấn – thì các em sẽ bị trừng phạt vì đó là cách hành xử tiêu chuẩn ở nhà trường. Như vậy, nhà trường thay vì là một nơi ẩn náu an toàn lại trở thành một sang chấn đau đớn nữa. Trừng phạt có thể tạm thời ngăn chặn các hành vi không thể chấp nhận được, nhưng do hệ thống báo động và hormone của stress trong các em không được nghỉ ngơi nên chắc chắn sau này chúng sẽ tiếp tục bùng phát khi bị khiêu khích.
Trong tình huống như vậy, bước đầu tiên là chúng ta phải thừa nhận rằng đứa trẻ đang buồn bã, vì thế giáo viên nên bình tĩnh tìm hiểu nguyên nhân và thảo luận các giải pháp khả thi. Ví dụ, khi một học sinh lớp 1 nổi cơn giận dữ, đánh cô giáo và ném đồ vật xung quanh, chúng tôi khuyến khích giáo viên của bé đặt ra các giới hạn rõ ràng trong khi nhẹ nhàng nói chuyện với bé: “Em có muốn cố quấn em trong chiếc khăn này để em bình tĩnh lại không?” (Đứa bé hẳn sẽ hét lên “Không!”, nhưng sau đó lại cuộn tròn vào trong chắn và bình tĩnh lại). Tính dự đoán và sự rõ ràng trong kỳ vọng là rất quan trọng, tính nhất quán cũng là điều cần thiết. Những đứa trẻ có nền tảng hỗn loạn thường không biết được mọi người có thể hợp tác làm việc với nhau hiệu quả như thế nào, vì thế sự không nhất quán chỉ làm chúng thêm nhầm lẫn. Các giáo viên nhạy cảm với sang chấn sẽ sớm nhận ra việc than phiền với phụ huynh về đứa con cáu kỉnh của họ có thể dẫn tới việc đứa trẻ bị đánh đập và chúng càng bị sang chấn nhiều hơn nữa.
Nỗ lực của chúng tôi là nhằm đưa ngành khoa học về não bộ vào trong thực tiễn hằng ngày. Chẳng hạn, để đủ bình tĩnh tự kiểm soát bản thân đòi hỏi chúng ta phải kích hoạt các vùng não liên quan đến cảm giác bên trong chúng ta, “cái tháp canh” mà tôi đã thảo luận trong ở chương 4, vì vậy giáo viên có thể nói: “Chúng ta cùng hít thở sâu nhé, hay các em có cần dùng đến ngôi sao thở không?” (Đây là một dụng cụ trợ giúp việc hít thở làm từ những tấm bìa kẹp hồ sơ).
Một lựa chọn khác là đặt đứa trẻ ngồi vào một góc và quấn trẻ trong một chiếc chăn dày, cho trẻ nghe nhạc nhẹ nhàng bằng tai nghe. Các khu vực an toàn có thể giúp trẻ bình tĩnh trở lại bằng cách kích thích nhận thức cảm giác của trẻ: chất vải lụa hoặc vải nhung, hộp giày chứa những chiếc bàn chải mềm và đồ chơi mềm dễ uốn. Khi trẻ đã sẵn sàng để nói chuyện, chúng ta hãy khuyến khích bé nói với ai đó những gì đang xảy ra trước khi cho bé trở lại nhóm.
Trẻ ba tuổi có thể thổi bong bóng xà phòng và nhận ra khi chúng thở chậm, 6 nhịp/phút, và tập trung vào hơi thở khi luồng khí đi qua môi trên thì chúng sẽ thấy bình tĩnh cũng như tập trung hơn.
Đội ngũ giáo viên yoga của chúng tôi làm việc với trẻ em thuộc lứa tuổi gần độ tuổi thiếu niên để giúp chúng “kết bạn” với cơ thể của chính mình và xử lý những cảm giác thể chất khó chịu. Chúng ta biết rằng một trong những lý do chính khiến trẻ ở độ tuổi thiếu niên dùng ma túy thường xuyên là vì chúng không thể chịu đựng được những cảm giác cơ thể báo hiệu sự sợ hãi, giận dữ và bất lực.
