Chương VII
Vì có việc làm phản của ba vị Hoàng-tử Dực-Khánh vương, Vũ-Đức vương và Đông-Chính vương, khi Lý-Thái-Tông mới lên ngôi nên Triều-đình, hằng năm, đặt lễ tuyên-thệ rất long trọng ở đền Đồng-cổ.
Ấy là một ngôi đền cổ thuộc làng Yên-Thái kiến-trúc theo một lối như mọi đền, chùa khác. Nhưng vì có cuộc lễ phát thệ hằng năm của bách quan mà nó tự nhiên thành ra một thắng tích.
Hôm ấy tuy không phải ngày thề đúng lệ, mà người ta cũng thấy có lính tráng đến sửa soạn, quét tước, cắm cờ, treo đèn tấp nập.
Chỉ nháy mắt, cảnh thâm u vắng lạnh chợt đổi ra một cảnh tưng bừng. Nào nghi môn, màn quần, nào tàn, quạt, nào trống chiêng, lộ bộ, mầu gấm vóc, mầu son vàng rực rỡ trong đám khói trầm nghi-ngút.
Công chúng tò mò đến xem đông nghịt. Lính hộ thành phải quát tháo, chật-vật mãi mới giữ được thứ tự. Cả các nhà quan sang, các phu-nhân, các vị tiểu-thư cũng đến xem, như người ta xem một đám hội.
Ấy là một cuộc thề đặc-biệt : Nùng Trí-Cao tuyên bố một cách trịnh trọng tấm lòng quy thuận Lý-triều Hoàng-đế.
Từ hôm về kinh sư, Phiên-vương Nùng Trí-Cao đã trở nên một nhân vật, được chú trọng phi thường.
Nùng được tất cả coi gần như là một người hoang đường của những cổ tích thời xưa, một sinh vật kỳ dị có một sức hấp dẫn mạnh đến không ai cưỡng được.
Bởi thế, người ta chỉ mong có dịp nhìn ngắm người anh hùng trẻ tuổi của Rừng Xanh ấy.
Sự thóc mách của mọi người thực chưa được thỏa mãn hôm Nùng mới bị giải về kinh-thành. Là bởi giữa lúc quân đội trảy qua, không ai dám ngang nhiên ra đứng nhìn gần. Vả, hôm ấy, chàng bị nhốt trong tù-xa nên người nào có trông thấy cũng chỉ thấy rõ có một gương mặt.
Hôm nay, trong cuộc thề long trọng của Nùng ở đền Đồng-cổ, người ta hi-vọng sẽ được thấy rõ mặt chàng hơn.
Lẫn với đám người thóc mách nàỵ, nếu ta nhìn kỹ, ta sẽ thấy Vân-Anh tiểu-thư cùng với con a-hoàn cũng ra ngóng đợi.
Nàng ghé tai con a-hoàn nói nhỏ:
– Sao lâu thế ?
– Thưa tiểu-thư, cũng gần rồi, vì đã cuối giờ Mão sắp bước sang giờ Thìn rồi còn gì.
Lan-Nhi vừa nói dứt lời, đằng xa quả thấy tiếng người ồn ào, báo tin các quân chấp-sự và Nùng Phiên-vương đã tới.
Ai nấy cùng lắng nghe tiếng trống khẩu dàn đường, đổ long tong từng giọt mỗi lúc một rõ.
Trăm nghìn cặp mắt đều đổ ra phía cổng đền.
Cờ ngũ hành, cờ long phụng hiện ra trước nhất. Rồi đến trống chiêng, đôi ngự nhạc và sau cùng, năm chiếc võng điều nghênh ngang tiến vào sân đền, che bởi hai mươi chiếc lọng vàng.
Vì có công lớn bình-định giặc Nùng, Lê Phụng-Hiểu tướng quân được cái danh dự là thay mặt Đức Hoàng-đế đứng chủ lễ cuộc phát thệ hôm ấy.
Lão tướng-quân mặc phẩm phục Khâm-mạng đại-thần, từ chiếc võng đào thứ nhất bước xuống trước.
Võng thứ hai là bậc anh-hùng đại danh Lý Thường-Kiệt. Rồi đến Lý Nhân-Nghĩa tướng-quân; rồi Tạ Đô-thống….
Sau cùng, Phiên-vương Nùng Trí-Cao !
Trăm miệng cùng « ồ » một tiếng…
Một tiếng kêu tỏ ra rằng hết thảy cùng như bị thôi-miên bởi một hiện tượng.
Thực vậy, giữa đám đông võng đào, ngựa bạch, tán tía, tán vàng ấy, Nùng Trí-Cao quả đã là một xuất hiện phi thường, một vầng trăng đột hiện giữa vòm trời muôn sao sáng.
Chàng đội một chiếc kim-khôi cắm mười ngù đỏ chói. Hai tua kim-tòng buông xuống hai bên má, lung-linh theo nhịp cử động, mà làm cho gương mặt của chàng càng rực-rỡ.
