Bốn Ngày lễ Noël-
Sáng hôm sau, tôi tới nhà ông mù lấy sách. Đó là hôm trước của lễ Noel. Trời mưa tầm tã suốt đêm và thời tiết vẫn còn sì sầm đầy vẻ đe doạ. Mẹ khuyên tôi cầm cái ô cũ của bố đi tạm.
Tôi chúa ghét ô, nhưng tôi chẳng còn cách lựa chọn nào khác.
Đột nhiên, đúng vào lúc tôi tới hành tang tầng trệt tòa nhà, bỗng tôi rùng mình. Hình như có tiếng chó sủa. Từ ngày mất Kafi, bất cứ tiếng sủa dù nhỏ nhất nào cũng khiến tôi giật nảy mình. Tôi chần chừ chưa muốn bước tiếp. Lũ trẻ trốn sau đống túi đang phá lên cười. Chúng bắt chước tiếng cho sủa đó đùa tôi sao? Mặc kệ, tôi cứ xông ra lùng sục trong sân, đảo tung hết lũ túi, hòm, bao... Dĩ nhiên là chẳng có gì trong đó. Lũ trẻ ranh mãnh tiếp tục cười giễu tôi. Tôi tóm một đứa rồi gần như van xin nó hãy nói xem nó có biết Kafi ở đâu không. Nó giãy giụa trong tay tôi. cả lũ chúng đứng xung quanh kêu thét ầm ĩ, thế là gã nhặt giẻ rách tóc xoăn xuất hiện ngay.
Tôi cẳn thận tránh đi. Tới chân cầu thang, tôi cụp ô, dựa vào tường rồi trèo lên nhà bà Tazergue, hỏi lấy chìa khoá để lên tầng trên tìm sách. Nó ở đúng chỗ mà ông mù đã chỉ, trên giá sách. Toi tận dụng cuộc viếng thăm này để xem xét ngó nghiêng căn phòng. Bề ngoài, tất cả vẫn đâu vào đấy như trước khi ông mù đi. Chiếc đại dương cầm đẹp đẽ của Frank Liszt vẫn ngủ im lìm dưới tấm vải phủ, hệt như cũ.
Tôi khoá cửa lại rồi xuống thang, lòng hơi lo lắng khi nghĩ tới việc lại phải đi qua sân trước mặt lũ trẻ ranh và gã nhặt giẻ rách. May sao, bọn trẻ đã biến hết cả vì cơn mưa rào đồ ập xuống lúc tôi đang ở trên gác. Tôi cất tiếng gọi chú chó một lần cuối, rồi, một tay là cuốn sách to bự, tay kia vác chiếc ồ, tôi đi ra, trong lòng trĩu nặng buồn bã.
Lúc ra tới bến sông, ở chân cầu Saint-Vincent, mưa xối xả tới nỗi tôi bắt buộc phải giương ô, bỗng có một mẩu giấy trượt xuống và rơi dưới chân tôi.
Tôi vội cúi xuống nhặt mẩu giấy. Đó là một mẩu giấy báo, ở góc lề trắng không chữ, một bàn tay nào đó đã dùng bút chì nguệch ngoạc lên đó vài từ:
"Tối nay tới ngõ cụt"
Đây chắc chắn là chữ của một đứa trẻ, một đứa trẻ không khá lắm về môn chính tả vì nó đã phạm ba lỗi nặng trong một câu vẻn vẹn có 5 từ! Dòng chữ được viết vội vàng nhưng vẫn đọc được; thậm chí ở hai chỗ, bút chì còn làm thủng cả giấy báo. Chắc chắn là Thông điệp này đã được gài vào trong ô của toi lúc tôi để lại nó ở chân cầu thang rồi.
***
Tôi tới căn cứ sớm hơn giờ hẹn khá lâu. Rồi mọi người cùng lục tục kéo đến. Gnafron tới sau cùng, cậu ta bị nghẹn vì đã tống táng nhồi nhét bữa trưa trong có năm phút đồng hồ!
