Chương 14
Một lúc sau, Maria đi tắm và tạm ngưng lau dọn các mối nguy sinh học để lập trình cho Cu Tị biết cách in lợn.
Sao chép vô tính đẻ ra vô số vấn đề cho rất nhiều tôn giáo trên thế giới, nhưng nó thậm chí còn chẳng bì nổi nếu đem so với cái khó đồ ăn tổng hợp đặt ra cho họ. Họ không hiểu phải nhìn nhận nó kiểu gì. Hầu hết các tôn giáo cải cách đã chấp nhận thịt từ các loài vốn là động vật “cấm.” nhưng nhiều tôn giáo truyền thống vẫn giữ nguyên tắc tránh ăn tôm cua, thịt lợn, hay thịt bò. Họ lập luận rằng khoa học không thể thắng được ý Chúa, hay thánh thần. Và ngoài ra, tại sao họ lại bất chợt phải ăn một thứ trước nay chưa từng động đến? Họ đã kiêng thịt lợn cả thiên niên kỷ mà vẫn sống tốt, thế nên chẳng có lý do gì để bây giờ bắt đầu ăn hết.
Nhưng chuyện đó không quan trọng, bởi có rất ít bản sao theo đạo. Lúc quan sát Con Tịnh đan các sợi prôtêin lại để tạo ra một con lợn ngay trước mắt mình, xâm chiếm lấy Maria là một nỗi kinh hoàng đầy thế tục.
Hiro bước vào bếp và đứng cạnh cô, ngắm nhìn kiệt tác nghệ thuật trình diễn hiện đại ấy qua khung kính.
“Nếu máy in thực phẩm bận rồi thì chúng ta ăn trưa bằng gì đây?” anh hỏi, cặp mắt tròn xoe dán chặt vào con thú đang lớn dần.
“Anh chỉ nghĩ được đến thế thôi à? Anh mới ăn mấy tiếng trước mà!” Maria nói.
“Chứ sao. Tôi vẫn đói.”
“Tôi chuẩn bị sẵn ít nguyên liệu làm bánh mì kẹp rồi đấy, thế nên hôm nay anh muốn ăn gì thì ăn, bao giờ ăn cũng được,” Maria nói, đồng thời đưa tay chỉ vào cái bàn có một ổ bánh mì, thịt và pho mát thuộc nhiều chủng loại, cùng mấy miếng rau tổng hợp. Máy in tạo prôtêin phần nào dễ hơn rau quả.
“Cô in một con lợn thật à? Tại sao thế?” anh hỏi.
“Bởi vì hướng dẫn bảo tôi có thể làm thế. Ít nhất theo lời LAN là vậy. Nó đã tử tế dịch giúp tôi.” Cô giơ máy tính bảng của mình lên. Trong đó cuối cùng cũng đã có hướng dẫn sử dụng máy in thực phẩm bằng tiếng Tây Ban Nha và tiếng Anh.
“Trông nó chạy ổn đấy chứ. Ờm, nếu thế kia được tính là ổn.” Anh nhăn mặt. Maria chẳng trách gì anh hết. Không phải mọi khía cạnh của quy trình in ấn đồ ăn đều thuận mắt, đặc biệt nếu chưa quan sát kỹ nó bao giờ.
“Tôi chẳng rõ nữa, nhưng nếu in không chuẩn thì sau vụ này, tôi sẽ có một cục nợ tổ bố cần quăng vào máy tái chế,” cô nói.
“Nhìn đan lòng lợn kiểu đó ghê quá,” vừa lẩm bẩm, anh vừa rút máy tính bảng của mình ra. “Phải xem hướng dẫn tiếng Nhật bảo sao về vụ chế lợn này mới được. Thế này là phi tự nhiên.”
“Ờ thì, cũng đúng, nó là đồ tổng hợp nhân tạo mà.” Maria chỉ ra.
Hiro cho hiển thị hướng dẫn và dừng lại đọc. Anh gí nó sát mặt, thì thầm đọc bản tiếng Nhật.
“Này, tôi mượn máy của cô được không?” anh hỏi. “Tôi muốn xem bản hướng dẫn tiếng Anh. Để so sánh bản dịch của IAN.”