Gương mặt hồng hào hơi men rượu và bởi muôn nghìn xúc-cảm mãnh-liệt. Cặp mắt chàng sáng quắc ; trên môi chàng phảng phất một nụ cười kiêu ngạo..
Trong bộ giáp chẽn kết bằng dây đồng tụ, người ta đoán rõ một thân-thể cao lớn, nở nang và cân đối. Hai chân chàng đi ủng giáp bằng kim tuyến, cũng như cái áo khoác ngoài của chàng, riềm thêu chữ thọ. Những tiếng xì-xào nổi lên :
« – Thực là một trang hảo nam tử !…» « –Thực là một vị thần !…»
Và, Vân-Anh tiểu-thư, nàng ngạc nhiên thấy những lời ngợi khen ấy mơn nựng lòng nàng một cách vô cùng êm-ái.
Nùng Trí-Cao cùng các đại-tướng lên đền.
Thủ từ thắp hương, châm nến.
Ai nấy cũng im bặt.
Vụt cái, chuông, trống nổi lên ầm ầm.
Đãng-khấu Đại tướng-quân Lê Phụng-Hiểu bước vào trước hương án, đứng chắp tay giữa ba tầng chiếu cạp.
Tạ Đô-thống, trong khi ấy, châm ba nén hương, đoạn, kính cẩn trao tay cho Lê Phụng-Hiểu.
Lão tướng chắp tay giơ ba nén hương ngang trán và lầm rầm khấn nguyện. Dứt câu, ngài quỳ xuống làm lễ ngũ bái.
Ngự nhạc cử khúc Tụng thần minh.
Lễ xong, Lê Phụng-Hiểu lui ra đứng bên tả chiếu.
Chuông, trống lại ầm ầm nổi lên.
Đến lượt Phiên-vương tuyên thệ !
Ai nấy nín thở ; bao nhiêu tia mắt đổ dồn cả vào trước hương án, chỗ cái vòng tròn vẽ bằng vôi bột, trong đó nằm gọn một con gà trống bị trói chặt hai cẳng.
Nùng Trí-Cao ngửa mặt nhìn thăm thẳm vào nội cung ; hai tay chàng chắp lại; miệng chàng khẽ lâm râm khấn. Dứt lời, cặp mắt chàng bỗng sáng quắc lên và nhìn thẳng vào con gà bị trói.Tay phải chàng cầm lấy thanh thệ kiếm giơ cao, trong khi miệng chàng nhắc lại lời thề, không sai một chữ :
« Làm con phải hiếu, làm tôi phải trung, tôi, Nùng Trí-Cao, nguyện dốc một lòng thờ Lý-triều Hoàng-đế, nếu sai lời thề, xin chịu chết như con vật này ! »
Một ánh gươm lòe sáng.
Một vùng máu đỏ loang ra trên nền gạch.
Phiên-vương quẳng gươm, chắp tay hành ngũ bái.
Nhã nhạc lại nổi.
Chàng lễ xong, lui sang đứng ở bên hữu chiếu, đối diện với Lê Phụng-Hiểu.
Lúc này đến lượt các đại-tướng Lý Thường- Kiệt, Lý Nhân-Nghĩa, Tạ Đô-thống vào làm lễ.
Cuộc thề xong.
Cờ lại mở, trống lại gióng, võng giá lại đưa các quan vào triều phục-mệnh Thiên-tử.
Đám đông tản mác, ai về nhà nấy với những câu phê-bình, những lời bàn cãi ỏm tỏi.
Vân-Anh và Lan-Nhi theo một con đường vắng trở về dinh Đô-thống.
Con a-hoàn bẻo lẻo:
– Gớm, sao có người đẹp trai đến như thế chả biết ! Hôm nay thì cứ gọi là các cô con gái tha hồ mà nhiều cô say hơn điếu đổ.
Câu nói vô tình của con a-hoàn làm Vân-Anh nóng bừng cả mặt mũi.
Nàng tự hỏi hay Lan-Nhi đã trông rõ cả tâm-sự của nàng ?
Nó trông rõ hay không không biết, nhưng chính nhờ được câu nói của nó mà nàng trông rõ lòng nàng hơn bao giờ hết.
Vân-Anh quả đã yêu chàng tuổi trẻ.
Mối tình ấy, không sao còn có thể nhầm được nữa.
Nhất là hôm nay !
Lúc chàng bước xuống võng đào, Vân-Anh đã có một ý nghĩ rõ-rệt, sâu-xa rằng người thanh-niên anh hùng ấy phải đóng một vai quan trọng trong đời nàng.
Hơn thế nữa, chàng sẽ là cái lẽ sống của đời nàng, một cái gì nó làm cái trụ cốt mà nàng sẽ lệ thuộc vào đấy, y như cái cọc dậu với một giây leo vậy.
Nghĩ đến đây, Vân-Anh bỗng lại nhớ đến Đoàn Hồng-Ngọc.
Giữa Đoàn với Nùng, liệu đã có một cuộc tình-duyên nào hay chưa ?
Có lẽ nào lại chưa ?
Trai tài gái sắc, cùng vào hạng phi thường lại cùng sống bên nhau, khỏi sao tình yêu không nẩy nở.