Trước đông đủ các bạn, tôi kề lại chuyện rắc rối trong sân, rồi chuyện tìm thấy mẩu giấy. Không còn nghi ngờ gì nữa, chắc chắn là lũ trẻ hay chế nhạo bọn tôi đã gài nó vào. Nhưng chúng muốn gì đây? Tondu, Guille và tôi không có ý kiến gì rõ ràng. Còn đối với Corget, Gnafron và Bisteque thì đây là một cái bẫy, Corgel nhận xét:
- Cái làm mình lo ngại là chúng lại hẹn cậu ở ngõ cụt. Tại sao lại là ngõ cụt?
Cái ngõ cụt ấy là một địa điểm độc địa, nó nằm trên con dốc Saint- Barthclemy, trước khi tới nhà ông mù một chút. Trên thực tế, đó không hẳn là một ngõ cụt, mà đúng hơn là một bãi đất rộng - một ngôi nhà đã bị phá huỷ mà người ta chẳng bao giờ xây lại.
Chúng tôi lập kế hoạch hành động. Ngay khi màn đêm buông xuống, tôi sẽ đi một mình tới ngõ cụt, trong khi các bạn bám theo cách một khoảng để theo dõi, họ sẽ lập tức can thiệp khi có chuyện không hay xảy ra. Mady sẽ ở lại, đó không phải là chỗ của con gái.
Cuộc hẹn gặp đã được ấn định vào lúc 5 giờ chiều ở chân cầu Saint- Vincent. Gnafron và Corget ở bệnh viện về sẽ tới gặp ngay.
Trong khi chờ đợi, tôi quay về nhà. Mẹ tôi phải đi mua đồ ăn cho lễ Noel ngày mai. Thật may, lúc 4 rưỡi mẹ về. Tôi mặc chiếc áo mưa đã vá rồi đi ngay. Trời không còn mưa nhưng vẫn sầm sì đầy mây. Tới bến sông Saône thì trời đã tạnh. Guille và Bisteque đang đứng giậm chân sốt ruột trên vỉa hè. Rồi Tondu cũng tới gần như ngay sau đó. Corget và Gnafron vẫn chưa ở bệnh viện về. Tới 5 giờ 20 họ mới xuất hiện, miệng thở hồn hển, đầm đìa mồ hôi vì chạy không nghỉ từ bến xe khách. Họ đã gặp ông bạn già của chúng tôi, vẫn luôn luôn lo lắng, chỉ mong sao chóng được rời viện đó về nhà mình.
Vậy là tôi bắt đầu dấn thân một mình và lên dốc Saint-Barthelemy. Tôi thận trọng dấn bước, không sợ hãi vì biết rằng các bạn tôi đã sẵn sàng lao tới ngay nếu tôi cần ứng cứu. Để phòng ngừa, tôi còn đem theo chiếc còi siêu âm dùng đề gọi Kafi.
Ngõ cụt chỉ nhận được một chút ánh sáng của chiếc đèn đường bên ngoài, còn toàn bộ vẫn gần như chìm trong bóng tối dày đặc. Tôi tiến vào bóng tối rồi dựa lưng vào tường. Đám người lên xuống phố vẫn cứ qua lại, nhưng rất ít trẻ con, vì chẳng thấy đứa nào trong số lũ trẻ ở sân cả.
Nửa giờ đồng hồ trôi qua. Mưa vẫn rơi đều, thứ mưa phùn nhè nhẹ và băng giá. Tôi trùm mũ mưa lên sùm sụp.
