Chương 18
Tiến sĩ Maria Arena vuốt phẳng bộ vét xám trên đùi, sau đó nghiêm giọng tự dặn mình không được lo lắng. Cô đã hơn trăm tuổi và từng phải tiếp khách hàng rồi. Dù trong trường hợp này thì không hẳn thế. Giờ cô đang chơi lớn, nhưng cô rất thạo nghề, và ngay cả với một bộ Âu phục sang trọng mặc trên người, cô vẫn là chính mình.
Một kẻ ngoài lề xã hội đã mất sạch danh vọng và không ai thuê tuyển, nhưng vẫn là chính mình.
Chiếc limô tự lái đỗ lại và một cậu gác cửa vội đến giúp cô xuống xe. Bộ đồ pha lụa chạm vào da cô, khiến cô rùng mình. Cô để cậu ta đỡ, cảm thấy thật lố bịch bởi mình hiện chẳng đi cao gót hay mặc váy gì hết.
“Tiến sĩ Arena,” cậu gác cửa khẽ nói. “Chào mừng đến với Firetown.”
Firetown là tòa nhà cao nhất thế giới, nguyên một kilômét, được xây dựng như một thành phố để không ai phải rời đi cả. Nó có một trung tâm mua sắm, khách sạn, cửa hàng tạp hóa, bệnh viện, hộp đêm, rạp chiếu phim, công viên, trung tâm thể dục; nó thậm chí còn có một lượng người vô gia cư chiếm dụng tầng năm mốt. Nó không có nơi thờ tự nào cả.
Firetown được xây ở Thành phố New York, tại nơi diễn ra cuộc khởi nghĩa vô tính đầu tiên. Chủ tòa nhà, Sallie Mignon, cho xây nó để các bản sao có một chốn nương náu bình an. Một phần ba dân số bản sao trên thế giới sống trong tòa nhà này. Maria chưa ghé thăm nơi đây bao giờ, và cô bị choáng mạnh.
Họ bước qua tiền sảnh. Nơi này trông hệt như một khách sạn, với một bàn tiếp tân do những người ăn mặc chỉn chu đứng trực và những bức tường lát gương. Maria thấy bóng phản chiếu của mình và đứng thẳng lưng thêm một chút. Cô dừng lại bên bàn.
“Tiến sĩ Maria Arena, tôi đang được chờ sẵn,” cô nói với người phụ nữ da nâu lùn sau bàn.
Người phụ nữ mang thẻ tên GAJRA kia mỉm cười, gạt mái tóc đen ra khỏi mặt và gật đầu với Maria. “Vâng, thưa Tiến sĩ Arena,” chị ta nói. “Tôi xin phép được dẫn cô đến thang máy VIP của chúng tôi.”
Chị ta dẫn Maria qua một cụm ít nhất hai mươi thang máy, nơi mọi người kiên nhẫn xếp hàng dài chờ đợi, và bước dọc một hành lang trang trí giấy dán thêu hoa màu đỏ và vàng. Chị ta dùng thẻ khóa mở một cánh cửa và đẩy Maria vào trước.
Trong này có một sảnh nhỏ hơn, trông chẳng khác nào một hang động ngoài trời với cây cỏ, sàn đá, một đài phun nước, kèm theo vài ba nam thanh nữ tú thảnh thơi thưởng ngoạn. Maria tự hỏi có phải họ được trả tiền để giúp khiến nơi đây trông quyến rũ hơn không, và thầm nghĩ công việc này hẳn rất nhẹ nhàng, nhưng nhàm chán muốn chết.
Một chiếc thang máy nằm chính giữa bức tường đầu bên kia, và Gajra lại quẹt thẻ khóa và mỉm cười. “Mời cô vào,” chị ta nói lúc cửa mở ra.
“Tầng nào nhỉ?” Maria vừa hỏi vừa bước vào trong thang. Với thảm lót xanh và tường gắn gương, trong này sang trọng chẳng kém gì những nơi khác tại đây.
“Chỉ có một lựa chọn thôi,” Gajra nói, tay chỉ vào nút trên bảng điều khiển. Nó đề “ss.” Cửa đóng lại, che khuất nụ cười của Gajra, và Maria hít sâu một hơi. Bảng điều khiển thậm chí còn không có nút MỞ CỬA hay ĐÓNG CỬA, và không có điện thoại khẩn cấp, nhưng cô phải tin tưởng vào công trình kiến trúc cao cấp này. Cô nhấn “95” và chuẩn bị tinh thần thực hiện chuyến hành trình ù tai.
Sau khi lên được hai tầng, bức tường sau lưng biến mất, và cô nhận ra chiếc thang máy làm bằng kính, chỉ tráng gương ba bên, còn bên thứ tư thì nhìn ra ngoài. Cảm giác lúc cô dâng lên thật lạ, như thể thành phố đang rời xa cô chứ chẳng phải cô đang dâng mình lên trên nó.
Cô nhắm mắt lại cho đỡ chóng mặt. Cô chưa bao giờ lên cao thế này, ngoại trừ những lần đi máy bay. Cô quay sang nhìn cửa và lại hít sâu thêm một hơi. Mày cân được mà.
