Chương III
Từ khi Lê Phụng-Hiểu chém chết Võ Đức vương tại trận tiền, khiến cho bọn các ông hoàng Dực Thánh vương và Đông Chính vương phải chắp tay hàng phục, sự nội loạn chốn kinh sư dẹp tan, Thái-tử Phật Mã liền lên ngôi Hoàng Đế, tức là Lý Thái-Tông vậy.
Thái-Tông là một ông vua thông minh đĩnh ngộ, phàm lục thao, tam lược đều thuộc, lại đã từng quen việc chiến trận nên khắp trong nước dân gian càng ngày càng được hưởng sự thái bình.
Ngài riêng giận nước Chiêm Thành về chỗ nhất định không chịu thông sứ lại hay quấy nhiễu mặt bể nên, sau mười lăm năm ngồi trên ngai vàng chỉ huy việc nội trị, Thái-Tông Hoàng-đế liền hạ chỉ thân-chinh sang đánh Chiêm vương là Sạ Đẩu.
Hai quân gặp nhau ở phía Nam sông Ngũ Hồ. Quân Việt-Nam xông vào giáp chiến hăng quá, địch quân phải tan vỡ, để lại chiến địa hơn năm ngàn tù binh và ba chục thớt voi.
Thấy đại cục nguy, tướng chiêm là Quách Gia Gi liền chém quốc vương là Sạ Đẩu rồi đem quân bản bộ tới ngự doanh Lý Thái-Tông, xin đầu hàng.
Nam-binh nhờ vậy kéo thẳng một mạch đến Phật-thệ, kinh-đô của Chiêm Thành.
Tướng sĩ nhà Lý, giận vì bình nhật người Chàm hay sang cướp bóc, đốt phá các vùng biên cương nên đua nhau làm cỏ dân Phật-thệ. Lý Thái-Tông phải hạ nghiêm lệnh để ngăn ngừa sự chém giết thái quá. Ngài xếp đặt các việc đâu vào đấy xong, tức khắc ban sư hồi trào. Trong lúc rút lui, vua có đem theo về một đoàn cung nhân, năm nghìn tù binh, và Chiêm-Thành vương-phi Mị-Ê, một nhan sắc có thể sánh với Tây-Thi của Trung-quốc.
Đạo Ngự về đến sông Lý Nhân, Thái-Tông Hoàng-đế, lúc ấy vừa tan tiệc rượu đắc thắng với trăm quan văn vũ, truyền nội thị đòi Chiêm Vương-phi sang hầu.
Mị-Ê kháng chiếu, nhất định giữ tròn nghĩa trọng với Chiêm vương Sạ Đẩu. Nàng lừa lúc bọn quân hầu vô ý liều cuộn tròn một tấm chiên lên mình rồi lăn nhào xuống nước. Vì trời tối, sự cứu vớt và tìm kiếm không thể nào thi-hành cho có hiệu quả được. Tấm thân tiết-nghĩa của Hoàng-hậu Chiêm-Thành thế là bị dập vùi theo sóng nước lạnh lùng.
Và, cái chết của giai-nhân, từ đấy ăn sâu vào trí não vị thanh-niên Hoàng Đế. Mỗi lần, như buổi chiều nay, chợt nghĩ đến người đẹp xứ Chàm, Thái-Tông Hoàng-đế lại một lần thấy cả tâm hồn mình nao nao lên bởi muôn nghìn tình cảm mãnh liệt. Ngài cảm cái lòng trinh-bạch chuyên nhất của Mị-Ê bao nhiêu thì lại hối hận về sự khinh-bạc mà ngài đã lầm đem ra đối đãi với nàng bấy nhiêu. Và càng cảm động, càng hối hận, Thái-Tông Hoàng-đế càng mến tiếc một áng thanh-sắc tột vời.
Những lúc ngổn ngang trăm mối ấy, Thái-Tông Hoàng Đế thường ngồi lặng hàng trống canh, chểnh mảng cả quốc-gia trọng sự, nhất là hờ-hững với sự săn đón của các phi-tần đương ganh nhau mua chuộc sự sủng-ái của Quân-vương.
