← Quay lại trang sách

Chương 5

Từ mấy thế hệ trước, Maria Arena đã quyết định rằng sao chép vô tính sẽ ban cho cô cơ hội hoàn hảo để nghiên cứu mọi thứ mình quan tâm. Cái cớ “không đủ thời gian” là vô nghĩa đối với một bản sao. Cô chẳng có gì ngoài thời gian, và cô tận dụng triệt để nó để theo học mọi ngành bí truyền mình thích.

Hồi nghiên cứu tác động văn hóa của đồ ăn, cố lấy đề tài luận án thạc sĩ là trà. Trà đã thay đổi thế giới, và nếu các vật thể vô tri bỗng sở hữu ý thức, Maria tin rằng các ấm trà đặt trong văn phòng của hầu hết các nguyên thủ quốc gia sẽ giúp tuồn thông tin và gây ra những cuộc đảo chính thành công nhất trần đời.

Trừ khi mấy ấm trà là các tổng tư lệnh gián điệp. Trong trường hợp đó, chúng sẽ phá hủy thế giới từ bên trong.

Cô cảm thấy như bị phản bội khi vị giáo sư cố vấn khá thoáng tính của cô bắt cô sửa lại bài luận, bỏ phần phỏng đoán rằng các ấm trà mang nhân tính rồi sẽ có ngày lật đổ thế giới. Ông đã điềm đạm đưa cho cô địa chỉ một giáo sư cố vấn trong khoa viết văn sáng tạo, và sau một hồi đắn đo thì cô đành đồng ý sửa. Cô thất vọng ê chề, nhưng vẫn sao lưu phần bị xóa trong tệp tin cá nhân theo thói quen.

Niềm đam mê với thức ăn của Maria, cả về lịch sử lẫn việc tiêu thụ chúng, đã giúp cô trở nên rất phù hợp với vị trí kỹ sư bậc trung quèn, tức “Tạp Vụ” bao gồm lo liệu cả việc nấu nướng trên tàu. Đó là nếu có thể coi dùng máy in thực phẩm là “nấu nướng.” Mặc dù cô đang cực kỳ căng thẳng vì vừa mới thức tỉnh xong lại còn bị xác chết vây kín, lời thuyền trưởng nói vẫn đúng. Toàn đội sẽ cần đồ ăn, và cô cần cho chạy máy in ngay khi có thể.

Tương tự khoang sao chép, nếu khoang bếp mà có tang chứng tội ác nào thì sự cố động cơ trọng lực cũng đã tiêu hủy hết rồi. Cốc với đĩa tứ tán mọi nơi. Có vẻ hầu hết đĩa bẩn đã được quăng vào máy tái chế.

Lát nữa cô sẽ dọn dẹp sau. Đồ ăn là ưu tiên. Cô lại gần chiếc máy in. Cỗ máy khổng lồ này có khả năng tổng hợp ra mọi loại đồ ăn với cấu trúc phân tử từng được nó ghi nhận. Thế tức là cũng như chế độ lái tự động của Hiro, nó gần như tự chạy hoàn toàn. Ngoài ra, IAN có thể ra lệnh đè cho máy. Nếu nó tỉnh dậy.

Cô nhấn vào bảng điều khiển, và cỗ máy ro ro khởi động, đèn bên trong bật sáng và bảng nhập lệnh bừng lên. Cô thử truy cập tệp lược sử, nhưng chúng cũng biệt tăm biệt tích như những tệp kia. Kẻ phá hoại còn xóa cả tệp lược sử của máy in thực phẩm nữa. Thật nhẫn tâm.

Cô thử lập trình một chiếc bánh quy đơn giản, câu “xin chào thế giới*” đối với thực phẩm in. Cỗ máy vào guồng hoạt động và bắt đầu đan các sợi phân tử vào với nhau để tạo thành đồ ăn. Có điều thứ ra lò lại không phải bánh quy.

Món chiếc máy in đang tạo trông như một nhánh rau xanh mướt. Cô nhíu mày. Cô đợi nó in xong và lấy ra ngoài.

Cô không nhận ra nó. Đây chắc chắn không phải là húng quế hay kinh giới. Cô ngửi thử nhưng chẳng xác định nổi cái mùi.

Thử thêm cú nữa, lần này là một món đạm: thịt gà.

Chẳng bao lâu sau, chiếc máy trông rõ là đang tạo thêm một nhánh rau mới. Hay nói đúng hơn là cùng thứ rau ấy.

