Chương 20
Sallie Mignon, bản sao tỷ phú, nhà bảo trợ của Đại học Obama tại Chicago, trông nhỏ con hơn hẳn dự kiến của Paul.
“Anh Seurat,” cô ta nói khi anh ta bước vào văn phòng. Anh ta chìa tay qua bàn. Cô ta không đứng dậy bắt lấy nó, và anh ta lo lắng rụt tay về.
Cô ta ra hiệu về phía chiếc ghế da trước bàn mình. “Mời ngồi.”
Anh ta tuân lệnh.
Cô ta nhìn người đàn ông này một lúc rồi đứng lên khỏi ghế. “Phải nói là tôi lấy làm tò mò về lý do anh đến xin việc nơi này đấy. Anh nổi tiếng lắm.”
Anh ta nuốt khan. “Tôi không hiểu sao mình lại được cô lưu tâm đến vậy, chưa có Mignon. Tôi…”
“Đừng vớ vẩn với tôi, Paul, Từ thời Gunter Orman đến nay, đã có ai mạnh miệng bài xích bản sao như anh đâu.”
Anh ta nuốt khan. “Tôi không…”
“Anh tưởng tôi không điều tra lý lịch của tất cả những người làm việc tại đây à?”
Paul tròn mắt nhìn cô ta. “Toàn bộ nhân công trong trường sao?”
“Tất cả những người được phỏng vấn ở cấp như anh. Tôi suýt nữa đã sa thải tay trợ lý gửi hồ sơ của anh lên cho tôi. Anh ngủ với hắn để được lãnh cái vinh hạnh này hả? Tôi không thể hình dung nổi tại sao một người như anh lại muốn làm việc ở đây.”
“Tôi cần việc,” anh ta nói, đồng thời đưa hồ sơ của mình cho cô ta.
Cô ta quẳng nó đi. “Anh tưởng tôi chưa đọc nó à? Đây. Cùng chơi một trò thú vị nào. Dậy đi.”
Paul ngơ ngác đứng dậy. Cô ta bước vòng sang bên kia bàn đứng đối mặt với anh ta, và anh ta thấy choáng cả đầu vì sợ rằng cô ta sẽ đánh mình. Cô ta chỉ vào ghế của bản thân. “Ngồi xuống.”
Anh ta đưa chân, hơi vấp vào chiếc bàn gỗ anh đào. Anh ta ngồi xuống bàn Sallie, chẳng biết nên đặt tay đi đâu.
Cô ta ngồi xuống ghế ứng viên. “Nào, cô Mignon, tôi là một kẻ rất hay to mồm thể hiện quan điểm thù ghét bản sao của mình. Tại sao cô lại nên thuê tôi?”
Anh ta há hốc miệng và mặt nóng bừng lên. Anh ta nén lời phản đối lại và cố gắng hùa theo. “À, thì, công việc chỉ là điều hành phòng máy tính, và quan điểm chính trị về sao chép vô tính không có chút gì liên quan cả. Anh xem chừng rất đủ năng lực để tiếp quản vị trí đó.”
“Nhưng nhiều bản sao đến đây học lắm,” cô ta nói. “Kiểu gì tôi cũng sẽ phải tương tác với những thứ tạo vật quái thai phi tự nhiên ấy thôi.” Giọng cô ta hết sức bình tĩnh, nhưng anh ta vẫn có thể nghe ra được sự thù hằn ẩn đằng sau.
Paul nuốt khan, vắt óc nghĩ cớ để cô ta thuê mình. Cuối cùng anh ta chọn cách khai thật. “Kinh tế đang khó khăn, ờm, anh Seurat ạ,” anh ta nói. “Lúc đói lương, bất chợt những quan điểm về bản sao anh được nhà thờ của mình răn dạy có vẻ không còn quan trọng bằng có chỗ chui ra chui vào.”