Cô đưa nó cho anh, mắt vẫn dán vào Cu Tị. “Ừ. Tôi đọc bản Tây Ban Nha, nhưng cứ kéo xuống là anh sẽ có bản Anh.”
Anh kéo một lúc, sau đó so sánh hai cái máy tính. Mặt anh tái mét, và anh đưa trả máy của cô. “Ừ, bản của cô đúng rồi.”
Maria đón lấy nó, lòng cảm thấy bất an. Cô tóm tay Hiro. “Đợi đã, anh có sao không? Trông anh như biết mình sẽ là món tiếp theo vào lò ấy.”
Hiro càng thêm tái, nhưng anh lắp bắp chống chế. “Không… không, không phải đâu. Chỉ là đã mấy thập kỷ rồi tôi chưa thấy kiểu câu nó dùng thôi. Lạ lùng là công nghệ phát triển thì ngôn ngữ cũng tiến hóa theo, nhưng cẩm nang hướng dẫn thì vẫn khô không khóc như thuở nào. Nhỉ?”
Maria chẳng tin nửa lời. “Phải rồi, Hiro ạ. Anh thích nói thế thì tùy thôi.”
“Thật mà. Tôi không sao.” Anh lại liếc xuống chiếc máy tính bảng của mình. “Thực ra tôi nghĩ mình cần đi nghỉ. Bao giờ con lợn in xong thì ới tôi nhé.”
Cô nhìn anh bỏ đi, ruột gan bắt đầu quặn lên vì lo lắng. Chiếc máy tính bảng của cô đổ chuông và cô nghe máy. “Đây?”
“Maria, cô có đang một mình không?” Joanna hỏi.
“Không tính IAN thì ừ,” cô nói.
Joanna ngưng lại. “Tình hình dọn dẹp hôm nay thế nào?”
“Tôi còn chưa xong được một phần tư. Căn phòng bẩn tưởi như một cơn ác mộng. Tôi đang nghỉ tay để lập trình mấy món cho Cu Tị, sau đó sẽ quay lại làm.”
“Ra vậy. Mà làm việc trong môi trường ấy nguy hiểm lắm, cô rất dễ bị nhiễm trùng, thế nên nếu xảy ra chuyện gì, tôi muốn cô đi gặp tôi ngay lập tức, hiểu chứ?”
“Đã rõ, thưa Bác sĩ,” Maria nói.
* * *
Hiro nằm ngửa mặt trong bóng tối, tin chắc rằng mình bị hoang tưởng. Chỉ vậy thôi.
Anh không thể xác minh thứ mình đọc thấy. Không ai khác biết tiếng Nhật cả. Ngoại trừ IAN, nhưng Hiro không muốn cho nó xem bản hướng dẫn.
Như sét đánh ngang tai, anh chợt nhận ra một điều và ngồi bật dậy. IAN đã đọc rồi, nó đã dịch cho Maria. Nhưng nó không dịch phần Hiro nhìn thấy. Tình tiết đó càng khiến anh hoang tưởng tợn. Anh cần nói chuyện với viên bác sĩ.
“IAN, mày có trong này không?” anh hỏi.
“Có, nhưng tôi không nhìn rõ anh. Tôi có thể thấy dấu hiệu thân nhiệt của anh. Tại sao anh lại ở trong bóng tối thé, Hiro?”
“Tao chỉ đang suy nghĩ thôi. Cảm ơn mày đã dịch hướng dẫn cho Maria.”
“Đó cũng là một phần việc của tôi mà,” IAN nói.
“Tao để ý thấy mày không dịch hết,” anh bình thản nói. “Ví dụ như trong phần cách dùng ấy?”
“Khó có chuyện ấy lắm, tôi đã dịch tất cả những gì mình tìm được rồi mà,” IAN nói, giọng nghe chừng băn khoăn. Càng tự sửa chữa nó càng giống người hơn. Nó ngập ngừng. “Trong đó có chút mã rác. Tôi bỏ qua đoạn đấy.”
“Mày không thấy tên tao trong đó đâu nhỉ? Ghi hẳn ra ấy?”