Maria nhấc nó lên quan sát. Lá trông nhỏ, gần giống dương xỉ. Cô mở miệng và giữ nó lên trước môi, định sẽ nhấm thử. Cô nhớ lại mớ dịch nôn trổi lềnh bềnh trong khoang sao chép và đổi ý. Cô ra chỗ nút liên lạc trên tường và gọi khoang y tế.

“Bác sĩ ơi?” cô hỏi. “Chị có đó không?”

“Nói đi, Maria,” Joanna đáp.

“Máy in thực phẩm gặp vấn đề rồi.”

“Tôi không rõ mình sẽ gì giúp được,” Joanna nói, giọng nghe chừng khó chịu.

“Có vẻ tôi đã bị đầu độc,” Maria nói. “Máy in chẳng tổng hợp được gì ngoài một loại rau. Mọi dữ liệu đồ ăn đều đã bị ghi đè, hệt như các tệp lược sử.”

Viên bác sĩ chửi thề. “Mang nó qua đây và tôi sẽ bỏ vào máy xét nghiệm độc tố. Mang cho tôi cả một mẫu nước nữa.”

“Đã rõ,” Maria nói.

Cô thu thập các mẫu nghiệm, bao gồm một phần chỗ thức ăn không bị bỏ vào máy tái chế, vừa làm vừa dọn bếp luôn. Bụng dạ cô làu bàu ca cẩm, và cô hau háu nhìn cỗ máy đặt trên mặt bàn bạc, được nối với các buồng chứa prôtêin Lyfe và nước. Cô biết họ có một chiếc máy in dự phòng, nhưng sẽ phải mất mấy tiếng mới lắp đặt xong nổi nó. Cô không chắc phi hành đoàn đủ kiên nhẫn để làm việc ấy.

Cô không chắc họ còn lựa chọn nào khác.

* * *

Paul đã qua phòng đặt máy chủ để tìm hiểu xem IAN bị làm sao. Anh chàng ấy gần như đã hết run, và mấy cơn nôn khan cũng đã ngừng. Anh ta cay cú nghĩ đến chuyện nếu trên Trái Đất, mình sẽ được đưa vào viện khi thấy trong người như thế, đâu phải lập tức bị bắt đi làm è cổ. Nhưng họ cần IAN, cả để lái tàu lần để có câu trả lời.

Trong phòng đặt máy chủ chính là một bộ máy tính được giữ ở nhiệt độ siêu lạnh. Các kỹ sư truy cập nó qua một giao diện hình chiếu ba chiều. Họ không có quyền trực tiếp tác động vào máy mà chỉ được truy cập bằng giao diện hình chiếu thôi; như thể IAN sẽ ngăn chặn được mọi âm mưu phá hoại.

Cho máy tính thực nằm đằng sau một bức tường kính, nhưng giao diện người dùng được hiển thị ở phòng ngoài, bao kín quanh chúng, tượng trưng cho chỗ máy tính bên trong. Những ai không phải dân kỹ thuật sẽ thấy rất rối, nhưng Paul lại thấy tự nhiên như ở nhà. Chỉ có điều nhiều máy đang nhấp nháy đỏ rực, báo hiệu cần kiểm tra ngay lập tức. Mái nhà này chẳng tốt lành gì hết.

Anh ta giật bắn mình khi máy liên lạc kích hoạt.

Tình hình sao rồi?” Wolfgang hỏi.

“Tôi bật được giao diện lên rồi, tức là ta sẽ không phải xộc hẳn vào phòng đặt máy chủ. Tin tuyệt vời đấy,” anh ta nói.

Wolfgang không đáp. Có thể gã không coi đó là tin tuyệt vời.

“Vì giờ đã truy cập được máy tính, tôi sẽ xem có sửa được IAN không.”

“Anh đã biết cụ thể nó bị làm sao chưa?” gã hỏi.

“Chưa, mới chỉ biết đến đoạn nó bị hỏng thôi.”

Wolfgang chửi thề ông ổng.

“Tôi đang gắng hết sức đây mà,” Paul nói, cố giữ cho giọng không run rẩy.

“Từ lúc thức tỉnh đến nay, anh cứ hành xử như thể mới hay tin người ta vừa khám phá ra công nghệ sao chép vô tính và anh không tài nào chấp nhận nổi điều đó. Chúng ta đang phải giải quyết một đống vấn đề nghiêm trọng, thế mà anh lại muốn được khen vì làm ăn bố láo. Chúng tôi thuê anh chỉ để làm đúng một việc thôi, Seurat, lo mà làm đi!”