Cánh cửa mở ra, dẫn vào một căn hộ tầng thượng hết sức phi lôgic. Trông nó giống một bảo tàng hơn, với những bức họa vô giá cùng các pho tượng và sàn đá cẩm thạch, nhưng trông cứ rời rạc. Trên bàn có bình sữa và ô tô đồ chơi, và dưới sàn là một thanh thực phẩm năng lượng ăn dở. Maria lấy làm ngạc nhiên, các bản sao bị triệt sản ở cấp ADN, và hầu hết đều thích như thế. Xét cho cùng, sao chép vô tính vốn dĩ là một hành động đầy ích kỷ, ta để hết tài sản thừa kế lại cho kiếp đời tiếp theo của mình. Nhưng đó có thể là đồ của con riêng, hay con của một thành viên gia đình khác, hay con nuôi hộ, hay con nuôi. Thế rồi cô nhớ ông chồng người thường của Sallie có con riêng.
Một con chó thạch sư nhỏ màu xám phóng dọc hành lang, ăng ẳng sủa cô, và cô đẩy thanh thực phẩm về phía nó, đánh lạc hướng nó. Nó ngoạm vào thanh kia và lôi nó đi, mõm gầm gừ.
“Ái chà, công nhận cô biết cách ứng phó với Titan đấy.” một giọng vang lên đằng sau cô.
Sallie Mignon có vóc người nhỏ thó, gọn ghẽ, với một làn da nâu ấm áp và mái tóc nâu sáng khiến đầu cô ta như được bao trong một quầng hào quang. Trông cô ta chẳng có nét gì giống với một trong những nữ doanh nhân tàn nhẫn nhất thế giới, người đã một tay hủy hoại AT&Veriz bởi vì họ để Ben Seims, đối thủ kinh doanh của cô ta, lên làm CEO. Sau khi họ phá sản, cô ta mua lại họ và sa thải ông kia. Khối tài sản tiền tỷ của người phụ nữ này đến từ mảng bất động sản cao ốc. Cô ta đầu tư cho những tòa nhà chọc trời, và thậm chí một số người còn bảo là cô ta tài trợ cho một phần mái vòm Luna nữa. Có muôn điều đồn thổi về nhân vật này, cả đồn kín lẫn trên các tờ lá cải. Cô ta thuộc thế hệ bản sao đầu tiên, cô ta là bản sao đầu tiên, cô ta đã sát hại bản sao đầu tiên, cô ta định sẽ khiển luật thay đổi để bản sao được phép làm tổng thống thêm lần nữa, cô ta bấy giờ đã giật dây tổng thống như một con rối. Cô ta có một đoàn gián điệp ẩn trong hàng ngũ mọi đối thủ cạnh tranh, giữ chức vụ phó giám đốc hoặc cao hơn. Cô ta kiếm được cả một gia tài nho nhỏ chỉ nhờ bán khống đúng lúc và chẳng bao giờ bị bắt quả tang giao dịch nội gián. Cô ta đã ngăn chặn một cuộc chiến giữa Nga và Úc bởi vì bạn đại học của cô ta sống ở Guam và không muốn bị kẹt giữa cảnh binh lửa. Cô ta từng cố phát động chiến tranh bởi lẽ một người tình cũ sống ở Guam và cô ta muốn gã kẹt giữa cảnh binh lửa.
Tin đồn mỗi nơi một kiểu, nhưng tất cả đều đồng tình với nhau rằng Sallie Mignon và Guam có liên đới theo cách nào đó. Và cuộc chiến đã không nổ ra, giúp thế giới được thở phào nhẹ nhõm.
Cô hiện đang mặc một chiếc áo len dài tay ố màu và một chiếc quần bò pha lụa.
Cô ta chìa tay ra cho Maria, và cô bắt lấy nó. Cô ta bước qua chỗ cô và ra hiệu cho cô đi theo, thản nhiên gỡ sợi chỉ màu vàng quấn quanh một bức tượng trong tiền sảnh.
“Tôi có thứ cần lập trình,” Sallie nói trong lúc dẫn Maria vào bếp. Nó là kiểu bếp bóng loáng, tối tân mà cô hay thấy trong các tạp chí nhà cửa, chỉ có điều trông như có người sống ở đây thật. Trong bồn rửa có bát đĩa bẩn, trong góc phòng là một túi vải đựng hàng vứt chỏng chơ, ngoài ra còn có cả một cây ráy thơm cần tưới nước.
“Tôi, ờm, cô này, tôi không phải là một lập trình viên,” Maria nói theo thói quen.
Sallie nhìn ra sau vai, liếc vào mắt Maria và giữ nguyên ánh nhìn. “Ừ, tôi biết thuật ngữ chuẩn. Nhưng tại đây cô sẽ được an toàn. Tôi thậm chí còn bảo cô hầu gái nhà mình đừng đến hôm nay,” cô ta nói, đưa tay chỉ vào mớ bát đĩa bản, “Chị bảo mẫu đưa bọn trẻ lên tầng bốn mươi lăm xem phim rồi. Tóm lại, cứ nói chuyện huych toẹt với nhau đi và đừng làm lãng phí thời gian của tôi. Cô là một lập trình viên. Tôi cần người lập trình.”
“Được rồi. Vậy cô cần lập trình thứ gì?” Maria hỏi. Nói ra từ ấy nghe cứ ngượng miệng.
Cho dù phải vài tháng nữa hội nghị thượng đỉnh thế giới nhằm quyết định quyền của bản sao mới diễn ra, Mỹ và Cuba đã ban hành luật riêng để giới hạn những phần được phép chỉnh sửa trong não đồ của bản sao. Ai cũng nghĩ cả thế giới sẽ học tập Bắc Mỹ.