“À, anh nhắc mới nhớ, tên anh được đặt cạnh đoạn mã rác. Hẳn tôi thấy tên anh và đoán đó là một thông điệp riêng.”
Hiro nhíu mày. “Hiện mày khôi phục được mấy phần trăm rồi?”
“Khoảng năm mươi bảy phần trăm.”
Anh lại nằm phịch xuống giường và đăm đăm nhìn vào trong bóng tối. “Thế thì có lẽ chúng ta nên bàn về chuyện này khi mày thấy khá hơn.”
“Vậy hay đấy. Tôi sẽ cập nhật thêm đoạn mã rác vào hướng dẫn của Maria phòng khi cô ấy cần đến nó.”
“Không, không, xin đừng” Hiro hốt hoảng nói. “Tao tin chắc nó không phải thông tin máy in thực phẩm. Tao sẽ nói cho cô ta biết sau khi đã hiểu rõ hơn. Hứa đấy.”
IAN im lặng nguyên một phút, và Hiro sợ rằng nó khi ấy đang cập nhật hướng dẫn của Maria.
“Được. Rồi.” Nghe nó có vẻ dằn vặt. “Tôi không chắc làm vậy là khôn ngoan.”
Hiro thầm cảm ơn thánh thần là IAN không đủ khả năng tranh cãi với mình. Ít nhất là chưa.
* * *
Con lợn ngon tuyệt hảo; những người ăn nó đều tấm tắc khen. Bất ngờ là Wolfgang chén rất nhiều. Maria cứ tưởng nếu có ai từ chối thì đó sẽ là gã an ninh trưởng cau có. Nhưng Joanna mới là người xin kiếu, chỉ ăn một bát canh cà chua.
“Hôm nay tôi sờ vào đủ thịt rồi, cảm ơn cô,” cô nói, nhăn nhó vì ghê tởm.
“Tuyến thời gian thế nào?” Katrina hỏi trong lúc nốc một cốc sữa.
“Chưa xong,” Joanna vừa nói vừa liếc nhanh Maria một phát, sau đó lại về với thuyền trưởng. “Ý tôi là, chúng tôi đã xác định được rằng các vụ hành hung bí ẩn diễn ra sát nhau. Chúng tôi đặt giả thuyết cô bị tấn công trước khi Maria bị đầu độc và Hiro bị treo cổ, sau đó những người còn lại chết.”
“Thế không có nghĩa là tất cả mấy người đều không liên đới đến các vụ án,” Wolfgang nói. “Chúng tôi lập luận rằng chưa biết chừng thuyền trưởng có trợ thủ đi chém giết theo lệnh cô ta. Có khả năng Hiro tự treo cổ sau khi mọi vụ hành hung đã diễn ra. Và Maria, cũng có khả năng cô bị ai đó đầu độc và rồi tự đi tấn công tất cả.”
“Anh suy diễn thật quá lố,” Maria phản đối.
“Chính thế mà tôi mới bảo rằng chúng tôi vẫn đang nghiên cứu.”
“Nghe thì có vẻ nghi phạm lớn nhất là Wolfgang, Joanna và Paul,” Hiro nói.
“Đó là lý do chúng tôi vẫn đang nghiên cứu tuyến thời gian,” Wolfgang xẵng giọng lặp lại. “Bây giờ cứ ăn thôi đã.”
“Không phải tôi đâu,” Paul nói với cái đĩa của mình.
“Không ai bảo anh là thủ phạm cả, Paula,” Joanna nhắc anh ta. “Nhưng chúng ta chẳng ai biết chắc mình có phải là thủ phạm hay không. Bao gồm Wolfgang và cả tôi nữa.”
Anh chàng kỹ sư không nhìn chị. Thế rồi anh ta bất chợt đứng dậy. “Nhìn giao diện máy chủ quá lâu làm tôi bị đau đầu mất rồi. Tôi về phòng đây.”
Các phi hành viên còn lại ngồi tầm một phút, ăn thịt lợn nướng, nước sốt, bánh mì và rau tổng hợp đã được Maria dọn ra trong một bầu không khí gượng gạo. Và rồi Hiro phá vỡ sự im lặng.