Ngài mơ màng trông đóa phù dung đương rực rỡ dưới một tia nắng ; lòng buồn man mác như còn nghe tiếng sông nước Lý Nhân cuốn thi thể Mị-Ê đi tới cõi xa-xôi mờ-mịt.
Bỗng, Hoàng-môn quan từ ngoài bước vào.
Thái-Tông Hoàng-đế hơi cau mày và phán hỏi:
– Có việc chi ?
– Tâu Thánh-thượng, có sớ tấu của trấn thủ Cao-Bằng dâng trình ngự lãm về một việc khẩn cấp.
Vua truyền nội-giám tiếp nhận biểu văn. Ngài mở ra xem, sắc mặt dần khác. Sau cùng, Ngài ngoảnh lại truyền :
– Nội giám, mau triệu các hổ tướng Lý Thường-Kiệt, Lê Phụng-Hiểu và Lý Nhân-Nghĩa vào đây bàn việc.
Không bao lâu, ba vị tướng quân đã phải phủ phục trước đơn trì. Thái-Tông Hoàng-đế truyền miễn lễ đoạn nói rằng:
– Cách ba năm về trước tù trưởng Đảng Ro vùng Cao-bằng là Nùng Tồn-Phúc và con hắn là Nùng Trí-Thông dám ngang nhiên làm loạn, xâm phạm kinh-đô, rốt cuộc cả hai đứa loạn thần tặc tử đều phải chém đầu bêu chợ, các khanh hẳn còn nhớ chứ ?
Lý Thường-Kiệt tâu :
– Tâu Thánh-thượng, việc loạn năm Mậu-dần ấy, chẳng những chúng tôi mà ngay một kẻ ngu phu ngu phụ đất Kinh-đô này cũng vẫn còn nhớ rõ.
– Chư khanh lại cũng biết rằng vợ Tồn-Phúc là A Nùng và con út hắn là Nùng Trí-Cao chạy thoát được và từ đấy vẫn ẩn náu ở Thất-Tuyền; có điều chuột chạy cùng sào ta không nỡ bắt giết đi đó thôi.
– Chúng hạ thần có biết việc ấy.
Thái-Tông vỗ tay xuống long án :
– Ta nghĩ thương tình không nỡ nhổ cỏ nhổ cả rễ, không ngờ nó lại vẫn chứng nào tật ấy!…
Lê Phụng-Hiểu nói :
– Tâu Thánh-thượng, có lẽ Trí-Cao làm loạn chăng ?
– Phải. Đây, sớ của trấn thủ Cao-bằng cấp báo đây : Trí-Cao cùng mẹ hắn trở về Đảng Ro đã ba tháng nay. Chúng nó lại chiêu nạp bọn đồ đệ cũ của Tồn-Phúc, lại chiêu binh mãi mã, lại xưng bá xưng vương, toan làm phản triều đình lần nữa. Vậy chư khanh tính sao ?
Lý Thường-Kiệt nói :
– Bọn thảo khấu ấy không tuân Vương hóa, quen thói rông càn, không trị thẳng tay không được. Thần xin cùng nhị vị đại-tướng này cầm binh lên dẹp, quyết không để sống một tên giặc nào, ngõ hầu Thánh-thượng khỏi bận lòng nghĩ ngợi.
Lý Nhân-Nghĩa cũng họa theo:
– Lời quan Thượng-tướng tâu rất phải, xin Bệ-hạ chuẩn y cho.
Thái-Tông nhìn Phụng-Hiểu. Lão tướng chắp tay nói :
– Đánh kẻ có tội, thưởng kẻ có công, đã đành là phép của Triều-đình. Nhưng, lấy sức đàn áp người ta sao bằng lấy đức cảm-hóa người ta. Lệnh Bệ-hạ khi trước đã không nỡ tiệt diệt giòng dõi họ Nùng, vậy mà nay Trí-Cao không nhớ ơn, nghĩ thực đáng giận. Có điều chúng là kẻ mọi-rợ ngu dốt nên trong cái lý đáng giận còn có cái tình đáng thương. Thần xin một mình đem quân lên, trước hết hãy dùng lời nhân-nghĩa giảng cho nó nghe. Nếu nó biết lẽ phải, cuốn giáo lại hàng, Bệ-hạ sẽ dung tha cho nó. Khổng Minh khi xưa thất cầm thất phóng Mạnh Hoạch mà yên được cả một xứ đấy. Nhược bằng nó cứ chấp nê không nghe lời dạy bảo, thần xin dùng một mẹo nhỏ bắt nó đem về đây, tùy lượng Bệ-hạ nghĩ sử. Còn như điều động một lúc đến ba viên đại-tướng để tiễu trừ một đảng thảo khấu, thần e tai mắt thiên-hạ có thể thấy được chỗ đáng dị nghị chăng?