Nói trắng ra, Maria hiện đang thất nghiệp. Các lập trình viên tài ba bị sa thải ồ ạt và bị xã hội khinh rẻ. Hầu hết đi học nghề khác kiếm cơm, nhưng một số vẫn cứng đầu tiếp tục hoạt động, chỉ có điều là làm lén.
Phải thừa nhận rằng sau vụ trẻ nhái và nhiều phi vụ bảo hợp pháp cũng như vô đạo đức khác, hình ảnh của hacker bị sứt mẻ nặng nề. Lúc tin được đăng tải, các vụ bạo loạn bài xích sao chép vô tính bắt đầu nổ ra, và tình hình trở nên nguy hiểm.
Maria đã miệt mài làm việc suốt bao năm để hoàn thiện tay nghề điều chỉnh não đồ. Cô thậm chí còn chưa từng ăn cắp vặt. Giờ cô lại đi phá những luật còn nghiêm trọng gấp bội. Và giờ nhân vật quyền lực nhất đất nước muốn thuê cô.
“Tôi không chấp nhận giết người vô tội, tôi sẽ không tham gia chế tạo người thượng đẳng, và chi phí của tôi là không thể mặc cả,” Maria nói, sau đó ngồi vào bàn bếp và bắt tréo chân. Được bàn công việc thay vì phải khép nép trước một người đàn bà quyền thế ngang trời giúp cô cảm thấy tự nhiên hơn.
Salie lắc đầu và ngồi xuống đối diện Maria. “Tôi không cần mấy thứ như thế.” Cô ta hất đầu về phía một cánh cửa đóng trên bức tường phía xa. “Tôi muốn biết cô có đồng ý hack Jerome, chồng tôi không. Đây là kiếp đời đầu tiên của anh ấy. Jerome sẽ được sao chép, nhưng anh ấy mắc đa xơ cứng. Anh trai, bố và bà của anh ấy đều mắc cả. Anh ấy đang chết dần. Nếu tôi sao chép anh ấy như hiện thời thì lần nào đời anh ấy cũng sẽ chậm rãi xuống dốc một cách đầy đau đớn. Và chúng tôi không biết anh ấy sẽ sống được bao lâu. Giờ anh ấy đang muốn tự sát, nhưng tôi không thể để anh ấy làm vậy. Tôi không thể.”
“Loại bỏ đa xơ cứng? Chỉ thế thôi à? Tôi làm được.” Cô từng thực hiện những ca kinh khủng hơn, với mức phí thấp hơn. Sau hôm sửa ADN một đứa bé sơ sinh để nó có mắt xanh và mặt mũi xinh xắn hơn, cũng như loại bỏ phần đột biến gây bại não, cô nốc rượu đến mụ cả đầu. Cô tự nhủ mình chẳng dính dáng gì đến vụ sát hại bé gái kia hết. Tội đó là của bố mẹ nó. Nhưng cô vẫn thấy tay mình vấy bẩn.
Cô thò tay vào túi áo khoác trong để lấy hợp đồng. Cô đẩy chiếc máy tính bảng sang bên kia bàn, tệp tin chứa thông tin của cô được mở sẵn. “Chi phí. Những gì tôi sẽ làm và sẽ không làm. Các rủi ro liên quan đến thọc ngoáy vào ma trận ADN người khác. Và các hệ lụy pháp lý nếu chúng ta bị tóm.”
Sallie lướt mắt trên màn hình với vẻ thuần thục của một người chuyên tìm “bẫy” trong hợp đồng. “Tôi sẽ phải gánh án phí của cô nếu cô bị bắt. Được đấy.”
Maria nhún vai. “Biết bảo tồn sinh mạng là một trong những nét đặc trưng của thức sống thông minh mà.” Cô nói.
Sallie đặt ngón cái lên bộ cảm biến của máy, ký chí tài liệu. Cô ta nói mà chẳng buồn ngẩng đầu lên, “Nếu việc cô làm là phi pháp thì chẳng phải bản hợp đồng này vô nghĩa sao?”
“Tôi muốn theo dõi các khách hàng của mình và có thể nhắc nhở họ về những gì hai bên đã thỏa thuận với nhau,” Maria nói. Cô đưa cho Sallie một ổ lưu ký ức rỗng. “Lưu não đồ của chồng cô vào đây đi. Tôi sẽ mang anh ta về nhà và xử cái bệnh kia. Ngày mai cô có thể nhận lại anh ta.”
“Cô lập trình ở đây được mà. Ta làm vậy nhé,” Sallie nói, vẻ đanh thép trong giọng cô ta tương phản hẳn với nét lịch sự của lời lẽ. “Tôi không hay để ma trận chồng mình lọt ra khỏi nhà, đừng nói là sang hẳn bang khác.”
Maria thở dài. “Và tôi không hay dùng mạng nhà người khác để thực hiện công việc của mình. Và như cô đã nói đấy, việc tôi làm phi pháp vô cùng. Tôi nắm rõ cơ chế bảo mật trên hệ thống nhà mình, nhưng tôi không biết của cô thì thế nào.”
“Vấn đề ấy có nghiêm trọng lắm không?” cô ta hỏi, nhìn xoáy vào mắt Maria. “Cô sẽ vứt bỏ hàng triệu tệ đấy.”