“Vậy là tất cả chúng ta đều như nhau; ký ức của chúng ta đều dừng ở lần tạo não đồ đầu tiên trên tàu, đúng không?”
Katrina gật đầu. “Não đồ đầu tiên, sau buổi tiệc nhẹ, trước khi chúng ta khởi hành.”
“Liệu có khả năng ta chở theo một kẻ đi lậu không? Chúng ta chẳng biết ai có thể lén lên tàu, mà lại không có ký ức để làm cơ sở suy đoán. Ta có tính đi tìm bằng chứng cho thấy có ai khác sống trên này không vậy?”
“IAN, trên tàu có kẻ đi lậu hay bản sao trái phép nào không?” Wolfgang lớn tiếng hỏi, khiến cả đám giật nảy mình.
“Tất nhiên là không,” IAN nói. “Nếu có thì tôi đã báo mọi người luôn rồi.”
Hiro rướn đến gần Maria. “Thế tức là kế hoạch Z,” anh nói.
Cô dụi mắt. “Ngày mai đi. Tôi kiệt sức rồi.”
Sau bữa tối đêm đó, Hiro và Katrina nán lại trong bếp, lại tiếp tục nốc whisky trong lúc Maria lau dọn.
“Anh Sato,” Katrina nói chậm rãi, như thể cần suy nghĩ kỹ từng từ. “Tôi sẽ cần một kênh liên lạc với Trái Đất.”
“Trái Đất hả?” Hiro nói, đánh mắt nhìn cái chai whisky hiện đã vơi phân nửa. Anh rót thêm một ít vào tách của mình. “Ý cô là nơi chúng ta vừa rời bỏ xong, nơi nhiều khả năng sẽ kết án tử cho chúng ta vì tội đã để nhiệm vụ tốn kém này bị thất bại hả? Trái Đất đó ấy à?”
“Vâng, anh Sato. Một kênh liên lạc với Trái Đất, không để thêm câu bình phẩm nhăng cuội nào nữa. Có vấn đề gì không?” Ngay cả khi ngà ngà say, giọng Katrina vẫn đầy quyền uy, không chút cợt nhả.
Cái cô này không ưa bị cãi.
“Ừ thì, tất nhiên, chúng ta có thể gửi về một bức thông điệp, nhưng phải rề rà tận mấy năm nó mới đến nơi. Sau đó nếu họ muốn nhắn nhủ gì chúng ta thì thậm chí còn mất lâu hơn nữa ta mới hay tin. Nếu chúng ta quay về nhà thì lại phải cộng thêm một phần tư thế kỷ nữa. Chúng ta không còn dưới quyền quản thúc của họ nữa đâu. Ta giờ là bố mẹ của chính mình rồi.” Anh lè nhè mãi mới phát âm xong từ quản thúc, nhưng rốt cuộc vẫn nói dứt câu ngon lành.
Katrina giơ hai tay lên để bảo anh đừng văn vẻ nữa. “Tôi hiểu, tôi hiểu. Nhưng anh có nghĩ là họ cần được cảnh báo trước rằng chúng ta đang quay trở lại không?”
“Chỉ trong trường hợp chúng ta biết chắc mình không bắt IAN nghe lời được thôi,” Hiro nói, đầy vẻ trầm ngâm.
Maria kiểm tra cái bát bên trong Cu Tị, bấy giờ đã được lập trình để chế món tráng miệng khoái khẩu của thuyền trưởng. Sau pha in lợn thành công, cô cảm thấy họ đã trở nên hòa thuận với nhau hơn. Theo Cu Tị, món cô ta thích là hoa quả và kem. Maria lấy làm ngạc nhiên, nhưng chiếc máy là đứa sành sỏi nhất. Cu Tị kêu lên một tiếng và Maria lấy cái bát ra.
“Cứ làm đi,” Katrina bảo Hiro và đứng dậy khỏi bàn, có phần hơi lảo đảo. Cô ta lẳng lặng đón lấy cái bát Maria đưa. “Nếu Wolfgang đến tìm người để cáo buộc tội gì đó thì bảo anh ta tôi đang ở trong phòng riêng.”
