← Quay lại trang sách

Ba Người đàn ông mặc áo khoác ghi-

Gã đàn ông đang muốn hại ông!... Vậy mà không ai nghĩ tới hắn! Mối liên hệ nào giữa những chuyến lui tới của một gã buôn đàn pianô và sự biến mất của Kafi? Ngay cả Mady là người rất hay có sáng kiến nhanh nhạy lần này cũng không nghĩ ra.

Để trấn an ông mù đang lo sợ, chúng tôi đã hứa sẽ thường xuyên tới thăm ông.

Rồi một tối, cửa khép kín mít... và nó cũng không mở ra ngay khi tôi gõ cửa nói tên mình, ông đang ngủ trên giường hay sao? TÔI lại đập cửa và gọi một lần nữa. Chẳng thấy động tĩnh gì. Tôi xuống tầng dưới gõ cửa nhà bà Tazergue.

- Sao cơ? - Bà ngạc nhiên. - ông ấy vẫn chưa về ư? ông ấy đi từ đầu buổi chiều mà! ông ấy dừng lại chồ tôi một lát để đưa đồ nhơ tôi giặt, ông ấy bảo đi đến nhà khách hàng, ở phố Poutailleric, bên bờ kia sông Saône. Cậu chắc chắn là ông ấy không có trong nhà đấy chứ?

- Cháu đã đập cửa rồi gọi rất nhiều lần.

Bà Tazergue cùng tôi trèo lên tầng trên, bà ra sức gọi nhưng cũng không có kết quả. Bà nhíu mày:

- Hay ông ấy nán lại hàn huyên hoặc chơi đàn cho khách nghe chăng? Khách sẽ chở ông ấy về lúc muộn muộn bằng ô tô. Đã có lần như thế rồi mà.

Tôi kiên nhẫn đợi chờ thêm một lúc nữa. Song, tôi còn nhiều bài vở ngày mai ở nhà quá, vả lại mẹ cũng không muốn tôi về quá muộn. Thế là tôi quay về phố Mảnh Trăng.

Đêm đó tôi ngủ không ngon, cứ bị ám ảnh mãi bởi ý nghĩ đã có chuyện chẳng lành xảy đến với ông bạn già. Sáng hôm sau, tôi dậy sớm và chạy thẳng đến nhà ông mù, nhưng vẫn không có tiếng trả lời!

Tôi xuống nhà bà Tazergue, thấy bà đang xay cà phê. Nhìn vẻ hốt hoảng rụng rời của bà, tôi biết những linh cảm đã không đánh lừa mình.

- Ôi! Tội nghiệp ông Vauquelin! - Bà thở dài. - Ông ấy đã bị tai nạn và đã được đưa vào bệnh viện Grange- Bunche. ông ấy đã nhờ một bà y tá nhắn tin và đưa chìa khoá để đến lấy vài đồ đạc, giấy tờ cần thiết.

- Có nặng lắm không ạ?

- Lúc đưa vào viện thì ông ấy bất tỉnh. Một chiếc xe xích lô máy đã đâm vào ông trên bờ sông Saône, quãng bốn giờ chiều. Chắc ông ấy lại phát hoảng lên lúc qua đường như lần trước ở cạnh cầu Saint-Vincent. Bệnh viện chưa cho vào thăm sáng nay, ngay chiều nay tôi sẽ vào thăm ông ấy.

Với tâm trạng đảo lộn, tôi nói với bà Tazergue rằng chiều sẽ quay lại đề biết tin tức rồi thục mạng chạy về trường, chiếc cặp trĩu nặng trên tay. Tôi gặp các bạn lúc họ vào sân trường, tin này làm cả bọn rụng rời kinh hoảng.

Tan trường là tôi chạy đi báo cho Mady ngay. Tôi "thóp" được cô ở đầu phố Những Gò Đất Cao, cô cũng từ trường về.

- Lạy Chúa! - Cô kêu lên. - ông mù tội nghiệp! Tai nạn ư!

Rồi tôi cũng hẹn cô sau giờ tan học đến căn cứ để cả bọn cùng tới chỗ bà Tazergue.