Trong thập kỷ đầu tiên sống kiếp bản sao, Maria đầu tư không được khôn ngoan cho lắm, và cô không giàu được như hằng mong muốn. Nhưng nếu không bảo mật 100 phần trăm thì sẽ có quá nhiều bẫy, bọ dò và rôbốt thu thập dữ liệu đủ sức truy ngược thành phẩm của cô, và nếu mã độc quyền của cô mà bị lộ thì cô có thể sẽ bị tổn hại cả trên phương diện pháp lý lẫn phương diện công việc.
Cô cắn môi, sau đó gật đầu. “Vâng. Làm vậy quá liều lĩnh.” Cô đứng dậy. “Tôi xin lỗi vì đã làm lãng phí thời gian của cô, cô Mignon. Rất hân hạnh được làm quen với cô.” Cô chìa bàn tay ra.
Sallie nhìn bàn tay không chớp mắt, sau đó cười phá lên. “Cuối cùng cũng có người đủ lớn mật. Thôi được rồi. Cô có thể dùng hệ thống tại nhà riêng.”
Maria thở dài, không ngờ rằng đây lại là một bài kiểm tra khí phách.
Sallie vớ lấy một cái ổ trên bàn bếp. “Nhưng tôi sẽ đi cùng cô.”
* * *
Sau một cuộc gọi cho người chăm sóc Jerome, một cuộc gọi cho người quản đội xe tự lái của Sallie, một cuộc gọi cho sân bay và khoác một chiếc áo da ra ngoài cái áo len bẩn của Maria, Maria và Sallie lướt đi giữa dòng xe cộ của Thành phố New York, tiến về phía JFK.
“Cô không muốn chào mấy đứa nhỏ à?” Maria hỏi.
“Tôi có linh cảm mình sẽ phải đi xa hôm nay, thế nên chúng nó biết trước rồi.”
“Sao cô biết mình sẽ quay về cùng tôi?”
“Tôi đã tìm hiểu về cô rồi, Maria. Tôi chẳng thuê bọn ngu bao giờ. Tôi biết cô sẽ không muốn làm việc trên mạng nhà tôi.”
Họ trải qua một cuộc kiểm tra an ninh sơ sịa, dành riêng cho những người quyền lực, sau đó lên ngồi khoang hạng nhất.
“Nếu biết mình sẽ đến Florida thì tại sao cô không đưa Jerome đến gặp tôi?” Maria hỏi.
“Bởi vì tôi muốn gặp cô trước đã.” Sallie nói. “Thế dễ hơn, phòng trường hợp tôi nhầm về cô.”
“Tôi ngạc nhiên là cô không có máy bay riêng đấy. Cô sở hữu toàn bộ Firetown mà nhỉ?” Maria hỏi.
“Tôi không thích bay. Tôi thấy chẳng việc gì phải bay nhiều hơn mức cần thiết.” Sallie nhận hai ly mimosa do tiếp viên mới. Cô ta nốc cạn một ly và giữ nguyên ly còn lại, không đưa cho Maria.
Maria băn khoăn không biết sáng nay mình dọn nhà chưa.
“Cô thích sống ở Florida không?” Sallie hỏi, thế rồi giơ tay ra hiệu cho anh tiếp viên. “Cho bạn tôi hai ly mimosa.”
“Vâng, thưa cô Mignon,” anh ta cung kính nói.
“Cũng thích,” Maria nói. “Tôi ở đủ gần Cuba để tiện ghé thăm, nhưng đủ xa để gia đình tôi không thấy không thoải mái.”
Sallie bật cười. “Cô vẫn còn có gia đình à?”
“Có chứ, ai chẳng có. Tôi không có con, nhưng thỉnh thoảng một cô hay cậu chít mấy đời tìm đến nhờ vả tôi.”
“Bọn ký sinh,” Sallie nói.
Maria lắc đầu. “Gia đình cả mà. Tôi thường vẫn giúp được họ, không có gì khó khăn hết.”
“Cô hào phóng quá đấy,” Sallie nói. “Tôi chẳng lành thế đâu. Làm thế sẽ chẳng dạy dỗ được gì đám kia.”
“Tại sao tôi phải dạy họ?” Maria hỏi. “Chẳng lẽ cứ gặp ai là lại phải dạy họ gì đó ư?”
Cô nhận lấy chỗ mimosa và nhanh chóng xử gọn một ly, và rồi nâng niu ly thứ hai. Anh tiếp viên quay lại dọn chỗ ly rỗng của họ, và họ ngồi im nghe hướng dẫn cách giữ an toàn khi bay. Sallie quan sát anh tiếp viên; Maria thì quan sát Sallie, ngạc nhiên khi thấy có người lại chăm chú lắng nghe mớ thông tin cũ mèm ấy đến vậy.
Chiếc máy bay khẽ lắc khi cất cánh. Sallie không rời mắt khỏi chiếc ghế trước mặt. “Con người cũng như chó,” cô ta nói như thể cuộc trò chuyện chưa hề bị gián đoạn. “Mọi khoảnh khắc đều dạy cho chúng điều gì đó. Chúng ăng ẳng sủa bên cửa, ta cho chúng ra ngoài vì nghe sủa ngứa tai, thế là chúng học được rằng cứ sủa là cửa sẽ mở. Ta cho chúng ăn kẹo trước khi nhâm nhi ly rượu buổi tối, con chó sẽ học được rằng một khi chai rượu đã được lôi ra, sau đó sẽ có kẹo.”
