← Quay lại trang sách

Bốn Bí mật của bà bá tước

Chúng tôi ăn tối với bà bá tước trong căn phòng vừa là phòng khách vừa là phòng ăn, vốn là một trong rất ít địa điểm có sinh khí của toà lâu đài này. Michel đùa giỡn với Kafi thoả thích đến nỗi mới 7 giờ rưỡi đã lăn cù ra ngủ.

Nếu Mady có vẻ rất tự nhiên thoải mái, thì tôi lại không. Được ăn tối trong môt toà lâu đài cổ kính!... Và chung bàn với một bà bá tước chính hiệu!... Tuy nhiên, hai vị chủ nhân toà lâu đài không có vẻ gì làm cao hết. Họ rất giản dị, thậm chí còn khiêm tốn nữa. Nói tóm lại, thay vì làm phiền họ, thì sự có mặt của to6i và Mady lại làm họ vui lên. Chỉ có cô giúp việc Jacqueline có vẻ không khoái chuyện phải nấu thêm 3 khẩu phần nữa, chị ta nhìn Kafi với vẻ khó chịu. Nhưng con chó đâu có gây phiền hà gì. Nó ngồi bên cạnh tôi, không nhúc nhích ngo nghoe tới... một ngón chân!

Ngay từ đầu, hai người phụ nữ đã hỏi han về việc học của bọn tôi, nhưng tôi cảm thấy là họ đang cố gắng che giấu nỗi lo lắng của họ. Sau đó bà bá tước hỏi về Kafi. Tôi kể rằng tôi đã nuôi Kafi từ hồi nó còn là một con chó con nhỏ xíu ở vùng Provence, và tôi đã huấn luyện nó thành một con chó trinh thám.

- Một con chó trinh thám?

- Dạ phải. Nó có tài đánh hơi phi thường, chỉ cần cho nó ngửi một chút xíu gì đó, một đồ vật, một cái áo, là nó có thể tìm ra được người chủ cách xa cả mấy cây số, từ bất cứ địa điểm nào.

- Nó có bắt bọn bất lương được không?

- Nếu cháu ra lệnh, nó cắn đứt cổ tên kia ngay... Nhưng nó vẫn có thể hiền như một con cừu, bà thấy rồi đó.

Hai người phụ nữ đưa mắt nhìn nhau. Cô Mathilde lẩm bẩm:

- Mình cần một con chó như con này.

Chúng tôi vừa mới ăn tráng miệng thì tiếng kim loại loảng xoảng vang lên từ nhà bếp làm bà bá tước giật bắn người, thốt lên tiếng kêu:

- Trời ơib! có phải...

Nhưng cô giúp việc đã chạy tới:

- Xin lỗi. Một cái xoong bị rớt khi tôi sắp đồ vô kệ.

Hai người phụ nữ chợt nhận ra sự hốt hoảng bất thần và quá đáng của họ làm chúng tôi kinh ngạc, và cả hai có vẻ bối rối. Đúng lúc đó Mady nói thẳng:

- Xin bà và cô thứ lỗi... Tụi cháu có vẻ tò mò, nhưng tụi cháu biết ở đây có nhiều chuyện kỳ lạ... Có một bóng ma thì phải.

Bà bá tước già tròn xoe mắt nhìn bọn tôi, sợ hãi:

- Một bóng ma à?... Mấy cháu biết sao?

Bà không nói thêm nữa. Nhưng rõ ràng là bà rất muốn nói. Cả hai dứa tôi đã thu phục được cảm tình của họ, nếu không nói là lòng tin của họ, như Kafi đã thu phục được cảm tình của thằng nhóc Michel. Sau một hồi do dự, cô Mathilde giải thích:

- Chúng tôi rất lo, đúng vậy. Dĩ nhiên không ai tin là có ma! Nhưng việc này có thiệt. Một bóng người nào đó trùm vải trắng kín mít, mang găng tay màu đỏ, đã theo đuổi chúng tôi khắp nơi trong toà lâu đài! Chắc mấy cháu thấy buồn cười...

- Dạ không. Cháu xin thú thiệt là bọn cháu tới đây vì chuyện đó hơn là vì chuyện coi tranh.

- Mấy em có đọc báo và coi hình à?