“Vậy là tôi chỉ muốn được bản sao tạo công ăn việc làm khi phải đối mặt với kiếp vô gia cư hả? Ái chà, tôi nông cạn thật đấy.” Anh ta mở miệng định cãi, nhưng cô ta nói tiếp. “Nhưng thực tình mà nói, đã hai mươi bảy tháng nay tôi chưa đi nhà thờ rồi. Đến cả Giáng Sinh cũng không. Tôi mộ đạo như một con thỏ Phục Sinh sôcôla vậy đó.”
Anh ta lại đỏ mặt.
“Xin cô hãy hiểu cho, cô Mignon, nhà tôi có truyền thống làm lính cứu hỏa và cảnh sát rất lâu đời. Toàn những người vạm vỡ, oai phong, trong danh dự. Nhưng nhiều người trong số họ đã thiệt mạng trong các cuộc bạo loạn vô tính bảy mươi năm trước.” Cô ta dừng lại, nhìn ra ngoài cửa sổ. “Thời ấy rất kinh khủng. Cả trên Luna, cả tại Thành phố Mexico, cả tại Chicago, tại khắp mọi nơi. Quá nhiều máu me, quá nhiều cái chết. Hàng trăm con người. Hàng trăm bản sao. Và hàng trăm nhân sự cứu hộ. Họ chẳng được lợi lộc gì từ đó cả, họ chỉ muốn gìn giữ hòa bình và bảo vệ người lương thiện. Và họ đã trả giá bằng mạng sống. Và bởi vì nhiều người chỉ là người thường, họ không thể hồi sinh. Riêng mọi bản sao đều sống nhăn, như thể các cuộc bạo loạn chẳng có nghĩa lý gì hết.”
“Rồi cô xây cái đài tưởng niệm giả nhân giả nghĩa của mình trên nấm mồ của họ!” Paul không đóng kịch nữa. “Gia đình tôi đã đổ máu một cách hoàn toàn vô ích trên phố.”
“Cô có ở đó không, cô Mignon?” cô ta lạnh lùng hỏi. “Cô có chứng kiến cái ngày hôm ấy làm thay đổi tất cả mọi người như thế nào không? Cô có trải qua cảnh chết trong một vụ hỏa hoạn, tóc bén lửa và da bốc cháy rồi tróc thành từng mảng như gia đình tôi không?”
Paul không đáp. Mặt anh ta nóng ran, còn cổ thì cứ lớp nhớp.
“Tôi không nhớ,” cuối cùng anh ta nói, chẳng biết phải đối phó với kiểu thẩm vấn này như thế nào.
“Kể từ đó, gia đình tôi luôn chĩa mũi dùi về phía các bản sao. Truyền được lòng căm thù qua bao thế hệ cho đến tận đời tôi như họ kế cũng đáng ngưỡng mộ. Chúng tôi không đi lễ nhà thờ, nhưng tháng Mười Một nào chúng tôi cũng ghé thăm Đài tưởng niệm Khiển Xanh.” Cô ta dừng lại. “Nhưng chúng tôi không vào thăm bên trong.”
* * *
Chơi xong, Sallie đuổi anh ta đi. Bên ngoài tòa nhà gạch của ban quản trị Đại học Obama, anh ta nhìn vào máy tính bảng của mình, nhìn công việc cuối cùng còn sót lại. Nó nằm dưới cùng danh sách bởi lẽ xin được việc này còn khó hơn lên trời, đồng thời cũng là việc anh ta chắc chắn không hề muốn chút nào.
Nhưng Paul cùng đường rồi. Đến làm bồi bàn anh ta còn không xin nổi một chân, và cày đồ cho trò chơi trên mạng đã không còn lời lãi gì nữa. Anh ta đã bán sạch mọi món đồ có giá trị ngoại trừ máy tính cá nhân.
Nhưng thánh thần ơi, cái công việc này. Rời Trái Đất vĩnh viễn. Sát cánh làm việc bên các bản sao. Bản thân mình thì cuối đời sẽ bị sao chép. Vô gia cư có khi còn tử tế hơn.