“Và nếu cho họ hàng chút tiền, ta dạy họ lười lao động à? Đó có phải là quan niệm của cô về từ thiện và quà cáp nói chung không?” Maria hỏi.
“Tôi thích đưa tiền cho những người thực sự cần đến nó và những người lao động để có được nó, chứ không phải hạng lười nhác chẳng chịu làm việc. Họ hàng nhà cô có làm gì không?”
“Tôi không nghĩ họ cần phải điền đơn thì mới được dì mình tặng quà,” Maria nghiêm giọng nói.
“Bình tĩnh nào, tôi không tước hết kẹo mút nhà cô đi đâu,” Sallie nói, người hơi thả lỏng ra. “Tôi chỉ đang gợi chuyện thôi.”
Maria quan sát tư thế và đôi bàn tay đặt úp trên đầu gối của Sallie, trông đầy thư thái. Có phần quá thư thái. “Sallie này, tại sao cô thù bay lượn mà lại hăm hở về nhà cùng tôi thế nhỉ?” cô hỏi.
Sallie nhăn mặt. “Tôi không ưa lôi chuyện đó ra bàn.” Cô ta nói.
“Vậy thì trả lời cho thật gọn ghẽ đi,” Maria đề xuất.
“Tôi không thích bay. Nhưng công việc buộc tôi phải làm thế. Suốt ngày phải làm thế. Nếu chẳng bao giờ đến Châu Á Thái Bình Dương thì không sở hữu bất động sản đó được. Đầu tư như thế rất dở.”
“Vậy là cô giống người sợ kim tiêm nhưng lại thường xuyên cần tiêm thuốc chống dị ứng hả?” Maria hỏi.
“Kiểu thế,” Sallie nói. “Chúng ta tiếp tục cãi cọ về gia đình biếng nhác của cô được không?”
“Chuyến bay này ngắn lắm, đừng lo.”
“Đó là bởi ta phóng nhanh bỏ mẹ,” Sallie nói. “Hồi trước bay lượn tốn thời gian hơn, nhưng chậm và an toàn hơn.”
“Tôi khá chắc là bất kể đâm xuống đất với vận tốc năm trăm dặm trên giờ hay một ngàn hai trăm năm mươi dặm trên giờ, cô cũng sẽ chết ngắc thôi.”
Salie nghiến răng. “Nói thế chẳng giúp được gì ai đâu.”
Họ nói chuyện về con cái của Salie và cháu của Maria suốt quãng thời gian bay còn lại, và lúc hạ cánh xuống Miami, dáng điệu của Sallie đã gần giống lại con người.
Maria sống tại một tòa chung cư tồi tàn phía Nam Miami, trong một khu chẳng mấy tử tế. Họ băng qua vài chiếc xe lỗi thời đến mức vẫn cần người lái, hoen gỉ và tàn tạ. Kể từ hồi xe tự lái trở thành phổ thông, thợ máy ô tô kiếm bộn nhờ sửa chữa xe cũ. Thời nay, chỉ người giàu muốn trải nghiệm cảm giác tự do và mới lạ hoặc người nghèo không lên đời nổi xe mới còn lái thủ công.
Maria lấy làm cảm kích khi Sallie chẳng bình phẩm gì về điểm đến của họ cả, nhưng sau đó nhận ra rằng nếu Sallie đã tìm hiểu về mình thì cô ta chắc biết hết mọi thông tin cá nhân của cô rồi. Lúc họ lên đến căn hộ tầng ba của Maria, Maria lấy thẻ khóa ra, đút vào và lôi một chiếc hộp đen nhỏ ra khỏi ví. Cô chĩa nó về phía cửa và các tia laze bật lên để hiển thị một bộ phím số. Cô nhập một chuỗi mã bảy chữ số và tắt laze đi. Cánh cửa bật mở.
Salie nhướn mày. “Cô đúng là không đùa về vụ bảo mật.”
Maria nhoẻn miệng cười. “Mới chỉ là khúc dạo đầu thôi đấy.”
Cô mở cửa và dẫn Sallie vào. Rải rác đó đây trên mặt sàn nâu sẫm là những tấm thảm lông trắng. Phòng khách của cô bày toàn đồ da đen, quay về hướng một bức tường Có gắn một lò sưởi ga trang trí. Treo trên trần là một máy chiếu vuông, được thiết kế để chiếu phim lên bức tường trắng. Sơn tung tóe dọc các bức tường là tranh của nhiều nghệ sĩ siêu thực hiện đại, bao gồm một “tác phẩm” ấn tượng cấu thành từ những gam tím và đỏ.
Sallie chỉ vào nó. “Kia có phải tranh Fogarty không?” có ta hỏi. “Vẽ thẳng lên tường nhà cô à?”
“Ừ,” Maria vừa nói vừa bước vào phòng ngủ để thay bộ vét. “Anh ta là bạn tôi.”
“Cô thuê anh ta về hả?” Sallie hỏi vọng vào từ phòng khách.
Maria đặt bộ đồ lên cái giường bề bộn của mình và lấy quần bò cùng áo phông ra khỏi ngăn kéo. “Không hẳn. Tôi tổ chức tiệc và anh ta bị quá chén, và rồi quyết định tỏ tình với tôi. Thế là anh ta phô hết tài nghệ lên tường nhà tôi. Mới đầu tôi lộn cả mề, sau đó tôi lại nghĩ mình giờ đã sở hữu bức tường đắt giá nhất Miami, và chẳng hậm hực gì nữa.”