- Dạ có. Theo cô, đây có phải là ai đó muốn đùa không?... Ai đó muốn dọa bà và cô... cho vui không?

- Chắc chắn là không!

- Ngoài người chụp ảnh, có ai còn thấy con ma đó nữa không?

- Tất cả mọi người trong lâu đài này! Mẹ tôi, tôi, người gác dan, vợ ông ta và cô giúp việc Macqueline. Con ma này xuất hiện bất kể ngày đêm... nhưng thường là đêm. Nó đã vào trong phòng của mẹ tôi năm hoặc sáu lần. Người gác đan cũng từng thấy nó thơ thẩn trong vườn, vợ ông ta cũng vậy. Ông ta còn nghi là con Tô Tô bị con ma giết chết.

- Nói cách khác, có ai đó muốn hại bà và cô!... Bà và cô có kẻ thù nào trong vùng này không?

- Chúng tôi sống xa lánh mọi người. Chúng tôi không hại ai hết.

- Có thể là họ ganh tị.

- Trời! Ai mà ganh tị với chúng tôi? Dân ở đây đều biết chúng tôi khánh kiệt rồi. Chỉ còn bề ngoài thôi. Chúng tôi còn sống ở đây được là cả một phép lạ. Nếu không có khách tới tham quan vào mùa nghỉ, thì chúng tôi bán cả nhà cả vườn rồi. Chúng tôi chỉ còn giữ được nguyện vẹn bộ sưu tập tranh của ông cố, đồ duy nhứt còn trưng bày cho du khách coi được.

Lời tâm sự này làm tôi đặt ngay một câu hỏi:

- Có lẽ ai đó ganh tị vì bộ sưu tập tranh này?

Tôi không thể ngờ là tôi đã đụng tới một điểm nhạy. Cô Mathilde đưa mắt nhìn mẹ.

- Tới lúc này, Mathilde à. - Bà bá tước già thì thầm - Con có thể kể cho mấy cháu đây nghe được. Mẹ tin bọn họ giữ bí mật, nếu mình yêu cầu.

Và bà nói với bọn tôi:

- Tôi có thể tin vào sự kín đáo của mấy cháu được chớ?

Mady và tôi cùng gật đầu, nhưng cô Mathilde vẫn còn ngập ngừng, như thể câu chuyên quá khó kể hoặc quá rắc rối. Cuối cùng cô lên tiếng:

- Bóng ma này không phải xuất hiện ngẫu nhiên, và cũng không phải nó hiện ra rồi biến mất. Nó hăm dọa chúng tôi... hay nói cho đúng hơn, nó hăm dọa mẹ tôi.

- Về việc gì, thưa cô?

- Nó dọa sẽ tiết lộ cho mọi người biết bộ sưu tập tranh là giả.

- Điều đó có đúng không?

- Không!... Nhưng bây giờ chúng tôi không còn bằng chứng nữa.

- Không còn bằng chứng nữa, nghĩa là sao? - Mady hỏi.

- Nghĩa là ông cố tôi đã cho giám định và làm giấy chứng nhận đây là tranh thiệt. Bây giờ mấy giấy tờ đó đã mất.

- Đã mất?

- Tại tôi thôi. - Bà bá tước nói. - Cách đây hai tháng, để có tiền xài, tôi đã bán một tủ hồ sơ đời Lu-i XVI trong đó có đựng giấy xác nhận.

- Bà không kiểm tra mấy ngăn kéo à?

- Có chớ. Nhưng ở tuổi tôi, người ta hay lẫn lắm. Tôi không còn nhớ nổi nó ở chỗ nào. A, phải chi con gái tôi có ở đó! Hôm đó nó có việc xuống Lyon, khi về, chính nó nhắc tới mấy tờ giấy chứng nhận...

- Sao bà không tói gặp lại người mua tủ?

- Y đã trả tiền đàng hoàng đầy đủ, rồi sau đó chất lên xe ra đi, không hề cho tôi biết tên lẫn địa chỉ. Không tài nào tìm ra y được. Chúng tôi đã có đăng thông báo trên môt tờ báo. Nhưng không ai trả lời.

Bà thở đài. Tôi hỏi:

- Tại sao bà không đi báo cảnh sát tất cả chuyện này?