“Wolfgang đâu có cáo buộc ai, ít nhất là chưa,” Maria nói, thế rồi ghìm lại một tiếng cười lo lắng khi bị thuyền trưởng lừ mắt nhìn.
Katrina rời bếp, chẳng nói thêm câu nào.
“Cô ta thậm chí còn không cảm ơn cô đã nấu con lợn khổng lồ và mời kem,” Hiro nói. “Thô lỗ ghê.”
“Anh định thử liên lạc với Trái Đất thật à?”
Anh lắc đầu. “Không, chỉ lãng phí thời gian thôi. Ngày mai tôi sẽ thưa chuyện với cô nàng lúc nàng đã tỉnh rượu.” Anh nhíu mày. “Và tôi đã tỉnh rượu.”
“Tôi hỏi anh một câu được không?” Maria hỏi, ngồi xuống bên bàn đối diện anh.
Anh gật đầu, đồng thời rót cho cô một ly và đẩy nó sang chố cô.
“Tại sao anh lại được chọn làm lái tàu?” Maria hỏi. Cô vội vã giơ tay lên. “Tôi không cần biết lý lịch tội phạm của anh đâu, chỉ tò mò là tại sao anh lại muốn lái cái của khỉ này.”
Anh nhìn vào chiếc cốc rỗng của mình như thể đang thấy gì đó khác. Anh rót đầy nó, nhưng nhíu mày như thể đó không phải thứ mình muốn. “Trên Trái Đất chẳng còn gì khác cho tôi nữa. Đôi khi ngay cả cái chết cũng không giúp cô làm lại cuộc đời đúng kiểu. Suốt mấy kiếp sống, tôi đã thử rất nhiều trò để đời khá khẩm hơn, nhưng đây là một thứ mới mẻ.”
“Ừ, phần đầu tôi biết,” Maria nói. “Biết rất rõ.”
“Tôi quen một cô bạn biết về tàu Dormire và khuyên tôi thử bắt đầu học để xin chân lái tàu.”
“Vậy là anh không có kinh nghiệm làm phi công hay tham gia quân ngũ à? Sao vị trí này không vào tay một bản sao đã nghiên cứu lĩnh vực này nhiều năm? Một thành viên của chương trình vũ trụ Luna hay ai đó ấy?”
“Bạn của tôi có quan hệ. Cô ấy giới thiệu tôi và một tay nữa tôi quen trong tù với một nhà bảo trợ lúc dự án tàu Dormire được công bố. Còn mấy thập kỷ nữa mới khởi hành, thế là tôi cắm đầu vào học suốt mấy năm liền. Trong tù còn gì khác làm đâu.”
“Bạn của anh quen Sallie Mignon hay ai à?” Maria mỉm cười hỏi, nhắc đến tên bản sao nổi tiếng và quyền lực kia.
“Thật ra là đúng vậy đấy. Cô ấy quen nhiều người lắm.” Maria nhận thấy giọng anh có vẻ là lạ. “Anh thân với người này lắm phải không? Một người tình cũ à?”
Hiro nín thinh suốt một hồi lâu. “Tôi không chắc. Tôi không nghĩ thế. Cô có nhớ hết những người tình của mình không?”
Cô đứng dậy và bắt đầu lập trình các món ăn sáng cho Cu Tị. “À, không, không hẳn. Đã hàng trăm năm rồi mà. Nhưng đã kiếm được việc cho anh thì cô ấy cũng phải nổi trội theo cách nào đó chứ. Cô ấy tên gì?”
“Natalie Lo,” anh nói. “Thám tử Natalie Lo. Và tôi khá chắc chúng tôi không yêu nhau.”
Maria cảm thấy mình như đang đứng trên mép một vách đá, dõi mắt nhìn xuống dưới. “Anh… anh có muốn làm người yêu cô ấy không?”
Anh ngừng phắt đầu lên. “Nào, Maria, ai mà thế nổi vị trí của cô trong con tim tôi?” anh hỏi, nhăn răng cười.
“Anh vừa mới quen tôi thôi mà,” cô nói, lại rời bàn và tập trung lập trình mấy món tráng miệng khác cho Cu Tị.