Sallie nghe như thể đã chuyển sang ngắm tranh khác. “Có khi Van Gogh còn phải bái anh ta làm thầy đấy. Hai người có cặp bồ không?”
“Một thời gian ngắn thôi,” Maria nói. “Chẳng hợp nhau mấy. Nhưng cha mẹ ơi, anh ta múa cọ siêu thật.”
“Tôi từng tính triển khai một chương trình tài trợ sao chép vô tính cho các nghệ sĩ,” Sallie nói. “Chúng tôi sẽ bảo trợ cho họ và sao chép họ để họ có thể sáng tác không ngừng. Nhưng Jerome nói làm vậy giống nô lệ có hợp đồng.” Cô ta nhăn mặt.
“Đúng là nghe như thể cô muốn họ tiếp tục sáng tác, nhưng nếu họ bỏ ngang thì cô sẽ không sao chép họ nữa.”
“Thế hơi cực đoan. Với cả nào ai khiến một nghệ sĩ ngừng sáng tác nổi? Sau đó tôi tìm ra những dự án đầu tư khác.”
Maria đã mặc xong quần áo. Cô rời phòng ngủ và thấy Sallie bấy giờ đang đứng trước một bức Fogarty nguyên bản khác. Bức này được vẽ trên vải bạt tử tế. Sallie chi lại vào bức trên tường. “Có phải đó là lý do cô chưa dọn đi chỗ khác không?”
“Chỉ là một lý do thôi,” cô nói. “Còn cả những lý do như lúc kiếm được tiền, tôi bắt đầu nâng cấp nơi này lên, sau đó nhận ra nếu chuyển đi, tôi sẽ phải lắp đặt lại mọi biện pháp an ninh cho chỗ mới. Thế là tôi cứ ở mãi đây. Tôi sẽ đỡ bị trộm tăm tia hơn, miễn sao biết sống cho có chừng mực.”
“Và không để thiên hạ nghĩ mình là một hacker giàu sụ,” Sallie nói.
Maria nhoẻn miệng cười. “Cả cái đó nữa.” Cô chìa tay ra. “Nào, ngó qua ma trận ADN này thôi.”
Sau hai tiếng nghiên cứu mã cấu thành não đồ của Jerome, Maria đã xác định được đoạn gen bất thường gây đa xơ cứng lúc về già. Cô nhập mã chuyển phần dữ liệu ấy thành ghi chú và tỉa gọn xung quanh để ADN mới không tìm cách vơ lấy một chuỗi khuyết.
“Tại sao cô không xóa hẳn nó đi?” Sallie hỏi.
“Quá nguy hiểm. Chuyển mã sang dạng ghi chú đồng nghĩa với giữ nó ở nguyên đó, thế nên nếu làm hỏng gì, tôi sẽ có thể đảo về mã cũ.”
“Vậy là cô không giữ bản sao lưu nào, đúng không?”
Maria vẫn dán mắt vào màn hình. “Không, sao lưu não đồ người khác để phục vụ mục đích cá nhân là phi đạo đức. Khách hàng của tôi luôn được nhận lại toàn bộ chỗ dữ liệu họ đã đưa cho tôi.”
Lúc nghỉ giải lao, cô mời Sallie uống nước, và dụi mắt trong khi cà phê được đun.
“Cảm ơn cô đã giúp,” Sallie nói, diện mạo có vẻ mệt mỏi và phần nào ngưỡng mộ. “Cô quả là giỏi như lời đồn.”
“Cảm ơn cô,” Maria vừa nói vừa lấy cốc.
“Tôi có chút thắc mắc,” Sallie nói. “Trong lúc chỉnh, cô sửa thêm mấy thứ khác nữa được không?”
“Còn tùy, nhưng được.”
“Khiến anh ấy yêu tôi hơn. Khiến anh ấy không phản bội tội lần nào nữa. Khiến anh ấy không giận về việc tôi sao chép anh ấy,” Sallie cay đắng nói.
Maria ngạc nhiên quay lại, tái nhợt đi khi thấy vẻ đau khổ trên mặt Sallie. “Anh ta chưa đồng tình để mình được sao chép à?”
“Chưa. Anh ấy sắp chết rồi, và anh ấy lo rằng lúc mình hồi xuân thành hai lăm còn tôi trông vẫn như đang ngoài năm mươi, chúng tôi sẽ không hòa thuận được. Tôi đã nhắc anh ấy rằng tôi già hơn hẳn anh ấy, nhưng vẫn vô dụng. Anh ấy không hiểu.”
Maria lắc đầu. “Hầu hết đều thế, cho đến khi họ đã được sao chép.” Cô ngưng lại, cắn môi. “Cô có thực sự nghiêm túc muốn những điều ấy không?”
Sallie tạm rũ bỏ cơn khổ đau và quệt mắt. “Cô liệu có thực hiện nổi một ca phức tạp đến thế không? Tôi cứ tưởng làm vậy là bất khả thi.”
Maria bồn chồn nhún vai. “Không nhiều người làm được đâu. Nhưng đó là chuyên môn của tôi, thế nên tôi vẫn lén làm trên thị trường chợ đen. Trong số những thứ cô yêu cầu, tôi làm được khá nhiều. Tất cả thì không. Nhưng mọi ca hack nhân cách tôi thực hiện đều rất nguy hiểm. Loại bỏ đa xơ cứng khỏi ma trận thì dễ thôi. Chỉnh sửa nhận thức về bản thân của người khác, sửa lại xúc cảm của họ, những thứ ấy sẽ phức tạp hơn. Rủi ro lắm.”