Thái-Tông Hoàng-đế nghe lời Phụng-Hiểu lấy làm bằng lòng lắm. Ngài vuốt râu mỉm cười mà rằng:
– Lê hiền-khanh bàn rất hạp ý trẫm. Đã lâu nay, chư khanh hẳn cũng thấy rõ rằng trẫm có ý muốn cự nhau với Tống-triều một phen để thu-hồi đất Lưỡng Quảng tức là đất cũ của ta. Cái ý định ấy không phải là một điều mơ tưởng hão, một khi mà binh-lực của ta hùng hậu như bây giờ và một khi trẫm có được các vũ-tướng như chư khanh giúp đỡ. Về phía Nam cương vực nước Đại-Việt ta càng ngày càng mở rộng. Nay ta nhân lúc thừa nhuệ khí, tiến lên cả miền Bắc nữa. Nhưng muốn được thế, ta, trước hết, phải cần gì?
Phụng-Hiểu đáp :
– Phải cần hiểu nội tình, quân lực, và cách dụng binh của nhà Tống.
– Chính phải !
– Mà muốn hiểu rõ nội tình, binh lực cùng chiến-thuật của Tống-trào, ta không thể tìm ai hơn Nùng Trí-Cao được nữa.
Thái-Tông Hoàng-đế vui mừng hớn hở. Ngài gật đầu hai ba bận :
– Phụng-Hiểu thực đã nom thấy hết ruột gan của ta ! Nùng Trí-Cao vốn sinh-trưởng ở biên-thùy, tất nhiên việc bên ta và bên Tàu, y đều thông hiểu hết. Y lại khởi binh chống cự với ta, như thế tất y đã biết hết lực-lượng của Tống-trào và có phương-sách để phòng giữ rồi. Nay chỉ còn làm thế nào dụ được y về hàng là xong xuôi mọi việc.
Phụng-Hiểu tiếp :
– Và, nếu y không chịu đầu hàng, ta cũng phải bắt y cho kỳ được rồi sau sẽ tìm cách thu phục lòng y.
– Chính thế ! chính thế !… Vậy, ngay ngày mai, hiền-khanh nên vì trẫm chịu khó nhọc một phen.
Phụng-Hiểu quì lạy:
– Hạ-thần nguyện xin đem sức khuyển mã báo đáp ơn tri ngộ của Bệ-hạ.
Thái-Tông Hoàng-đế lập tức thân tự thảo sắc: Đãng-khấu đại tướng quân, giao cho Phụng-Hiểu. Vua lại ban cho Lê một lá cờ lệnh và một thanh thượng-phương bảo-kiếm, cho phép từ hàng phó-tướng trở xuống, nếu ai trái lệnh cứ việc chém đầu.
– Việc này quan-trọng, đáng lẽ trẫm chờ buổi chầu ngày mai, trước mặt trăm quan văn võ sẽ công khai trao kiếm ấn cho khanh mới phải. Nhưng, việc binh cốt ở thần-tốc và bí-mật, ta phải làm sao như sét đánh ngang trời, kẻ kia bưng đầu không kịp mới mong toàn thắng được.
Thái-Tông Hoàng-đế nói xong, truyền nội-thị bầy tiệc rượu để vua cùng ba vũ tướng yến-ẩm
Cuộc đàm luận về binh pháp kéo dài mãi đến hết trống canh một, ba vị đại-tướng mới cáo biệt vua ra khỏi cấm-thành.
Trong khi ấy, binh-bộ đã sửa soạn điểm sẵn một đội hùng-binh để chờ lệnh điều khiển của Đãng-khấu đại tướng quân Lê Phụng-Hiểu.