“Nhưng tôi thấy cứ như đã biết cô từ tận thuở nào rồi ấy,” anh nói, giọng trầm xuống đầy lãng mạn.
“Ờ hờ,” Maria nói. “Anh cứ ngồi đó nhậu đi, tôi sẽ dọn khoang y tế thêm một cua nữa trước khi đi ngủ.”
Anh làm mặt ghê tởm, và cô đảo mắt rồi rời bếp.
“Người đâu mà dị thế chứ,” Maria lẩm bẩm. Cô cảm thấy bất an, như thể ban nãy vừa có một trận bão sắp ập lên người, nhưng lại đổi hướng vào phút chót. Hiro dễ thương và thông minh đấy, nhưng cũng khó lường. Và hồi trẻ dại, đàn ông khó lường sẽ là mẫu người bí ẩn và lãng mạn. Sau vài thập kỷ thì bất luận tuổi tác của cơ thể có là bao nhiêu, đàn ông khó lường cũng sẽ không còn quyến rũ nữa.
Theo kinh nghiệm của Maria, khó lường đồng nghĩa với nguy hiểm.
* * *
Maria đã mệt rủ người, nhưng lúc ăn tối, Joanna trông căng thẳng và lo lắng đến mức Maria muốn tìm thêm lần nữa xem có thấy cái kim tiêm bị mất tích không.
Cô mặc một bộ đồ bảo hộ sinh học vào và túm lấy các mẩu vịn trên tường để leo lên trần. Cô gài một cái móc trên thắt lưng vào vòng giữ trên trần. Lỗ thông khí ở trên này, và nó đã hút đi một lượng không nhỏ các chất kinh tởm. Nếu không phải đi tìm manh mối, cô chỉ cần quẳng bộ lọc đi và kiếm lấy một cái mới là xong, nhưng cô phải săm soi thật kỹ mọi chất dịch để đảm bảo không thứ gì trốn được vào đâu hết.
Có thứ đang lẩn trốn thật.
Một ống tiêm tí hon đã mắc vào bộ lọc không khí. Nó bị kẹt trong một bãi chất dinh dính gì đó mà cô không muốn xác định danh tính, nhưng cô đeo găng lôi nó ra khỏi bãi cặn và bỏ nó vào một túi chứa chất độc hại sinh học đã được viên bác sĩ đưa.
“Công việc tuyệt vời nhất trần đời,” cô lẩm bẩm một mình. Cô lắp một bộ lọc mới vào, thầm hứa ngày hôm sau sẽ quay lại để vệ sinh lỗ thông khí.
Với bộ dạng vẫn còn nhớp nháp và bẩn thỉu, Maria mang kim tiêm đến cho Joanna, bấy giờ đang trông chừng bản sao của thuyền trưởng trong khoang y tế.
Maria đưa cái túi cho chị, và Joanna lẳng lặng nhận lấy nó, kèm theo một cái gật đầu.
Trong phòng thí nghiệm của viên bác sĩ có máy tổng hợp thuốc, và hiển nhiên chỗ ketamine từ đó mà ra. Liệu chị có lập trình được cho máy in thực phẩm tổng hợp độc cần không nhỉ?
Maria thầm lắc đầu. Nếu Joanna là thủ phạm vụ độc cần, chị hẳn đã phải cố gắng giữ kín chuyện ấy hơn thay vì báo lại ngay lập tức.
Suy đoán kiểu này là việc của Wolfgang, không phải của Maria. Cô có những thứ khác cần giải quyết.
“Tôi sẽ báo cho cô kết quả kiểm nghiệm. Cô xứng đáng được biết,” Joanna nói. “Cảm ơn cô đã kín tiếng.”
Maria nhún vai. “Chúc may mắn. Hy vọng chị sẽ tìm ra thứ mình muốn.”
Trên đường quay lại sau khi bỏ bộ đồ bảo hộ sinh học vào ống tẩy uế, máy tính bảng của Maria đổ chuông. Cô giật mình nhận thấy người gửi là Cu Tị, báo với cô rằng món tráng miệng đã sẵn sàng.