Chuông đồng hồ ở đâu đó đồ hồi sáu giờ rưỡi, hai chân tôi lạnh cứng như đóng băng, tôi phải chạy dọc bức tường. Đột nhiên, ở một góc của ngõ cụt, một bóng nhỏ xuất hiện. Nó chần chừ ngó phải, ngó trái, sẵn sàng quay đầu chạy ngược lại. Nó có mỗi một mình. Tôi ra khỏi bóng tối, và bỏ mũ mưa xuống. Đứa bé nhận ra tôi bèn đừng lại. Thấy rõ rằng tôi đi có mỗi một mình, nó tiến vài bước về phía tôi. Nó khoảng mười, mười một tuổi gì đó. Đó chắc chắn là một trong số lũ trẻ ở sân rồi, nhưng là đứa nào nhỉ? Nó mặc một chiếc áo choàng màu đen khiến khó nhận rõ trong bóng tối, mũ mưa thì sụp xuống mắt làm tôi chẳng thể nhìn rõ mặt nó. Nó đã chuẩn bị kỹ lưỡng đến thế để không bị nhận ra ư? Tôi nói rất nhanh:
- Tại sao cậu bảo tôi tới đây?
Nó lo lắng đảo mắt nhìn quanh:
- Vào đây!
Nó lôi tôi vào trong bóng tối, sát vào bức tường vừa nãy tôi đứng.
- Em không muốn người ta trông thấy nói chuyện với anh... anh biết đấy, vì bọn kia mà...
- Cậu có điều gì để nói ư?
- Vì con chó của anh đấy. Sáng nay, em đã thấy anh khổ sở quá vì bị mất nó. Em cũng rất yêu súc vật, em có một con khướu đã được thuần dưỡng và một con mèo con. Nhất là con mèo con ấy, em chẳng muốn người ta lấy nó của em chút nào!
- Vậy là họ đã lấy chú chó của tôi sao? Cậu biết chúng ơ đâu không?
Cậu bé cúi gằm mặt. Sự im lặng này chứng tỏ lời thú nhận:
- Nào, cậu nói đi, chúng ở đâu?
Đứa bé chần chừ. Nó lại ngó trái, ngó phải đề chắc chắn là chỉ có mình chúng tôi ở đấy.
- Về con chó của anh thì em không thể nói gì được, nhưng còn con kia, con Briquet ấy, thì là chú của thằng Tonin đã bắt nó lên chiếc xe tải của ông ấy.
- Chú của Tonin ư?
- Vâng, chắc chắn là anh biết đấy, ông ấy lúc nào cũng ở trong sân mà. Ông tá có bộ ria mau hung đỏ và tóc quăn ấy. Mọi người gọi là gã Xoăn.
Chân dung cậu bé tả chính là của gã đàn ông cứ luôn hằm hè nhìn khi chúng tôi qua sân.
- Cậu muốn nói là chú của Tonin đã mang Briquet đi ư? Đề bán à?
- Hẳn vậy!
- Nhưng, nó bị khập khiễng cơ mà?
- Em biết, nhưng ông ta cứ vẫn bán nó đi. Chính Tonin đã kể lại cho em và bảo em đừng nói lại với ai. Lúc đó Tonin đang chơi trong chuồng ngựa cũ ở CUỐI sân, ở đó chú nó đề cái xe tải cũ màu vàng. Nó đang nghịch sau đống ván. Chú nó đã gọi Briquet và nhử nó bằng một mẩu đường. Con chó không hề ngờ vực gì cả, nó nhảy lên xe tải, thế là ông chú Tonin khởi động máy ngay. Gã Xoăn đó chẳng vắng mặt lâu. Tới trưa gã ta đã ngồi ở bàn ăn, gã nói gã vừa đi có chút việc ở sau nhà thờ Fourvière.
- Thế còn Kafi? Gã Xoăn có đem nó đi không?
- Hẳn vậy rồi, Tonin không trông thấy gì, nhưng một buổi sáng, khi ông mù gọi chó ở sân, nó mới nhớ ra rằng trước đó ít phút nó có nghe thấy tiếng xe khởi động máy. Lần đo gã Xoăn cung không đi xa, và lúc trở về, một cồ tay áo của chiếc áo vét của gã bị xé rách và tay thì bị xây xước. Gã nói là gã bị thương vì một cái đinh khi gã lấy đồ trong két; nhưng em thì em cũng nghĩ như Tonin, chính con chó của anh đã cắn gã.