Anh ta hít một hơi thật sâu và gọi điện.
* * *
Hai đêm sau, Paul ngồi trong căn hộ của mình, ba ngày nữa là sẽ bị đuổi đi. Anh ta không muốn dọn lên bán đảo thượng. Michigan chẳng còn gì dành cho anh ta nữa. Anh ta không còn có người thân ở Pháp. Anh ta lờ đờ nhìn máy tính, giở từ một bài báo về nhà tạm trú cho người vô gia cư trong khu vực sang bài diễn văn bài xích sao chép vô tính mới nhất.
Phần mềm liên lạc của Paul đổ chuông. Anh ta mở nó ra và thấy đầu của một người đàn ông vạm vỡ với nước da sẫm màu. Okpere Martins, người đã phỏng vấn anh ta hôm nay. “Anh Seurat,” ông ta nói, “thật hân hạnh khi được gặp lại anh. Anh có một tối vui vẻ chứ?”
“Ừ,” Paul nói, cay đắng nghĩ về món canh in dở ẹc mới ăn dưới sảnh tòa chung cư của mình.
Trông Okpere như muốn đợi một lời đáp xã giao tử tế, nhưng vì đang quá trầm uất nên Paul chẳng buồn làm vậy. Cuối cùng ông ta hắng giọng. “Tôi muốn bàn chuyện công việc với anh.”
“Không phù hợp hả? Đã đủ nhân sự hả? Lần này là gì nào?” Anh ta không thèm giữ lễ nữa. Đằng nào thì anh ta cũng khá chắc Okpere là một bản sao.
“Không phải đầu. Anh gần như là ứng viên hoàn hảo cho công việc này. Nhưng chúng tôi lo rằng sau khi mình tiết lộ đầy đủ cho anh thông tin về một số khoản, anh sẽ không muốn nhận nữa.”
Hoàn hảo hả? Anh ta là ứng viên hoàn hảo cho công việc này ư? Sao lại có chuyện ấy được? Anh ta phấn chấn lên, dè dặt hy vọng. “Là gì vậy?”
“Thứ nhất, nhân sự quản lý tàu sẽ là các bản sao. Chính thế mà con tàu đa thế hệ này có thể vận hành với chỉ một phi hành đoàn nhỏ. Chúng tôi không chắc sao chép anh lần đầu giữa lúc anh đang thực hiện một chuyến du hành xuyên không gian sẽ là điều khôn ngoan.
“Tôi sẽ không đồng thuận,” anh ta gật đầu nói. Không sao siếc gì hết. Anh ta thà chết hẳn còn hơn.
“À, vâng, cho tôi xin lỗi vì đã làm lãng phí thời gian của anh,” Okpere nói, bộ dạng trông thất vọng. “Chúc anh một đêm tốt lành.”
Paul thở dài thườn thượt. Óc tò mò của anh ta trỗi dậy. “Đợi đã, thôi được rồi, điều thứ hai là gì? Tốt nhất cứ nên biết mọi thứ trước khi ra quyết định.”
“Chuyện này có thể còn nghiêm trọng hơn đấy.” Okpere cảnh báo. “Các bản sao quản tàu là tội phạm.”
“Thật lố bịch,” Paul thốt lên, chậm rãi thở phì khí trong phổi ra.
“Không hẳn,” Okpere nói và giơ một ngón tay lên. “Nhờ đó mà chúng tôi có nhân lực rẻ mạt, và chúng sẽ làm việc để thanh tẩy lý lịch. Chúng tôi dự kiến sẽ chẳng có rắc rối gì nảy sinh hết; phi hành đoàn sẽ có nhiều lý do để an phận thủ thường.”
“Nhưng ai sẽ quản chúng?” anh ta hỏi. “Một đám tội phạm mà lại được cho lái tàu không gian ư?”