- Nếu cảnh sát tới điều tra thì báo chí sẽ làm um sùm lên. Người ta sẽ nghĩ ràng có thể bộ sưu tập tranh có vấn đề, và chúng tôi không còn khách đến tham quan nữa.

Tôi và Mady nhìn nhau. Chắc cô cũng tự hỏi phải chăng có một sự liên quan giữa vụ mất giấy tờ với những lời đe dọa. Tôi hỏi tiếp:

- Thưa bà bá tước, ở đây có ai biết về mấy tờ giấy chứng nhận và nơi cất giấu chúng?

- Chỉ có con tôi và tôi thôi.

- Việc này không khó giải quyết. - Mady nói - Chỉ cần đem tất cả các bức tranh đi giám định lại. Như vậy bà sẽ có giấy chứng nhận mới.

Cò Mathilde đưa hai tay lên trời:

- Mấy em không biết việc giám định tốn đến chừng nào đâu! Hơn nữa việc này rối rắm hơn nhiều. Mẹ tôi chưa kịp kể hết. Thật vậy, mới đây chúng tôi có đem đi giám định một bức tranh nhỏ của Franz Hans... Than ôi! Nó là tranh giả.

- Giả?

- Nếu tôi nhớ không lầm, thì không có giấy chứng nhận cho bức tranh này. Mà hình như ông cố chúng tôi cũng không mua nó. Dù sao tôi cũng cứ tưởng nó là tranh thật.

- Tại sao cô lại đem bức tranh này đi giám định, mà không đem bức tranh khác?

- Mấy em chưa biết. Đây, mọi chuyện là thế này. Cách đây 15 ngày, có một người khách định mua một bức tranh của hoạ sĩ Ribera vẽ Chúa Kitô được đem từ thánh giá xuống. Đây là một bức tranh vẽ dở dang, bức lớn nhứt trong bộ sưu tập. Người khách đó trả một món tiền lớn đến nỗi mặc dù không muốn bán tranh, 2 mẹ con tôi cũng đã do đự, ngập ngừng rất lâu. Với số tiê2n này chúng tôi có thể sống nhiều năm mà khỏi cần phải đón khách tham quan, vì có nhiều khi bực mình lắm, đâu phải ai cũng là người có văn hoá đâu. Dĩ nhiên người khách đòi hỏi là bức tranh phải thật, vì chúng tôi không còn giấy chứng nhận. Ổng ta đến đây với một chuyên viên đem theo đủ thứ dụng cụ, máy rọi X quang, chất hoá học, và đủ thứ linh tinh trên đời... Cuối cùng vị chuyên gia tuyên bố bức tranh của Ribera là một bức sao chép, đúng hơn là một bức mô phỏng, bởi vì không ai biết bức chính.

- Ông chuyên viên đó do cô chọn à? - Mady hỏi. - Sao cô không nghĩ là ông khách dẫn tới một tay đồng loã để mua tranh với giá rẻ?

- Có chớ. - Cô Mathilde trả ]ời. - Tôi có nghĩ tới, nhưng muốn rõ thì phải tái giám định. Bức tranh lớn như vậy thì phí tổn sẽ rất kinh khủng. Vì vậy tôi đã đem tới Lyon bức tranh của Franz Hans, nhỏ hơm nhiều, và hên xui thế nào đó, bức tranh này lại được giám định là giả... Điều này đúng. Mấy em thấy chúng tôi bối rối như thế nào. Nhưng về phần bức tranh của Ribera thì tôi chắc chắn 100 phần trăm là tên chuyên viên đã lầm, hoặc đã nói láo!

Yên lặng một lúc, rồi tôi hỏi tiếp:

- Vậy còn con ma khoác vải trắng, khi hiện ra, nó có nói gì không hả cô?