Sallie dán mắt vào các con số trên màn hình, nhấp nháy với những sắc màu khác nhau, hiển thị một ngôn ngữ Maria biết rõ. Cô ta gật đầu, và một giọt lệ lăn dài xuống má. “Làm đi.”
Maria quay về với máy tính và lại lùng sục bên trong hàng terabyte thông tin thêm lần nữa, tìm kiếm tình yêu, sự trăng hoa và lòng khoan dung. Cô bắt đầu lập trình các thay đổi cho chồng của Sallie.
Bấy giờ, cô không có quyền đánh giá khách hàng của mình.
Nhưng cô chẳng bao giờ thấy lại phiên bản Sallie mong manh, nước mắt lưng tròng kia nữa.
* * *
Phóng viên là một cô gái da trắng trẻ tuổi, trên cổ tay xăm số I La Mã. Người thường hiện đang có mốt dùng hình xăm để thể hiện mình là kiếp đầu tiên của một chuỗi đời trường tồn, với dự định sẽ sao chép bản thân sau khi chết. Nó cũng tương tự gọi một lễ kỷ niệm thường niên là buổi lễ lần thứ nhất. Lần thứ nhất chẳng thể tồn tại nếu không có lần thứ hai.
Maria không muốn tham gia buổi họp này. Nhưng cô nhận tiền ứng trước của Sallie Mignon suốt gần một trăm năm nay rồi, và đã tích lũy được một gia tài đáng kể. Cô tuân lệnh Sallie.
Trên mặt cô phóng viên là mấy hình xăm, một đặc quyền khác của những người không sống kiếp vô tính. Cô ta có một ngôi sao bên má trái, đầu cạo trọc phân nửa và trên da đầu có thêm vài ngôi sao nữa. Bên đầu phải của cô ta là mái tóc xanh dài, suôn thẳng.
Bấy lâu nay cô ta trơ trẽn viết về cả hai phe trong các cuộc bạo loạn vô tính, oang oang khoe mình thuật tin rất công bằng, nhưng luôn sẵn sàng đào những tai tiếng xưa cũ lên để bôi xấu các bản sao quyền lực. Mặc dù đáng ghét như vậy, khả năng tìm tòi nghiên cứu của cô ta lại điêu luyện chẳng kém gì tài nghệ lùng sục mã não đồ của Maria. Vì khâm phục sự gan góc của cô phóng viên ấy, Sallie tuyển cô ta về làm dưới trướng mình.
Nhân vật này tên là Martini, và cô ta cũng uống chính món đó, pha bằng loại vodka hảo hạng nhất Sallie mua được. Sau khi đồ uống được mang đến (Sallie và Maria dùng whisky), Sallie nhẹ nhàng mỉm cười. Cô ta lấy máy tính bảng của mình ra và mở trang nhất tờ New York Times. CÁC BẢN SAO KHỦNG BỐ TỔ CHỨC BẠO LOẠN TRÊN KHẮP THẾ GIỚI VÀ LUNA, HÀNG CHỤC NGƯỜI BỊ THƯƠNG TRONG ÂM MƯU PHÁ HOẠI TÀU VŨ TRỤ ĐÁ THẾ HỆ DJ RIMIRE MỚI: CÓ THỂ PHẢI HOÃN KHỞI HÀNH NHIỀU NĂM nằm to tướng trên đó, cùng với một bức ảnh Luna chụp từ ngoài mái vòm. Có người đã bị sát hại đầy thê thảm phía bên kia, đủ gần để máu văng tóe lên công trình cấu thành từ kim cương tổng hợp.
Một phóng viên nhiếp ảnh ham hố giải Pulitzer nào đó đã mặc đồ bảo hộ ra ngoài chỉ để chụp bức ấy.
“Sao thế này?” Sallie hỏi Martini.
Martini nhún vai. “Các bản sao không thích việc người thường được đi định cư trên hành tinh mới. Họ gây bạo loạn, tìm cách phá tàu. Chị chưa đọc à?”
Maria giấu một cái nhăn mặt đằng sau ly rượu của mình. Cái cô này chưa làm cho Sallie đủ lâu để biết điều gì nói được và quan trọng hơn, điều gì không được nói.
“Ý em là, em có kiểm soát tin tức đâu. Sau vụ này thì bên bản sao còn khôi phục tiếng tăm và giữ vẻ thánh thiện kiểu gì được?” cô ta nói tiếp.
“Tôi thuê cô để kiểm soát tin tức,” Sallie nói. “Tôi không cần biết cô làm thế nào. Nhưng cô phải viết các tin có lợi cho bản sao trên tầm vĩ mô, lợi cho tôi trên tầm vi mô. Có đến hàng chục ngàn bản sao, với nhiều người tuyệt đối tuân thủ luật lệ của nhân loại. Và chúng tôi đang cố gắng đưa một máy chủ lên con tàu kia để các bản sao cũng có thể đến Artemis. Ấy nhưng báo nhà cô gọi chúng tôi là khủng bố.”
“Nhưng…” Martini nói, nhưng Sallie vẫn còn đà.