Lúc năm giờ chiều, khi cả nhóm có mặt đông đủ, sương mù dày đặc đã làm đêm nhanh chóng buông xuống. Tới cầu Saint-Vineent, chúng tôi thậm chí còn chẳng nhìn rõ nước sông Saône. Trong sân ngôi nhà cũ kỹ, mặc dầu trời đã toi om nhưng đám dân nhặt giẻ rách vẫn cặm cụi phân loại "chiến lợi phẩm" ban ngày. Tôi xông lên cầu thang trước tiên, ở đó rát tối nên gần như ngay lập tức, tôi suýt húc phải một người đàn ông đang chạy xuống, ông ta nép vào nhường lối cho chúng tôi. Tới tầng ba, tôi gõ cửa nhà bà Tazergue. Bà lục đục một lúc mới ra mở cửa.

- À, các cháu đấy? - Bà ấp úng -... tôi, tôi sợ quá... nhưng thôi vào đi!

Khi ngừng lời, khuôn một bà lại biểu lộ một nỗi lo lắng khác, giống như lúc bà mở cửa cho bọn tôi. Bà hỏi nôn nóng:

- Lúc lên các cháu không gặp ai giữa cầu thang?... Một người đàn ông mặc áo choàng màu ghi cổ lông ấy?

- Có đấy ạ, bọn cháu trèo lên nhanh nên suýt nữa thì va phải ông ấy.

- Các cháu đã bao giờ gặp ông ta ở nhà ông Vauquelin chưa?

- Chưa ạ.

- Lúc tôi vừa từ bệnh viện về nhà và đang treo cái áo măng tô lên cái mắc sau cửa thì bỗng nghe thấy có tiếng ai đó lên cầu thang" người đó lên tầng trên cùng, ô, ở trên đó chỉ có hai người thuê nhà thôi, ông Vauquelin và gia đình Lopez, gia đình này hiện giờ không có mặt ở Lyon. Thế là tôi áp tai vào cửa nghe ngóng... Người ấy gõ cửa rất nhiều lần, cuối cùng tôi nghi rằng chắc lại là ai đó từ bệnh viện đây. Khi người khách trở xuống, tôi mở cửa và đối mặt với một người đàn ông trông rất trang nhã. Tôi bảo ông ta rằng ông Vauquelin không có nhà, rằng ông ấy vừa bị tai nạn. Khi tôi hỏi ông ta có cần nhắn gì cho ông Vauquelin không, vì tôi sẽ quay trở lại bệnh viện, ông ta đã đề nghị tôi đừng nói gì về chuyến viếng thăm này cho ong Vauquelin hết!

- Có phải ông ta hơi nhỏ người không ạ?

- Ừ, ông ta mặc một chiếc áo choàng màu ghi cồ lông và một chiếc mũ mềm, cũng màu ghi thì phải.

- Có phải giọng ông ta rất thanh và âm mũi?

- Đúng thế, âm mũi.

Rồi đột nhiên, bà giật nảy người:

- Sao? Vậy là các cháu đã nói chuyện với ông ta rồi à?

Tôi ấp úng giải thích, rồi vờ như phải vội về, chúng tôi chào bà và hấp tấp nhảy xuống cầu thang. Cũng như tôi, các bạn tôi liền đã hiểu ra. Gã đàn ông vừa lên nhà ông mù chính là gã buôn đàn piano!

***

Chủ nhật sau, ngày đầu tiên của tuần nghỉ lễ Noel, chỉ có tôi và Mady tới bệnh viện thăm ông mù. Hai người khác sẽ tới vào ngày hôm sau và cứ thế tiếp tục lần lượt, để cho ngày nào người bạn già của chúng tôi cũng có người tới thăm.

Mady mang tới sáu bông cẩm chướng thật đẹp. Ban nãy, khi cô tới gặp tôi ở bến ôtô buýt, tôi đã không ngăn được lời nhận xét rằng hoa đối với một người mù có vẻ không được hợp lý cho lắm.

- Ồ - Cô đã trả lời tôi. - Đâu chỉ có màu sắc, hoa còn mùi hương nữa chứ!... Vả lại, người ta nói rằng những người mù luôn thích được mọi người đối xử như với những người sáng mắt bình thường.