Ngoài việc học đọc, học viết và học làm toán, tất cả trẻ em cần học cách tự nhận thức, tự điều chỉnh và học giao tiếp như là một phần trong chương trình học chính. Giống như chúng ta dạy lịch sử và địa lý, chúng ta cũng cần dạy cho trẻ về cách não bộ và cơ thể hoạt động.
Trí thông minh cảm xúc bắt đầu với việc chúng ta gọi tên những cảm xúc của mình và thích ứng với cảm xúc của những người xung quanh. Chúng ta có thể làm điều này bằng cách rất đơn giản: nhìn vào gương. Nhìn vào gương sẽ giúp trẻ nhận thức được mình trông như thế nào khi buồn, tức giận, chán nản hoặc thất vọng, sau đó chúng ta hãy hỏi chúng: “Em cảm thấy thế nào khi nhìn một khuôn mặt như thế?”. Chúng tôi dạy bọn trẻ bộ não được hình thành như thế nào, cảm xúc là gì và cảm xúc được lưu giữ ở đâu trên cơ thể và làm thế nào có thể truyền đạt cảm xúc của mình cho những người xung quanh. Bọn trẻ sẽ hiểu rằng các cơ mặt của chúng sẽ cho người khác những gợi ý về cảm xúc của chúng và sau đó chúng có thể thử nghiệm những biểu hiện trên khuôn mặt của mình sẽ ảnh hưởng đến người khác ra sao.
Chúng tôi cũng dạy trẻ nhận ra và đặt tên cho cảm giác thể chất, ví dụ khi ngực của chúng thắt lại thì có lẽ chúng đang lo lắng, khi chúng thở nông nghĩa là chúng thấy sợ hãi. Cảm giác giận dữ là như thế nào và trẻ có thể làm gì để thay đổi cảm giác đó trong cơ thể: Điều gì sẽ xảy ra nếu chúng hít một hơi thật sâu hoặc dành thời gian để nhảy dây, đấm bao cát? Bấm huyệt có giúp ích gì không? Chúng tôi cố gắng cung cấp cho trẻ em, giáo viên và những người làm công việc chăm sóc người khác một bộ công cụ để mọi người có thể kiểm soát được phản ứng cảm xúc của mình.
Để thúc đẩy sự tương hỗ, chúng tôi sử dụng các bài tập soi gương khác, là nền tảng của giao tiếp an toàn giữa các cá nhân. Trẻ em tập luyện bằng cách bắt chước biểu hiện trên khuôn mặt của một người khác, các cử chỉ và âm thanh, sau đó đứng dậy và di chuyển đồng bộ. Để chơi tốt, trẻ phải thực sự chú ý quan sát và lắng nghe nhau. Khi trẻ ở tuổi thiếu niên trề môi trước những “trò chơi ngu ngốc” thế này, chúng tôi gật đầu vẻ tán thành và tranh thủ sự hợp tác bằng cách nhờ chúng làm mẫu các trò chơi này cho những đứa trẻ nhỏ tuổi hơn, những người “cần sự giúp đỡ của chúng”.
Trẻ em và người lớn đều cần được trải nghiệm cảm giác bản thân có ích khi làm những việc trong khả năng của mình. Nhiều người trong chúng ta vẫn nhớ việc chơi thể thao đồng đội, hát trong dàn hợp xướng có ý nghĩa với chúng ta như thế nào, đặc biệt là khi chúng ta được huấn luyện viên hoặc người chỉ huy tin tưởng, thúc đẩy chúng ta phát triển vượt trội, và dạy chúng ta rằng chúng ta có thể giỏi hơn là mình nghĩ. Những đứa trẻ cần có những trải nghiệm như vậy.