Paul quay lại làm việc trên giao diện. Có mắng chửi anh ta thì cũng sẽ thế thôi. “Vụ này cần xử lý một cách tinh tế,” anh ta nói, mắt không nhìn máy liên lạc.

“Paul này, ngồi buồng giam ít lâu liệu có giúp anh thích ứng với tình hình không? Anh có cần thế không?” Wolfgang hỏi.

“Nếu anh giam tôi lại thì ai sẽ sửa IAN cho anh?” anh ta hỏi. Cuối cùng anh ta cũng cảm thấy nỗi sợ vốn luôn bám trong cốt tủy mình kể từ lúc thức tỉnh đến nay bị cơn giận thế chân. Anh ta nỗ lực gấp đôi, với tay về phía một mảng màu đỏ và xòe rộng bàn tay ra để phóng lớn nó lên, nhằm quan sát vấn đề cho kỹ hơn.

Do dự kiến phi hành đoàn sẽ không có quá hai trong số sáu người đồng thời gây rối, con tàu chỉ bao gồm hai buồng giam. Chúng y hệt nhau, được thiết kế khá giống một phòng giam trong tù, mỗi bên tường đều gắn kèm một máy tính cơ bản để đội ngũ chỉ huy truyền thông tin vào buồng, nhưng các tù nhân sẽ không dùng được chúng.

“Anh cần Maria giúp không?” Wolfgang hỏi, giọng giờ đã nghe thấu tình đạt lý hơn.

“Đây không phải là lĩnh vực chuyên môn của cô ta,” Paul nói. “Cô ta hợp làm bảo dưỡng và dọn dẹp hơn.”

Anh ta nhăn mũi và bồi thêm, “Và nhiệm vụ dọn sạch khoang sao chép của cô ta sẽ kinh tởm lắm đấy.”

* * *

Wolfgang giúp Joanna sắp đặt các thi thể trong khoang y tế. Gã dựng năm chiếc giường thô, sau đó khiêng từng cái xác vào, cẩn thận đặt chúng theo hàng cách xa phi hành viên vẫn còn sống.

Dù sinh ra trên Luna nhưng Wolfgang vẫn rất khỏe, và vì tầng tàu này có trọng lực yếu nên mọi thứ nhấc dề như bỡn, ngoại trừ những món cực nặng. Gã lôi chỗ xác vào và chị lấy mẫu máu cùng các chất dịch khác, cắt bỏ bộ đồ bay của chúng đi, bỏ mớ quần áo vào trong máy thiêu, thế rồi rửa sạch các cái xác trong bồn tắm của khoang y tế. Quy trình hoạt động của họ diễn ra rất trơn tru.

Tẩy rửa căn phòng này cũng sẽ rất khó. Kể từ lúc thức tỉnh trong buồng chứa đến nay họ chưa được chợp mắt tí nào, và Joanna lấy làm mừng là mình sẽ không bị kiệt sức gục ngã do đang ngồi xe lăn. Chị tự hỏi Wolfgang lấy năng lượng từ đâu ra. Chị lăn xe quanh mấy chiếc giường, vừa đi vừa lưu lại những ghi chú bằng lời trên máy ghi âm cầm tay.

“Maria Arena, sĩ quan bảo dưỡng, da rất tái, môi thâm. Xét nghiệm cho thấy mẫu dịch nôn trong khoang sao chép là của cô ấy. Cô ấy có một vết đâm lớn sau lưng, chém đứt tủy sống. Xét nghiệm độc tố cho thấy có dấu tích một enzym thực vật độc, chắc chắn chín mươi phần trăm là độc cần hay một biến thể cùng chủng. Đã được xác nhận với một mẫu vật lấy từ máy in thực phẩm, có vẻ đã bị phá hoại để chỉ in độc cần khi yêu cầu tạo các thứ đồ ăn khác. Xét nghiệm nước và Lyfe thô không cho thấy có chất độc.

Không loại trừ khả năng các phi hành viên khác cũng đã bị đầu độc, nhưng chết vì vũ lực trước khi chất độc phát tác. Xét nghiệm độc tố của họ đang chờ được thực hiện.

Trông thi thể cô ấy khoảng sáu mươi lăm tuổi.”