Ông mù nằm ở một căn phòng nhỏ chỉ có tám giường. Tôi nhận ra ông ngay nhờ cặp kính đen. ông nằm bất động trên giường, có vẻ như đang ngủ trong khi những người khác tựa lưng vào gối đọc sách hoặc trò chuyện với người đến thăm. Mady đi trước tôi và nhẹ nhàng lại gần.

- Tidou và Mady tới thăm ông đây! - Cô nói nhỏ, sợ sẽ đánh thức ong đột ngột.

Nhưng ông đâu có ngủ. ông nhỏm dậy ngay:

- À, các con đến đấy ư? Các con mới tốt bụng làm sao khi tới thăm ông bạn già khốn khổ này!

Ông nắm tay chúng tôi. Mady cúi xuống ôm hôn ông, và trong khi ấy, tờ giấy bọc hoa chạm vào tay người bệnh.

- Ôi! - Ông kêu lên. - Hoa ư! Các con mang hoa đến cho ta ư? Đề ta rờ nó xem nao... ồ, hoa cẩm chướng!

Ông ngửi hoa.

- Mùi này thì ta đoán là hoa cẩm chướng đỏ. Phải, ta không lầm đâu, đúng là cẩm chướng đỏ! Màu đỏ là một màu thật là đẹp, phải không các con?

Mady mỉm cười nhìn tôi như muốn nói: "Đấy, cậu thấy chưa, mình có lý nhé, ông ấy nói về những điều cứ như ông ấy đã trông thấy vậy!

Ròi cô hỏi hiện giờ ông cảm thấy trong người thế nào.

- Đã khá hơn rồi các con ạ, nhưng hai ngày đầu ta đau quá. Ta thở gần như khống nồi. Mỗi lần ta nâng ngực lên, cơn đau lại ập đến làm ta nghẹn thở. Bác sĩ hứa là sẽ không giữ ta ở đây lâu hơn nữa, các con thấy đấy, bây giơ ta đã có thề cử động được rồi.

Ông kể cho chúng tôi nghe tai nạn đã xảy ra như thế nào, cũng ngớ ngẩn hệt như lần trước, ông cứ ngỡ có một xe ôtô chồm lên người, thế là ông lùi lại. Một anh thanh niên đạp chiếc xích lô máy khá chậm đã quẹt phải ông.

- Ôi, các con ạ, từ ngày Briquet khốn khổ của ta chết, mọi tai ương cứ dồn đập trút xuống đầu ta... và xuống cả các con nữa, bởi vì, do lỗi của ta mà các con đã mất chú chó.

Ông im bặt, mặt ông nhăn lại. Rồi ông đồi giọng nói thêm:

- Mà các con đừng có nghĩ ta tự vẽ ra chuyện, rằng ta chỉ tự nghĩ ra những điều ngớ ngẩn! Các con thấy không, tất cả những gì xảy đến với ta đều là do gã đàn ông ấy hệt. Đệm đêm, ta chợt thức dậy, ta nghĩ đến hắn, ta vẫn như nghe thấy giọng nói của hắn, cái giọng đã bộc lộ con người hắn! Ta đồ rằng trong lúc ta vắng nhà, thể nào hắn cũng quay lại dòm ngó, vẫn vì chiếc đàn dương cầm của ta, nhưng ta đâu có muốn bán nó. Ta sẽ ra sao đây nếu không có chiếc đàn? Ta sẽ giữ nó cho tới lúc chết!

Những nắm tay ông xiết chặt bộc lộ sự quyết tâm vô bờ bến. Tôi làm hiệu cho Mady đừng nói gì về sự xuất hiện gần đây của gã lạ mặt, nhưng cô đã hiểu rồi. Chẳng việc gì phải làm cho ông mù lo lắng thêm.

Đúng lúc đó, cô y tá bước tới, nhẹ nhàng hỏi ông còn cần gì nữa không. Đoạn" cô sửa lại gối cho ông rồi đi chỗ khác.