“Nếu gặp chuyện, một con AI sẽ nắm toàn quyền kiểm soát tàu. Việc của anh sẽ liên quan đến nó. Ý là, nếu anh nhận việc thì sẽ cần đến anh ở chỗ này. Phương án dự phòng cho con AI.”
Được vọc máy tính của một con tàu như thế, cùng với một con AI cao cấp. Paul thoáng mụ cả đầu đi trước cơ hội ấy, thậm chí còn quên sạch các nhược điểm.
Nhưng chướng ngại nhiều quá. “Tôi chẳng phải là tội phạm hay bản sao gì hết. Tại sao ông lại phí thời gian gọi cho tôi?”
“Trợ lý của tôi đã đề xuất với tôi một giải pháp mà chúng tôi tin sẽ rất hiệu quả.”
“Ngày mai sẽ chẳng ai giết tôi xong vác đi sao chép đâu, đúng không?”
Ông ta bật cười một tiếng “Ha!” đanh gọn, khiến Paul giật nảy người. “Không hề. Chúng tôi sẽ làm giả lý lịch cho anh. Các bản sao cũ, các tội ác xưa. Đằng nào thì sẽ chẳng ai trên tàu đả động gì đến quá khứ của mình đâu, thế nên anh không phải dối trá quanh co. Anh sẽ là một bản sao tội phạm trên giấy tờ, chỉ vậy thôi.”
Miệng anh ta há ra rồi lại ngậm vào. “Tôi… chẳng lẽ ông thực sự không kiếm nổi bản sao nào phù hợp với công việc này ngang tôi à? Đến cả một tay chỉ từng thó đồ siêu thị cũng không?”
Okpere rướn sát vào máy như thể họ đang thực sự ngồi sát nhau. “Một số người tham gia chế tạo con tàu này không thích để các bản sao quản nó hoàn toàn. Họ muốn trong phi hành đoàn có một người thường. Vì là các bản sao với tuổi đời rất già, chưa kể còn là tội phạm nữa, phi hành đoàn sẽ rất cứng đầu và bảo thủ. Họ muốn có thêm một biện pháp phòng ngừa: một con người bình thường, không hùa theo các bản sao. Nếu chúng quyết định nổi loạn, đánh cắp tàu, giết lô hàng ngủ đông, bắt những người thường trên tàu làm nô lệ, anh sẽ phải ngăn chúng lại.”
Ông ta ngả người ra sau và lại nói năng đường hoàng, bỏ tông giọng mưu mô. “Nhưng như anh đã nói đấy, xem chừng anh không muốn nhận. Cho tôi xin lỗi vì đã làm lãng phí thời gian của anh. Tạm biệt anh nhé, anh Seurat.”
Và ông ta cúp máy.
“Khoan… đợi đã!” Paul la lớn, vừa đúng lúc thấy cửa sổ chương trình biến mất khỏi máy. Anh ta đâm xuống bàn. “Mẹ kiếp,” anh ta lẩm bẩm.
Anh ta thức trắng đêm, vừa nốc cà phê vừa đi đi lại lại. Có quá nhiều yếu tố, anh ta phải điểm lại tất cả. Okpere hành xử như thể chỉ cần Paul muốn là sẽ được nhận vào ngay. Nhưng anh ta đã tỏ vẻ ngần ngừ.
Bố thằng ngu. Sống có nguyên tắc chỉ dễ khi còn nơi ăn chốn ở thôi.
Lúc phỏng vấn, Okpere đã bảo rằng anh ta sẽ lập tức được trả tiền thù lao để đi tập huấn, cho dù phải vài thập kỷ nữa mới khởi hành. Anh ta được hứa sẽ có đất cấp riêng lúc hành trình kết thúc, kèm theo một suất ngủ đông trên tàu miễn phí cho bạn bè hay người thân. Paul không có ai như vậy cả, nhưng anh ta tính mình vẫn có thể bán nó kiếm lời.