“Các phần tử cực đoan tồn tại trong mọi nhóm người trên hành tinh. Từ các tín đồ của cả Thiên Chúa Giáo lẫn Hồi Giáo giết chóc nhân danh Chúa, cho đến những người cứ mãi duy trì một vòng tuần hoàn ngược đãi từ bố mẹ đến con cái. Và cô biết khi nào họ mới bị gọi là khủng bố không?”
Martini nói. “Khi chính phủ…”
“Khi báo đài đưa tin như thế. Báo giới có thể biến một người tị nạn đói khát thành một kẻ di cư xâm lấn. Một trong những tổ tiên da đen của tôi bị chụp cảnh mang tã lót trên đầu sau một trận lụt. Họ gọi ông là một tên trộm.” Một tay da trắng cũng bị chụp làm điều tương tự. Họ gọi hắn là một người sống sót.” Lúc cô đến xin làm cho tôi, tôi tưởng cô biết sức mạnh của báo chí. Nhưng cô để cái thứ này..” cô ta đập tay lên chiếc máy tính bảng, khiến màn hình nứt toác, “… được đăng tải.”
“Em có viết đâu,” Martini rú lên, cuối cùng cũng nhận ra bà chủ nhỏ nhắn của mình đang nổi cơn lôi đình.
“Thế thì cô phải biên tập lại nó trước khi cho đăng. Việc của cô là kiểm soát tin tức, không phải đăng những tin giật gân về các bản sao. Cô có biết chuyện gì xảy ra sau khi bài này được đăng không?”
Martini lắc đầu. Maria nhè nhẹ rút lại chiếc máy tính với màn hình nứt vỡ như mạng nhện chăng trên dòng tít báng bổ và nhét nó vào túi xách.
“Giờ họ sẽ không cho đưa máy chủ chứa bản sao lên tàu nữa. Nó sẽ chỉ dành riêng cho người thường. Tôi đã đổ hàng tỷ đồng vào dự án này để được sống trên một hành tinh khác đấy, Martini, và cô làm hỏng hết đại sự với chỉ một bài báo.”
“Nhưng các bản sao phá hoại mới là kẻ làm hỏng chuyện chứ!” cô ta nói. “Đâu phải lỗi của em!”
“Tôi thuê cô để làm đúng một việc. Cô không thèm làm. Thế nên giờ ta sẽ làm như sau nhé. Cô sẽ được sao chép tại cơ sở riêng của tôi theo đúng ước nguyện. Nhưng cô Maria này đây sẽ sửa não đồ của cô để đảm bảo cô không ra những quyết định ngu như thế nữa.”
Maria lạnh toát người. Thì ra đây là lý do mình phải đến họp.
Martini lắc đầu, mắt ngấn lệ. “Ấy đừng, đừng băm đầu em, lần tới em sẽ làm tốt hơn, em sẽ khiến họ rút bài, em sẽ khiến người ta đưa máy chủ lên tàu!”
“Khiến kiểu gì?” Sallie hỏi, mắt nheo lại.
Cô ta và Martini lên kế hoạch; sau khi bị dọa sửa não đồ, Martini bỗng dưng hào hứng nghĩ cách chữa cháy hơn hẳn.
Maria gọi thêm một chầu nữa, tìm cách xoa dịu cơn hoảng loạn. Một cậu bồi bàn đến phục vụ họ, và Maria nhận thấy toàn bộ đội ngũ nhân viên trong quán rượu gần như vắng tanh này cứ cố lờ tịt bọn họ nãy giờ.
Sallie thật biết đi đêm.
* * *
Đêm hôm ấy, lúc ngồi ghế sau chiếc limô chở họ về Firetown, Sallie hỏi Maria sao cô lầm lì vậy.
“Cô đã đe dọa cô ta. Bằng chiêu trò vô đạo đức nhất trần đời.”
Sallie khịt mũi. “Giờ mới lo chuyện đạo đức thì hơi muộn rồi đấy. Suốt một trăm năm qua cô làm gì ấy nhỉ?”
“Điều kiện của tôi thế nào cô đều rõ cả. Có những ranh giới tôi sẽ không đời nào lấn.”
“Tôi tưởng chúng ta đã hiểu nhau rồi chứ,” Sallie lạnh lùng nói.
“Tôi cũng tưởng thế,” Maria nói.
“Đằng nào thì ta cũng có cần làm gì đâu,” Sallie nói. “Chúng ta đã gò được cho con bé kia tử tế lại.”
“Tôi không phải là con dao mổ để cô vung vẩy đe dọa người khác,” Maria nói. “Tôi sẽ phải xin thôi việc.”
Sallie ngắm thành phố bên ngoài cửa sổ, mặt lạnh như tiền.
“Được rồi. Chúc cô may mắn.”
Cô ta không đề nghị trả thêm. Cô ta không đe dọa mình. Chẳng có chuyện cô ta tha cho mình dễ thế đâu.
Maria tập trung nhìn ra ngoài cửa sổ bên mình, đồng thời tự hỏi không biết Sallie thực sự đang nghĩ gì. Sự buông xuôi của cô ta là điều đáng sợ nhất.
Hai ngày sau khi thôi làm chỗ Sallie, cô bị bắt do có hành vi hack phi pháp.
Mấy thập kỷ sau, lúc được mời tham gia phi hành đoàn tàu Dormire nhờ cải tạo tốt, có tin đã đến lúc mình đổi đời, và đồng ý.