Điền kinh, chơi nhạc, khiêu vũ và biểu diễn sân khấu đều giúp kích thích sự ý thức và tính cộng đồng. Các hoạt động này cũng thu hút trẻ em, buộc trẻ em hợp tác, thỏa hiệp, và tập trung vào công việc đang diễn ra. Căng thẳng sẽ tăng lên nhưng trẻ vẫn bám lấy cảm xúc đó vì chúng muốn có được sự tôn trọng từ các huấn luyện viên hoặc người chỉ huy đội nhóm và chúng không muốn làm cả đội thất vọng - tất cả những những cảm xúc này hoàn toàn trái ngược với tính dễ bị tổn thương do bị lạm dụng, trở thành vô hình do bị bỏ bê và sự cô lập đáng sợ do bị sang chấn.
Các chương trình thuộc Mạng lưới Quốc gia về Stress do Sang chấn ở Trẻ em (National Child Traumatic Stress Network - NCTSN) của chúng tôi đang cho thấy hiệu quả: trẻ em trở nên ít lo lắng và phản ứng ít mạnh mẽ hơn; ít hung hăng hoặc rút lui; học tập tốt hơn, chú ý hơn; bớt chống đối và ngủ ngon hơn. Những điều khủng khiếp vẫn xảy ra với trẻ và xung quanh trẻ, nhưng bây giờ trẻ có thể nói về những sự kiện này; trẻ đã xây dựng được lòng tin và có nguồn lực để tìm sự giúp đỡ khi cần. Các can thiệp sẽ thành công nếu dựa trên sự hợp tác tự nhiên của chúng ta và những phản ứng bẩm sinh của chúng ta đối với an toàn, sự tương hỗ và trí tưởng tượng.
Tôi đã làm công việc trị liệu sang chấn trong một thời gian dài vì nó giúp tôi khám phá những cội nguồn của niềm vui, sự sáng tạo, những điều có ý nghĩa và sự kết nối, đây chính là tất cả những thứ khiến ta thấy cuộc sống của mình đáng sống.
Tôi không dám tưởng tượng mình làm sao có thể đối phó với những gì mà các bệnh nhân của tôi đã phải chịu đựng, và tôi thấy các triệu chứng của họ như một phần sức mạnh của họ - những cách mà họ học được để tồn tại. Dù họ phải trải qua những đau khổ, họ vẫn trở thành những người tình ấm áp, những bậc cha mẹ giàu tình thương, những thầy giáo gương mẫu, những y tá, nhà khoa học và nghệ sĩ tận tụy.
Hầu hết những người khởi xướng nên những thay đổi trong xã hội đều có kinh nghiệm cá nhân liên quan chặt chẽ tới sang chấn, ví dụ như Oprah Winfrey, Maya Angelou, Nelson Mandela, Elie Wiesel. Khi nhìn vào quá khứ của họ, bạn sẽ nhận thấy những hiểu biết sâu sắc và niềm đam mê của họ đều nảy sinh từ việc họ phải đối mặt với việc cuộc sống của mình có thể bị hủy hoại như thế nào. Và điều này cũng đúng với xã hội. Rất nhiều tiến bộ xã hội vượt bậc mà chúng ta đạt được điều chính nhờ những trải nghiệm sang chấn mà loài người phải trải qua như các cuộc Thế chiến, Thời kỳ Đại suy thoái.
Sang chấn hiện là vấn đề sức khỏe cộng đồng cấp bách nhất của chúng ta, và chúng ta đã có kiến thức cần thiết để có thể xử lý hiệu quả các sang chấn. Lựa chọn của chúng ta là hành động dựa trên những gì chúng ta biết.