“IAN, mày có biết Cu Tị nhắn tin được cho tao không?” Cô hỏi.
“Tất nhiên. Tôi giúp nó kết nối với cô mà.”
Maria chẳng rõ mình có ưa chuyện ấy không. Dẫu vậy, nó vẫn hữu dụng. Cô bảo IAN thông báo với phi hành đoàn rằng nếu họ muốn ăn tráng miệng, trong bếp đã có sẵn.
“Nhanh thế,” Hiro nói lúc cô quay lại.
“Chắc tại tôi không có sức mà làm,” Maria nói, đồng thời bước ra chỗ Cu Tị. Cô lấy tách kem trà xanh của Hiro và đặt nó trước mặt anh.
“Ái chà, sao cô biết tôi đang thèm món đó?” Hiro hỏi.
Maria nhún vai. “Ai cũng thèm đồ ăn vặt sau khi thức tỉnh. Chiều ý họ dễ lắm. Và Cu Tị xem chừng luôn biết đọc vị.”
Maria quay lại chỗ chiếc máy in và lấy món tráng miệng cho bản thân, một món ngọt luôn khiến cô nhớ đến dì mình.
Đồ ăn do máy in chế biến không giống hẳn với những gì họ đã quen ăn trên Trái Đất. Công nghệ đã giúp hoàn thiện khả năng nhân bản vô tính con người, sao chép và điều chỉnh ADN của họ, và thậm chí sao chép và điều chỉnh ngay cả nhân cách của họ. Tất cả những điều trên đều đã trở nên khả thi, nhưng tái tạo một đĩa kem đông ngon vẫn rất khó. Hoặc pho mát thối Limburger đúng chuẩn. Hoặc độ cay của một quả ớt habanero. Nhưng chiếc máy in đã hết sức cố gắng, và phi hành đoàn không phàn nàn gì.
Nhưng Maria thầm tiếc nuối hương vị hoàn hảo của một viên coquito acaramelado ngon, và kể cũng hơi bi đát khi biết cô sẽ chẳng được thưởng thức một món ăn chân thực nào như nó trong vòng hơn bốn trăm năm nữa. Hoặc có khi không bao giờ nữa, bởi họ chẳng biết loài cây nào sẽ sống tốt trên hành tinh mới.
Tuy nhiên, Cu Tị vẫn xoay xở tái tạo được mùi hương. Làn hơi nước thơm lừng, dày đặc, nằng nặng bốc ra từ buồng trong trông cứ như thật.
Cô ngấu nghiến ăn viên đầu tiên tại khu bếp, lưng quay về phía Hiro, tận hưởng hương vị ấy trong một khoảnh khắc đầy riêng tư. Cô bỏ nó vào miệng và nhai, má phồng lên, mắt nhắm nghiền.
Cái vị đậm đà, ngọt ngào và dễ chịu kia luôn gợi cho cô nhớ đến quê nhà.
Dì Lucia, hiện đã mất hơn trăm năm, chẳng khác nào một người mẹ thứ hai đối với Maria. Khi nỗi nhớ tràn dâng, kéo theo khao khát muốn được ấp ủ, Maria luôn nghĩ về gian bếp của dì Lucia.
Lần này khi ký ức ùa về, nó không như lệ thường. Nó xuất hiện dưới một hình thức khác, như đứa bé hàng xóm đi xin kẹo đêm Halloween mà ta biết rõ, ấy nhưng lại khoác thêm một bộ trang phục rẻ tiền nên trông vẫn lạ hẳn.
Maria giữ mắt nhắm nghiền và để nó xâm chiếm lấy mình.
* * *
Ghế đu của dì Lucia kẽo kẹt trên hiên nhà.
Hiên nhà ở trên Mặt Trăng, với một vòm trời thoáng đãng đen như mực và Trái Đất tỏa rạng phía đằng xa. Sự sống không thể nào tồn tại được bên ngoài mái vòm Luna; cảnh đu đưa trên hiên nhà này chắc không có thực. Vậy đây hẳn là một giấc mơ.