Cậu bé ngừng lời và nắm lấy cổ tay tôi:
- Anh hứa đi! Anh đừng kể chuyện này với bất kỳ ai nhé! ôi, chẳng phải vì em đâu, em thì cóc cần, nhưng cho Tonin ấy! Nó sẽ bị đánh..
- Em cứ yên tâm!
- Rồi thì, - cậu bé nói thêm đầy lo lắng. - Nếu anh có quay trở lại sân thì đừng tỏ vẻ quen biết em nhé, vì lũ bạn ấy mà!
Tôi cũng thề rằng tôi sẽ hoàn toàn không biết nó, điều nay thật dễ dàng vì tôi cũng có nhìn rõ mặt nó đâu.
Tới đó, nó chuồn vội như một tên kẻ cắp và biến mất.
Đã từ lâu rồi tôi không còn tin vào chuyện ông Già Tuyết nữa. Song, buổi tối hôm trước, tôi vẫn đặt giày vào trong lò sưởi vì thằng Géo vẫn còn tin vào chuyện đó.
Sáng hôm sau khi thức dậy, Géo thấy bên cạnh đôi giày của nó có một chiếc máy ủi đồ chơi mà nó hằng mơ ước, còn tôi thì một chiếc áo len the thao mà mẹ tôi đã đan giấu nhưng tôi nhìn thấy được trong gio đồ của mẹ. Trong mỗi chiếc giày cũng có một gói kẹo giấy và kẹo hạnh nhân ngào đường khiến cho thằng Géo nhảy cẫng lên vì vui sướng.
Còn tôi, niềm vui sướng thực sự không nằm trong những chiếc giày, mà ẩn sau trong đáy tim tôi, đó là hy vọng tìm lại được Kafi!
Buổi tối hôm trước, sau khi rời ngõ cụt tôi chạy một mạch tới quảng trường Saint-Paul để gặp các bạn rồi tất cả cùng bàn luận rất lâu về điều tiết lộ của cậu bé con. Cũng như tôi, mọi người đều cho rằng như vậy hẳn Briquet và Kafi vẫn còn sống. Chỉ có điều không hiểu lý do gì đã thúc đẩy gã nhặt giẻ rách phải tống khứ chúng đi như thế. Gã ghét chó tới mức không thể chịu đựng nồi sự có mặt của chúng trong cái sân quái quỷ đó ư? Hay gã ta đã bán chúng để lay tiền?
- Cậu nói lại xem nào, - Corget cứ bắt tôi nhắc lại. - gã ta đã mang chúng lên xe tải ư?
- Ừ, đi về phía đồi Fourvière, và cả hai lần gã ta đều chỉ đi một lúc, chứng tỏ rằng gã cùng tới một địa điểm.
Một ý nghĩ thoáng qua óc Gnafron. Đột nhiên hắn nhớ lại rằng hai năm trước đây hắn đã cùng ông chú dạo chơi trên những con đường nhỏ phía sau nhà thờ, lúc đi dọc qua một bức tường, họ đã nghe thấy những tiếng chó sủa. Thế là hắn trèo lên tường và thấy một khoảng đất rộng có lưới sắt bao quanh, trong đó có rất nhiều chó đang cắn nhau ầm ĩ. Chú hắn đã giải thích rằng đó là một "trại chó", có nghĩa là khuôn viên của một người làm nghề buôn chó.
Thế là sáng hôm lễ Noel, trái tim tôi lại tràn ngập niềm hy vọng. Tôi cảm thấy rằng một ngày dẹp đẽ như thế này không thề nào lững lờ trôi qua mà không mang tới cho tôi niềm vui lớn nhất: Kafi trơ về. Gnafron đã hứa đưa tôi lên đồi Pourvière nhưng phải vào buổi chiều. Ôi! Sao buổi sáng dài lê thê thế không biết! Mẹ tôi cứ tương tôi sốt ruột chờ bữa cỗ ngon lành của mẹ, mẹ vừa cười vừa kêu:
- Ôi, lẽ nào con lại trở nên háu ăn tới nhường ấy hả Tidou?