- Nó nói đi nói lại có một câu: "Bà bá tước lâu đài Tàng cổ Thụ, tranh của bà là tranh giả!... Bà không dược quyền đánh lừa người xem. Nếu bà cứ tiếp tục lường gạt như vậy, bà sẽ gặp tai họa!". '

Bà bá tước thở dài nói thêm:

- Tôi tin chắc con ma cố ý xuất hiện trong khu vườn để làm um xùm trên mặt báo, nhằm làm cho du khách không tới đây nữa. Trời ơi! Hành hạ tôi như vậy sao! Lẽ nào vì chúng tôi không đủ tiền làm giám định các bức tranh mà tôi hết kế sinh nhai sao? Con gái tôi phải nuôi bốn đứa con: thằng nhỏ Michel mà mấy cháu thấy, và ba đứa khác lớn hơn đang trọ học ở Lyon. Lễ Phục Sinh này chúng tôi không cho bọn nó về đây vì sợ câu chuyện quái quỷ này ảnh hưởng tới chúng.

Bà bá tước làm một cử chỉ thất vọng. Người con gái tiếp lời:

- Dĩ nhiên còn một giải pháp cuối cùng: bán lâu đài và đi nơi khác sống. Nhưng như vậy thì đau lòng quá! Mẹ tôi đã sinh ra và lớn lên ở đây. Tôi có cảm tưởng là có một âm mưu nào đó nhằm hại chúng tôi, ai đó muốn làm chúng tòi phải kiệt sức mà bỏ đi...

Lại yên lặng. Ai? Ai nỡ lòng hành hạ hai ngưòi phụ nữ này?

- Thưa cô, ngoài bà bá tước, ai biết dược việc giám định bức tranh ạ?

- Không có ai cả. - Có Mathilde trả lời.

- Còn mấy người giúp việc?

- Họ đều là những con người trung thành tận tuỵ. Và họ cũng chẳng biết chuyện gì cả. Chẳng hạn như Jacqueline thì hôm giám định không có ở nhà...

- Vậy cô không có một ý kiến gì cả sao?

- Không một ý kiến gì cả.

Bà bá tước phác môt cử chỉ mệt mỏi nhẫn nhục, như thể bà chịu khuất phục trước định mệnh. Bỗng bà ngước mắt nhìn về phía đồng hồ treo tường:

- Chín giờ rưỡi rồi! Xin lỗi mấy cháu! Jacqueline sẽ dọn phòng cho mấy cháu ngủ. Chúc mấy cháu ngon giấc.

Rồi bà vỗ nhẹ lên đầu Kafi:

- Cả mày nữa, ngon giấc nghe Kafi

Tổi giúp Mady đứng dậy. Cô khập khiẻng di theo sau người hầu gái vào một căn phòng trài thảm xanh. - Đó là cãn phòng dành cho khách, coi bộ rất hiếm.

Vê phần tôi, chị Jacqueỉine dấn đi vồ phía cuối hành lang, vào một căn phòng trần trụi không bàn ghế, có trài 1 tấm thảm không còn có thể cũ hơn được. Rồi chị ta leo lên rầm thượng lấy xuống một tấm nệm cho tôi nàm.

Sau tất cả những chuyện vừa qua, tôi không thể nào ngủ được. Tôi thấy tội nghiệp cho hai người phụ nữ cô đơn, không tin có ma nhưng vần cứ sợ khi nó xuất hiện. Còn tôi, tôi không thể nào ngăn được việc liên hệ những lòi hám dọa và vụ mất biến giấy tờ chứng nhận. Không lẽ chỉ là ngẫu nhiên sao? Con người vô danh’ khi mua cái tủ hồ sơ có biết những gì chứa trong đó hay toồng? Cững không chác lám. Và có phải chỉ dọ tinh cờ mà y tới lâu đài đúng vào ngày cô Mathilde váng nhà hay không?

Dù sao đi nữa thì ba người giúp việc trong lâu đài có vẻ ở ngoài vòng nghi vấn. Họ không có lý do gì để chặn nguồn thu nhập của lâu đài Tàng Cổ Thụ, vì chính họ cũng sống nhờ nguồn thu nhập đó.

Cuối cùng, nằm dài trên tấm nệm với Kafi ép vào mình cho ấm, tôi cũng ngủ thiếp đi. Chắc đêm đã khuya lắm khi con Kafi kéo mạnh tay áo tôi. Tôi ngồi nhỏm dậy, vừa đúng lúc cô gái giúp viêc chạy tới, mình khoác áo ngủ, đầu tóc rối bù.

- Tới đây lẹ lên!... Lẹ lên!...