Phía đằng xa, mái vòm Luna sáng lấp lánh, và Maria có thể thấy sự tất bật bên trong, thấy những phi thuyền và xe lửa và người đi cầu bộ. Cô tự hỏi tại sao mình, dì mình, hiên nhà, cùng với chiếc ghế lại nằm ngoài tất cả.
“Không tin chúng được. Con biết vậy mà, đúng không?”
Dì Lucia có một điểm lạ, đó là trong da dì trắng hơn Maria nhớ. Tóc dì để xoăn, như thể dì là dân gốc Phi chứ không phải Latinh. Dì còn khoác một chiếc áo choàng lụa nữa. Dì ăn mặc kiểu thoải mái, nhưng lại diện toàn đồ đắt hơn cả kho quần áo nhà dì cộng lại.
Dì cũng mang theo một cái cưa máy, đặt cạnh ghế.
Maria nhớ dì Lucia chẳng dùng cưa máy bao giờ. “Không tin được gì ạ?” cô hỏi.
“ Người nào, con à. Học tiếng cho chuẩn vào, không thì một ông da trắng mặc quần bò xanh phẳng phiu sẽ sửa lời con đấy. Lão sẽ tưởng thế là giúp con, con bé tội nghiệp ạ.”
Lại thêm một điểm quái lạ nữa. Dì Lucia chỉ biết lõm bõm tiếng Anh. Trong khi bà dì này nói giọng Mỹ. “Con không được tin người nào ạ?” cô hỏi dì.
“Tất cả bọn chúng. Bất cứ ai trong số chúng. Con yêu à, con biết điều ấy mà, tại sao lần nào ta cũng phải nhắc thế: Chúng bắt con. Chúng lợi dụng con. Chúng quẳng con vào bãi rác. Ta chỉ muốn dặn là lần tới hãy cẩn thận. Ta chỉ nói mỗi vậy thôi.”
“Tất cả bọn họ ạ? Sao dì lại nghĩ bọn họ đều xấu xa vậy?” Maria hỏi.
“Đã sống mấy thế kỷ rồi thì con kiểu gì cũng có một mớ hổ lốn bí mật cần che đậy chứ, đúng không Maria?” Dì nhìn thẳng vào Maria. Cô tin chắc rằng sinh vật trong mộng này là dì Lucia của cô, người đã nuôi nấng cô. Ít nhất là chắc theo chuẩn mơ mộng. Ấy nhưng trông bà ta khác hẳn người dì yêu quý của cô.
Maria có nhiều bí mật lắm. Các bí mật và bản sao của chúng chồng lên nhau như đống củi. Nhưng đây là một điều mới mẻ, đây là một chuyến phiêu lưu, một khởi đầu mới. Tàu Dormire không phải là nơi lôi các bí mật thầm kín ra.
“Nếu mấy đứa không ngưng hục hặc, ta sẽ phải cho con tàu này quay đầu lại,” Dì Lucia nói, sau đó Hiro, Wolfgang, Paul, Thuyền trưởng Katrina và Joanna vây kín quanh cô, ai cũng như đang đứng dưới một ngọn đèn sân khấu. Chỉ có điều là thay vì soi tỏ bọn họ, nó lại đổ bóng che khuất họ. Hình bóng của họ nhìn là nhận ra ngay, từ tấm thân cao ngồng của Wolfgang cho đến thế đứng thu gù người của Paul. Họ đợi cô trong bóng tối.
“Con muốn lắm mà chẳng hiểu nổi, dì ơi,” cô nói.
“Rồi con sẽ hiểu, con yêu ạ. Ta chỉ hy vọng là sẽ hiểu kịp lúc. Con cứ chuẩn bị sẵn mấy chiếc chìa khóa chuồng cua ẩn sĩ đi. Con sẽ cần đến chúng đó,” Dì Lucia nói, thế rồi rướn người qua tay ghế để cầm cái cưa lên. Nó nhỏ thôi, và trông rất hợp với đôi tay dì. Dì khởi động nó. “Dè chừng sau lưng nhé, Maria.”
Dưới chân Maria, một con cua ẩn sĩ lôi vỏ bò ngang hiên nhà, râu tua khẽ ngoe nguẩy.
“Chào anh bạn già,” cô nói.