Joanna chuyển sang Hiro, cái xác nằm trên giường cạnh Maria. “Akihiro Sato, hoa tiêu kiêm lái tàu, nguyên nhân tử vong là treo cổ. Thi thể mất một chiếc giày. Trông bản sao khoảng hai mươi tuổi.”

Chị lật thi thể của mình lên. Chị nhìn ngắm nó với vẻ hứng thú, nhận thấy cơ bắp thân trên của mình chắc khỏe hơn những kiếp đời trước. “Thi thể của tôi, Joanna Glass, cũng có dấu hiệu lão hóa và bị chấn thương. Thi thể này cũng bị giết với một con dao làm bếp, mang một vết đâm trên cổ. Nó chết vì mất máu. Nó không có thương tích do tự vệ nào, chứng tỏ hoặc nó tin tưởng kẻ sát nhân, hoặc bị đánh úp.”

“Đã đâm cô thì tất nhiên là đánh úp rồi,” Wolfgang phản đối. Joanna biếu gã một ánh nhìn băng giá. “Tôi nói nghiêm túc đấy. Chúng ta không biết hung thủ là ai, thế mà cô vẫn nghĩ tốt cho họ!”

Thi thể Wolfgang tái nhợt hơn bình thường. “Trưởng Bộ phận An ninh Wolfgang, cũng đã già đi mấy thập kỷ, bị đâm nhiều nhất, với nhiều vết cứa tự vệ trên hai bàn tay và cánh tay. Anh ta chết vì mất máu trong khoang sao chép; thi thể gần như cạn sạch máu.” Đến đây, gã Wolfgang sống nhíu mày. Gã rời chỗ máy tính mình nãy giờ đứng bên để đợi kết quả xét nghiệm độc tố và lại gần cái xác nhằm quan sát mặt bản thân. Trong lúc săm soi cái thây, biểu cảm của gã cứ loạn hết lên: kinh tởm, sợ hãi và tò mò.

“Rõ ràng tôi không bị đánh úp,” gã nói. “Phi hành viên nào mà lại đủ khỏe để hạ tôi nhỉ?”

“Có nhiều khả năng lắm,” Joanna nói. “Biết đâu còn có một số khả năng ta chưa lường đến.”

“Bác sĩ à, chúng ta cần biết ai đủ sức gây ra chuyện này. Tôi biết cô giữ lý lịch mật của phi hành đoàn. Vì lý do an ninh, tôi cần đọc chúng.”

Joanna đông cứng người và tắt máy ghi âm đi. “Các tệp lược sử bị xóa rồi. Tôi không còn giữ thông tin ấy nữa.”

“Hẳn cô đã đọc chúng. Chắc cô phải nhớ gì chứ.” “Không. Chúng chỉ được phép mở ra trong trường hợp như thế này.”

Gã trừng mắt nhìn chị. “Cô chấp nhận lên một con tàu với mọi phi hành viên đều chắc chắn là tội phạm, nhưng lại chẳng buồn tìm hiểu lý lịch của họ trước khi cất cánh ư? Khó tin quá đấy.”

“Anh muốn nghĩ sao thì tùy,” chị nói. “Tôi chẳng biết gì hơn anh về phi hành đoàn hết. Ta bàn xong chưa? Tôi cần ghi âm tiếp.”

Thi thể cuối cùng là của Paul. Mặt vẫn sưng phồng, mắt lồi ra. Chị bật máy ghi âm lên và lờ đi mấy câu lắp bắp của Wolfgang cũng như lúc gã bỏ đi. “Kỹ sư Trưởng Paul Seurat: thi thể này cũng già hơn ta nhớ mấy thập kỷ, không có vết đâm nào, nhưng trên khuôn mặt sưng nặng có những vết bầm lớn. Da hơi thâm. Nguyên nhân tử vong ban đầu là ngạt thở, xét nghiệm độc tố đang chờ được thực hiện.”

Joanna đưa ngón tay vuốt mái tóc sẫm màu rối bù trên trán anh ta. “Seurat có một vết sẹo ở trên trán. Anh ta bị thương từ vài năm trước. Một cú va đập khá mạnh vào trán.”

Viên bác sĩ lật anh ta lại và thấy những vết tàn nhang cùng mớ nốt ruồi quen thuộc, thế rồi phát hiện ra một đốm đen ở phần đùi trên. Chị trầm ngâm miết đầu ngón tay lên trên đó.