Buổi trưa ở bàn ăn, tôi vội vã tới mức nuốt qua loa bữa ăn. Tôi nghiệp mẹ quá! Mẹ đã chuẩn bị một thực đơn vùng Provence quê tôi, ngon cực kỳ, với món xa-lát trộn cà chua cùng cá trống và món gà Nhật Bản nhồi quả ô liu đen - hai món tôi khoái vô cùng!
Lúc hai giờ, Gnafron và Mady đã tới. Tondu, Guille và Bisteque vừa đi thăm "ông bạn già", chúng tôi không muốn đề ông một mình trong ngày lễ Noel chút nào!
Trên bến sông Saône, Gnafron đưa tay chỉ một con dốc mà theo hắn, là lối tắt đó lên đồi Fourvière. Nhưng lúc lên cao rồi, hắn lại không nhớ chính xác trại chó mà hắn đã gặp nằm ở chỗ nào. Chúng tôi cứ đi vơ vẩn suốt nửa tiếng đồng hồ, tự hỏi không biết Gnafron co mơ hay không đây. Đột nhiên Mady đưa tay chỉ về phía một khoảng đất rộng, đây đó có một vài lán trại được dựng lên. Đó đúng là khu trại rồi, chia cắt với con đường bằng mỗi một hàng rào lưới mà chắc thay thế cho bức tường bị phá từ hai năm nay. Không ai có thể lại gần lũ chó, chúng đều bị nhốt trong những chiếc chuồng nhỏ cách xa hàng rào, nhưng ở lối vào khuôn viên có một toà nhà gạch, chắc đó là nhà của ông chủ.
- Mady gõ cửa đi, - Gnafron đề nghị.
- con gái bao giờ cũng được đón tiếp tử tế hơn con trai!
Một người đàn ông xuất hiện, khuôn mặt đỏ phừng phừng như bị xung huyết, ông ta đang cầm khăn ăn trên tay, có vẻ khó chịu vì bị quấy rầy vào giữa bữa ăn.
- Các người muốn gì hả?
- Bọn cháu tìm hai con chó becgiê kiểu chó sói bị biến mất ạ, một con là của người mù và một con của cháu. Bọn cháu đoán là chúng bị đem tới đây.
- Lúc nào?
- Con đầu tiên cách đây bốn tuần ạ, còn con của cháu thì cách khoảng 10 ngày.
Người đàn ông gãi gãi cằm:
- Thôi được! Mấy đứa chịu khó đợi ta một tí tẹo thôi nhá, ta uống nốt chỗ cà phê đã.
Cái "tí tẹo" của ông ta kéo dài hơn nửa giờ đồng hồ! Chúng tôi đang hết hy vọng thấy ông ta trở ra thì cửa bật mở. Ông ta mặc một chiếc áo choàng màu ghi, chắc là áo ông dùng trong lúc săn sóc lũ chó đây.
- Xem nào, chó bị ăn cắp à? Các cháu có chắc không đấy? Hừ. Ta làm sao biết được chó nào la chó bị ăn cắp cơ chứ? Dù sao ta cũng không thể hỏi khách hàng giấy chứng nhận sở hữu được! Con chó của các cháu trông ra sao nhỉ?
Mady tả Briquet, chú chó đã mất cách đấy khá lâu, rất dễ nhận ra vì cái chân khập khiễng.
-A! - Người đàn ông reo lên. - Con chó bécgiê khập khiễng chứ gì! Ta có nó đấy, theo ta!
Ông rảo bước về phía một chiếc chuồng có bốn, năm chú chó đang nép sát vào nhau để cho ấm hơn.
- Con này, phải không? - ông lái buôn lên tiếng.
- Nhưng mà... bọn cháu lại chưa bao giờ nhìn thấy nó ạ! - Mady thú nhận. - Chúng cháu chỉ biết tên nó là Briquet thôi!