Anh ta sẽ có tiền. Một công việc tuyệt vời, và lại còn được làm việc với một con AI. Một cuộc phiêu lưu thú vị trên một hành tinh mới. Anh ta sẽ không bị trục xuất.
Cuối cùng Paul nằm lăn ra giường - tức một tấm đệm trên sàn - và trằn trọc ngủ, mơ thấy cảnh mình bị chết giữa chân không trong khi từ bên cửa sổ một con tàu vũ trụ, hàng trăm người giống hệt nhau dõi mắt nhìn anh ta. Anh ta tỉnh dậy với tâm trạng gắt gỏng.
Sao mà anh ta lại nghĩ mình có thể làm việc chung đụng với lũ bản sao suốt bốn trăm năm được nhỉ? Mà phải tận hai mươi lăm năm sau mới bắt đầu làm nữa chứ? Thật điên rồ.
Có còn gì để mất nữa đâu. Anh ta bật một cửa sổ liên lạc lên và thầm khẩn trời là Okpere sẽ nghe máy.
Mặt Okpere xuất hiện, trông có vẻ ngạc nhiên nhưng vẫn hài lòng. “Xin chào, anh Seurat! Tôi có thể giúp gì anh?”
“Chào anh,” Paul vừa nói vừa nhấp ly cà phê hòa tan nóng rẫy, làm bỏng cả miệng. “Ông nói tôi là ứng viên hoàn hảo cho công việc kia, nhưng sau đó rút lại lời mời. Nếu tôi thấy hứng thú thì sao?”
Okpere tỏ vẻ rầu rĩ, như thể phải báo tin có ai mới mất. “Tôi xin lỗi. Giờ thì điều ấy là vô nghĩa rồi. Tôi sẽ phải rút lại lời đề nghị, bất kể anh có thấy hứng thú hay không. Chúng tôi đã nghiên cứu thêm về anh và, ờm, chúng tôi phát hiện ra rằng gia đình anh có dính dáng nhiều đến các cuộc bạo loạn vô tính ở Chicago bảy mươi năm trước. Có đúng vậy không?”
“Đúng rồi,” Paul nói, miệng khô đi. “Chủ yếu trong vai trò cảnh sát và lính cứu hỏa.”
“Chúng tôi phát hiện ra một sự trùng hợp đáng kinh ngạc, đó là một trong những thủ lĩnh bản sao sừng sỏ có liên đới đến các cuộc bạo loạn thời ấy cũng sẽ tham gia phi hành đoàn tàu Dormire. Chúng tôi không thể nào yêu cầu anh làm việc cùng với người đã gây ra bao nỗi thống khổ cho gia đình anh như vậy được.”
Paul há hốc miệng. Dù gia đình anh ta hết sức căm thù những kẻ gây bạo loạn ngày hôm đấy, họ chẳng hề biết tên bản sao liên đới nào cả. Đây là một món quà trời ban, gói trong lớp mã công việc mơ ước của anh ta.
“Ông Martins à, cũng đã bảy mươi năm rồi. Đã đến lúc xóa bỏ hận thù để tiến bước tới trước,” anh ta nghe thấy bản thân mình nói. “Tôi muốn nhận việc.”
Nói chuyện xong với nhân vật đa nghi nhưng đầy nhiệt huyết kia, Okpere Martins gọi cho sếp mình, gài micrô đeo tai lên đầu. Ông ta ra ngoài, bước vào trong nắng để đến quầy cà phê ưa thích của mình. Nhìn Seurat uống thứ cà phê rẻ tiền, kinh tởm thấy rõ khiến ông ta thèm uống đồ thật.
“Xin chào,” ông ta nói lúc sếp mình nghe máy. “Thật kỳ tài, thưa cô. Ngay khi tôi bảo Seurat rằng kẻ thù cũ của gia đình hắn có trên tàu, hắn trở nên thèm khát vị trí ấy. Hắn đã nhận làm.”
“Tốt lắm,” Sallie Mignon nói.