Chị không ghi âm lại gì về cái đốm đó cả.

Kết quả quét toàn thân cho thấy não Seurat mang sẹo nghiêm trọng, chứng tỏ anh ta có thể đã bị tổn thương não bộ sau cú va đập kia.

Chị đọc nốt kết quả mấy bản quét và bắt tay vào viết báo cáo để gửi thuyền trưởng, gần như chẳng chừa lại chi tiết nào.

Cuối cùng chị bỏ con dao vào trong một chiếc tủ khóa kín. “Hung khí gây án là một con dao làm bếp, được phát hiện trong tình trạng đang trôi nổi giữa các thi thể trong khoang sao chép. Nhiều khả năng con dao thuộc về Maria Arena. Chúng ta không có trang thiết bị quét vân tay.”

* * *

Maria đợi Hiro đến giúp lắp máy in thực phẩm mới và quyết định đi pha trà trong lúc chờ.

Maria mò ra được một chiếc hộp đỏ cất sâu trong một ngăn tủ. Cô nhớ mình đã giấu nó vào đấy ngay từ hôm đầu tiên. Cô rất mừng khi thấy nó vẫn còn ở đó dù đã bao năm trôi qua. Cô rút chiếc hộp gỗ cao dài ra, thế rồi lấy thêm hai hộp nhỏ hơn cùng bộ. Có máy in thực phẩm rồi thì chẳng cần đến chỗ hộp này nữa, nhưng Maria muốn phòng xa.

Chiếc hộp đầu tiên chứa một ấm nước kiểu cổ. Nó không chút đẹp đẽ hay mang chất nghệ thuật, mà cũng chẳng làm bằng đồng hay sành sứ gì hết. Nó được làm bằng thép, với một cái quai nhựa sứt mẻ và từng thuộc về bà của cô. Dù vừa cũ vừa lỗi thời, thứ này vẫn đun sôi được nước, và đó mới là điều quan trọng. Cô đặt nó lên bộ truyền nhiệt của bàn bếp.

Chiếc hộp dẹt chứa hàng trăm gói trà năm mươi gam đã được bao gói chân không. Mớ trà sẽ rất cũ, nhưng chúng được bảo quản kín bưng, với cả đang bay giữa miền vũ trụ tăm tối thẳm sâu thì có phải uống trà ôi cũng sẽ chẳng ai kêu ca. Cô chọn loại trà xanh viên thật nồng, lấy đủ để pha một ấm lớn.

Lẽ đương nhiên, hộp thứ ba đựng mật ong. Món đó chẳng bao giờ ôi thiu. Nó hơi vón cục, nhưng không có gì đáng lo ngại hết.

Tranh thủ lúc nước được đun, Maria rang lá trà trong một chiếc chảo nông nhằm giúp hương vị trở nên nồng nàn hơn. Sau khi căn phòng đã sực nức một mùi hương ấm áp, hăng vị đất, cô bắc chỗ lá rang sơ ra và đi lấy chiếc ẩm trà mình hay dùng. Ngay cả khi để máy in đảm nhiệm việc pha chế, cô vẫn dùng chiếc ấm ấy. Khoa học đã nhiều phen xung khắc với phong tục tập quán, nhưng bất kể tách trà máy pha có hoàn hảo đến đâu, người ta vẫn mời trà bằng ấm truyền thống để tỏ lòng tôn kính. Chỉ có điều lần này, chiếc ấm trà sẽ được sử dụng theo cách đúng chuẩn.

Cô thích công việc chuẩn bị trà, và cô bằng mọi giá tránh nghĩ về tình cảnh của họ, tương lai của họ và cái chết không thể tránh khỏi của họ.

“Máy in thực phẩm sao rồi?” Katrina hỏi vọng vào từ khung cửa.

Maria hơi giật mình. Nãy giờ cô mải nghĩ quá. Katrina và Wolfgang đang đứng kia, trông cứ như đã sẵn sàng chém giết thêm lần nữa.

Trà thôi. Mời trà sẽ mang lại cảm giác dễ chịu và ấm cúng. “Máy in thực phẩm đã bị phá hoại, và Hiro sẽ giúp tôi lắp đặt máy mới. Trong khi chờ, tôi pha trà.”

Katrina ghi nhận tin tức về chiếc máy in với vẻ u ám. Cô ta ngồi vào một chiếc bàn, và Wolfgang ra ngồi cùng. “Trà nghe ổn đấy.”