⚝ ✽ ⚝
LỜI CẢM ƠNCuốn sách này đúc kết hành trình 30 năm tôi điều trị cho những người bị sang chấn ở nhiều độ tuổi, giới tính, là kết quả của vô số cuộc thảo luận với các đồng nghiệp và sinh viên, là thành tựu của những nghiên cứu khoa học về cách thức mà tâm trí, não bộ và cơ thể của chúng ta đương đầu với sang chấn.
Đầu tiên, tôi xin chân thành cảm ơn những người đã giúp tôi tổ chức bản thảo và xuất bản cuốn sách này. Tôi gởi lời cám ơn chân thành đến Toni Burbank, Biên tập viên của tôi, người đã miệt mài làm việc với tôi trong suốt hai năm tôi viết cuốn sách này. Toni đã giúp tôi định hình, tổ chức nội dung và sắp xếp từng chương trong sách. Tôi cũng cám ơn Brettne Bloom, Người đại diện của tôi vì đã hiểu tầm quan trọng của cuốn sách này và giới thiệu nó đến Nhà xuất bản Viking và luôn hỗ trợ tôi những lúc cần kíp. Tôi chân thành cám ơn Rick Kot, Biên tập viên của Nhà xuất bản Viking vì đã cho tôi những phản hồi quý giá và hướng dẫn tận tình việc biên tập.
Xin cảm ơn các đồng nghiệp và sinh viên của tôi tại Trauma Center vì đã nhiệt tình hỗ trợ dự án sách này: Joseph Spinazzola, Margaret Blaustein, Roslin Moore, Richard Jacobs, Liz Warner, Wendy D'Andrea, Jim Hopper, Fran Grossman, Alex Cook, Marla Zucker, Kevin Becker, David Emerson, Steve Gross, Dana Moore, Robert Macy, Liz Rice-Smith, Patty Levin, Nina Murray, Mark Gapen, Carrie Pekor, Debbie Korn và Betta de Boer van der Kolk và nhiều người khác nữa. Tôi cũng muốn cảm ơn Andy Pond và Susan Wayne của tổ chức Justice Resource Institute.
Xin cảm ơn những bạn đồng hành quan trọng nhất của tôi và những người hướng dẫn tôi trong việc tìm hiểu và nghiên cứu về những rối loạn stress sau sang chấn: Alexander McFarlane, Onno van der Hart, Ruth Lanius và Paul Frewen, Rachel Yehuda, Stephen Porges, Glenn Saxe, Jaak Panksepp, Janet Osterman, Julian Ford, Brad Stolback, Frank Put-nam, Bruce Perry, Judith Herman, Robert Pynoos, Berthold Gersons, Ellert Nijenhuis, Annette Streeck-Fisher, Marylene Cloitre, Dan Siegel, Eli New Berger, Vincent Felitti, Robert Anda, và Martin Teicher; cũng như những người bạn của tôi, những người đã dạy tôi về sự gắn bó: Edward Tronick, Karlen Lyons-Ruth và Beatrice Beebe.
Xin cảm ơn Peter Levine, Pat Ogden, Al Pesso, Stephen Cope Jon Kabat-Zinn, Jack Kornfield, Sebern Fisher, Ed Hamlin, Larry Hirshberg, Richard Schwartz, Kippy Dewey, Cissa Campion, Tina Packer, Andrew Borthwick-Leslie, Adam Cummings, Amy Sullivan, Susan Miller, Licia Sky, Angela Lin, Ed và Edith Schonberg, Barry và Lorrie Goldensohn, Hana và Nicholas – vì đã nhiệt tình hỗ trợ tối theo cách này hay cách khác.
Cuối cùng, xin cảm ơn các bệnh nhân của tôi vì đã giúp tôi học hỏi được biết bao điều. Các bạn chính là cuốn sách giáo khoa thực sự của tôi, và là sự khẳng định về sức sống kỳ diệu, điều vẫn luôn thôi thúc chúng ta không ngừng kiến tạo một cuộc sống có ý nghĩa cho dù gặp phải bất cứ khó khăn gì.