Chẳng nói đâu xa, hãy cứ xem như nàng thì đủ rõ. Nàng chỉ mới biết chàng mà lòng nàng đã vấn vương thắc-mắc rồi.
Sự tin chắc này làm cho Vân-Anh buồn rầu và đau đớn vô hạn. Nàng không ngờ giữa lúc này vừa bắt đầu yêu thì tình yêu của nàng lại đã bị đầu độc bởi sự ghen tuông. Đoàn Hồng-Ngọc sẽ là cái trở lực ghê gớm trên con đường nó sẽ đưa Vân-Anh đến gần chàng tuổi trẻ.
Đoàn Hồng-Ngọc sẽ là một kẻ tình địch của Vân-Anh.
Thiếu-nữ thở dài :
– Mà kẻ tình địch ấy lại vô cùng đáng sợ!
Ấy là chưa nói còn bao nhiêu trở lực khác.
Chẳng hạn cái tình trạng, cái địa vị của Phiên-vương giữa triều-đình nhà Lý.
Nùng Trí-Cao dù sao cũng chỉ được coi là một tướng giặc. Triều-đinh để chàng sống, ấy chẳng qua là do một ý tốt của Thái-Tông Hoàng-đế, và do một lẽ cần thiết về chính trị, thế thôi.
Ngoài ra, chàng vẫn chỉ cứ là một kẻ xa lạ, một kẻ mà dù yêu vì nết trọng vì tài đến đâu người ta cũng không bao giờ cho bước vào tới chỗ thân tình, hoặc coi như một người máu mủ.
Tạ Đô-thống là một vị võ tướng mà lòng yêu nước, yêu chủng-tộc lên tới cực điểm. Do đấy, ngài lại càng không bao giờ coi Nùng Trí-Cao làm một kẻ có thể yêu mến, tin cậy được. Chỉ mới thế đã không được, nói chi đến câu chuyện tơ-duyên giữa chàng với nàng !
Vân-Anh hoàn-toàn thất vọng.
Sự thất-vọng nấu-nung một cách khó tả bởi tình yêu của nàng tuy mới mà đã sâu-xa biết chừng nào.
Vân-Anh làm như vô-tình hỏi Lan-Nhi :
– Chàng chắc thể nào cũng phải ở lại kinh-thành ít lâu rồi Hoàng-thượng có cho chàng về rừng ấy là chuyện sau.
– Thưa tiểu-thư, sự ấy đành rồi.
– Cứ gọi là mười năm !
– Ấy là đôi khi ông ta làm thế nào cho vua tin cậy được chứ nếu …
Vân-Anh lẩm bẩm :
– Trời ! mười năm một mình, một bóng giữa nơi đất khách quê người !…
Lan-Nhi cảm động :
– Như vậy kể đáng thương thật !
– Trừ phi vua cho ông ta đem cả vợ con và mẹ già về ở đây.
Lan-Nhi quả nhiên mắc mẹo :
– Thưa tiểu-thư, ông ta đã có vợ đâu !…
– Mày biết sao được.
A-hoàn cãi :
– Thưa tiểu-thư, thế mà con biết.
– Mày biết gì ?
– Rằng Phiên-vương vẫn ở một mình với bà mẹ già tức là Ninh-Đức Hoàng-hậu. Ngài chưa có Vương-phi.
– Ai bảo mày thế ?
– Bác con.
– Bác mày làm gì mà biết tường-tận như vậy?
– Thưa tiểu-thư, vậy ra tiểu-thư đã quên rồi.
– Quên gì ?
– Rằng con có một ông bác họ, hiện làm võ sĩ dưới cờ quan Đãng-khấu Lê Tướng-quân. Trận đánh Cao-Bằng vừa rồi, chính bác con cũng được dự, và lúc quân ta bắt được Phiên-vương, chính mắt bác con cũng trông thấy.
Vân-Anh làm như người đãng trí :
– À phải, ta nhớ ra rồi ! Ồng bác mày tên là Đinh Thập, biệt hiệu là Tiểu-Hổ Dực-Đức ấy chứ gì ?
– Chính phải ạ.
– Ông nói rằng Phiên-vương vẫn… ở với bà mẹ ?
– Vâng.
Vân-Anh có cảm-tưởng như ai vừa đỡ cho nàng một nửa cái vác nặng đương dằn xuống tâm-hồn nàng.
Lan-Nhi tiếp :
– Cũng bởi ông ta chưa vợ nên con mới nói rằng hôm nay nhiều cô tha hồ mà mơ ước…
– Mày chỉ quen nói nhảm !
Lan-Nhi cười ranh-mãnh :
– Thưa tiểu-thư, trai anh-hùng, gái thuyền-quyên, gặp nhau mà ước mơ nhau là thường chứ ạ ! Huống hồ việc vợ, chồng lại vốn đứng đầu nhân luân!
Vân-Anh cũng cười :
– Con này mồm miệng, bẻo-lẻo thế chẳng còn sợ ai bắt nạt nữa !…