Thời gian cứ thế trôi khi chúng tôi trò chuyện, đã đến lúc chúng tôi phai rời ông rồi. Tôi nói với ông rằng Corget và Gnafron ngày mai tới thăm ông, nếu ông có cần gì thì các bạn tôi sẵn sàng đem đến cho ông.

- Có đấy các con ạ! Nếu các con có thời gian, con qua nhà bà Tazergue hộ ta, bảo bà ấy đưa cho chìa khoá rồi vào nhà lấy quyển sách to bự trên giá, gần lò sưởi ấy. Đó là một tác phẩm viết về Beethoven, được chuyển thành chữ nồi, nhưng tựa đề vẫn in bằng chữ thường đấy. Ta muốn đọc lại quyền ấy một chút.

Tôi hứa với ông sẽ đi lấy quyển sách rồi chuyển cho Gnafron mang đến. Ông lại cảm ơn chúng tôi một lần nữa, ông nói ông rất biết ơn chúng tôi đã ngồi lại với ông lâu thế, rằng cuộc viếng tham của chúng tôi đã xua bớt những ý nghĩ buồn nản trong ông. Nhưng khi ông nắm lấy tay chúng tôi rồi xiết chặt, chúng tôi thấy bàn tay áy run run.

Chúng tôi đi qua hành lang, rồi tình cờ lại gặp cô ý tá vừa bước ra từ một căn phòng trước mặt bọn tôi. Cô nhận ra bọn tôi và mỉm cười tươi tắn rồi lại bước tiếp, trên tay bưng một khay bông băng. Nhưng đi được vài bước cô lại quay lại:

- Nếu các em có thể thì hãy trở lại thăm bác Vauquelin. Bác áy luôn bị đè nặng bởi những lo lắng quá nghiêm trọng đáy! Thật tiếc là người đã đến đậy hỏi tin tức bác hôm qua lại không muốn vào thăm bác.

Mặc dù không muốn nhưng tôi vẫn không nén nồi cái nhìn đầy ngạc nhiên với Mady. Đọc được vẻ ngạc nhiên của chúng tôi, cô y tá nói thêm:

- Đúng vậy, một người đàn ông mặc áo khoác màu ghi. ông ấy nài nỉ mãi để biết tình trạng hiện thời của bác Vauquelin, nhưng lại không muốn vào phòng bệnh. Thậm chí ông ấy còn đề nghị chị đừng có nói gì với bác về sự có mặt của ông ấy, mà chị chẳng biết tại s- ao.

Mady đã lấy lại sắc điện bình thường. Còn tôi cố giấu nổi xáo động trong lòng, hoàn chỉnh nốt chân dung gã đàn ông:

- Có phải đó là một người thấp bé không ạ? ông ta nói giọng mũi?

- Các em quen ông ta à?

- Có nghĩa là...

- Nếu chị có nói về ông ta thì quả thực phải nói rằng thái độ của ông ta rất kỳ cục. Thay vì vui mừng khi biết tin bác Vauquelin đã thoát khỏi nguy hiểm, ông ta lại có cái vẻ chán nản buồn rầu rất khó hiểu.

- Quả thực đó là một gã đàn ông kỳ quái đấy chị ạ. - Mady nôn nóng nói. - "Ông bạn già" của tụi em không gặp gã lại hoá hay hơn đáy!... Và may sao chị đã không nói lại với ông về sự xuất hiện của gã.

Cô y tá không gặng hỏi thêm gì và bước đi. Vài phút sau, chúng tôi đã bước qua cồng khu nhà bệnh viện. Mady mặt tái xanh... và chắc trông tôi cũng thế thôi. Vậy đấy, sau khi gõ cửa mãi không được gì ở nhà ông Vau-quelin, gã đàn ông bí hiểm ấy đã mò tới tận bệnh viện! Gã đã từ chối không vào thăm ông nhưng lại hỏi han cặn kẽ mãi cô y tá và nhất là phải, nhất là gã đã không thể giấu nồi nỗi bực dọc khi biết người bạn già của chúng tôi đã thoát khỏi tình trạng nguy hiểm. Vậy ra nỗi sợ hãi của ông Vauquelin không phải là tưởng tượng ư?