Thời giờ lặng lẽ trôi qua trong lúc Maria bày biện cốc chén.

Katrina nhìn cái cốc trước mặt. Nó làm bằng nhựa đỏ. “Cô có thấy bực không? Bực vì để mất ngần đó thời gian ấy?”

Maria quay đi bởi ấm nước đã bắt đầu kêu. “Tôi nghĩ mình chưa có thời gian cân nhắc chuyện ấy,” cô vừa nói vừa rót đầy ấm trà. “Tôi thấy hoang mang, nhưng hiện đang quá đờ đẫn, chẳng cảm nhận được thêm điều gì nữa.” Cô đẩy ẩm trà đầy về phía họ. “Tận hưởng đi nhé.”

Họ cứ thế nhập trà cho đến khi Hiro xuất hiện, và Maria đứng dậy lấy cốc cho anh. Kỳ lạ thay, Katrina và Wolfgang cũng ngần ngừ đứng lên lúc anh bước vào.

“Chào Thuyền trưởng, Lái tàu Hiro sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ!” anh vừa nói vừa giơ tay chào.

Katrina bắn cho anh một ánh mắt lạnh lùng. “Anh Sato này? Một vừa hai phải thôi có được không?”

Hiro ngồi phịch xuống một chiếc ghế và tự rót trà. “Tôi muốn báo cáo là hệ thống điều hướng và động cơ trọng lực vẫn lành lặn. Tôi chưa tìm ra nguyên nhân tàu ta tắt ngóm cả, nhưng ít nhất món kia giờ đã chạy nuột. Ta sống rồi!”

“Đây không phải là lúc đùa cợt,” thuyền trưởng nói.

“Cho tôi mạn phép nhé, thưa Thuyền trưởng, nhưng nếu không đùa cợt thì tôi sẽ bị cơn hoảng loạn tột độ đang lẩn khuất đằng sau mọi lùm cây bụi cỏ trong tâm trí mình đánh quỵ. Nếu cô thích hoảng loạn hơn thì chỉ cần đi một câu là xong. Xin được nói luôn là nhiều khả năng phiên bản trước của tôi đã gục ngã trước cơn hoảng loạn tột độ ấy, và nhìn mà xem cậu chàng gặp số phận thế nào kìa.”

Thuyền trưởng đứng dậy. “Hiện anh cũng chẳng dễ ưa hơn mấy, nhưng thôi cứ thế cho đỡ.” Cô ta liếc nhìn Maria. “Lắp một cái máy hoạt động tử tế càng sớm càng tốt nhé. Hiro sẽ giúp cô. Cảm ơn cô đã mời trà.”

“Ê, sao tôi vừa lập công cứu mạng cả đoàn mà lại bị điều đi phụ bếp vậy?” Hiro hỏi cô trong lúc thuyền trưởng và Wolfgang rời khoang bếp.

“Vấn đề này cần đến một người hùng như anh,” Maria nói. “Nếu phải tự thân vận động trong này thì tôi đến bó tay mất.”

“Hai đồng chí kia dễ thương ghê cơ,” Hiro vừa nói vừa nhấc mớ tách bẩn của họ lên.

“Có lẽ tất cả chúng ta đều đang căng thẳng” Maria nhẹ nhàng nói. “Không phải ai cũng sẽ giở trò Thỏ Brer ra với anh đâu.”

Anh nhíu mày. “Giờ cô lại còn lôi động vật ra nữa.”

“Xin lỗi nhé. Nó là một kẻ bịp bợm trong truyện dân gian Mỹ. Hay dùng đòn tâm lý đảo ngược, chế nhạo và mấy trò tương tự để thoát khỏi thế bí. Dì tôi hồi trước hay kể cho tôi nghe những giai thoại về nó.”

“Tôi tưởng cô là dân Cuba mà?”

Maria cảm thấy ký ức mình như vừa nứt mất một mảng. Hiro nói đúng. Dì cô chỉ biết nói tiếng Anh lõm bõm, thế tại sao Maria lại tưởng dì kể cho phiên bản Maria nhỏ tuổi truyện dân gian Mỹ nhỉ?

“Chắc tôi biết từ đâu đó khác,” cô nói. “Sống lâu như chúng ta thì anh cũng biết ký ức sẽ thế nào mà.”

“Chuẩn rồi,” anh nói, mặt trông u ám hẳn. “Mà thôi, cảm ơn cô đã mời trà. Vào việc thôi nào.”