Cô vừa phát âm cái tên ấy khỏi miệng thì một con chó chợt đứng bật dậy và khập khiễng lại gần. Đúng là chú chó của ông mù rồi. Quả thực nó hơi giống Kafi, song không đẹp bằng, và nhỏ mình hơn. Mady giơ cánh tay qua tấm lưới, Briquet ngưng đầu như đề được vuốt ve. Nó có cái nhìn thật dịu hiền và thông minh. Tôi hỏi ông buôn chó:
- Có phải người đàn ông đem nó tới đây trông to lớn không ạ?... Có bộ tóc xoăn hung đỏ?
- Đúng đấy! Anh ta cứ nài tôi giữ nó mãi, bao rang nó là một con chó hoang cứ lảng vảng suốt trong sân nhà anh ta và làm anh ta rất khó chịu. Các cháu bảo rằng nó không phải một con chó hoang hả?
- Nó bị ăn cắp của một người mù ạ... và còn một con nữa, đẹp hơn rất nhiều, cũng bị gã đàn ông đó lấy cắp đấy ạ!
- Các cháu nghĩ thế ư? Ta không nhớ là đã gặp lại gã ấy lần nào cả... vơi con chó như thế!
- Có đấy bác ạ, một con chó becgiê rất to, bốn bàn chân màu lửa và một đốm đỏ ở ức. Nó đeo một vòng cồ bằng da có đinh nhỏ mạ vàng.
Ông buôn chó ngẫm nghĩ:
- Xem nào, xem nào, - ông vừa nói vừa gãi gãi cằm. - đầu bàn chân màu đỏ, vòng cồ đinh vàng... phải, quả vậy... bà vợ tôi đã nhận nó, nhưng chúng tôi không còn nó nữa rồi.
- Bác đã bán nó rồi ư?
- Các cháu nghĩ xem, nó đẹp thế kia mà!
Tôi khó khăn lắm mới ghìm được những giọt nước mắt:
- Nhưng cái người mua nó ấy, bác có quen người ta không ạ? Bác có địa chỉ của người ta không?
- Ôi chao! Thế người ta có bao giờ hỏi tên các cháu khi các cháu mua một đôi giày hay một chiếc cần câu không?
Ôi! So sánh Kafi với một đồ vật tầm thường thì thật là quá xuẩn ngốc!
- Tất cả những gì tôi có thể nói với các cháu là nó được bán vào hôm thứ bảy, cho một người đàn ông khoảng 40 tuổi, có vợ đi theo. Họ đều rất trang nhã và quý phái.
- Họ không nói là họ sống ở khu phố nào của Lyon ạ?
Ông ta lại gãi cằm, cố nhớ lại:
- Xem nào, tôi thấy hình như họ., phải rồi, bà vợ muốn biết nó liệu có nhảy qua bờ tường bao quanh sân nhà không, Bà ấy giải thích rằng bà ấy sẽ dắt nó đi dạo^ hàng ngày xung quanh khu đồn luỹ cổ hay trong công viên thể thao gần nhà. Đó la tất ca những gì tôi có thề nói với các cháu, thật là nho nhặt, các cháu thấy đấy.
Rồi ông vội vã thâu tóm câu chuyện:
- Hãy mang con này đi. Tôi cho các cháu đấy vì chẳng ai muốn nó cả!
Briquet có vẻ đoán được rằng chúng tôi sẽ mang nó đi theo. Nó cứ đứng áp vào lưới, nhìn về phía chúng tôi. Khi ông bán chó mở chuồng, nó chạy vội về phía Mady, chắc hẳn là vì cô là người đầu tiên nói ra tên nó.
Hạnh phúc vì lại được tự đo, hạnh phúc hơn nữa vì lại được ai đó quan tâm chăm sóc, Briquet vẫy đuôi rối rít, và cứ thỉnh thoảng lại quay đầu lại, trong mắt ánh lên một niềm biết ơn sâu sắc. Đúng là nó đi hơi khập khiễng, nhưng với một dáng vẻ hoàn toàn không vô duyên chút nào. Mady không giấu được nồi vui mừng vì đã tìm lại được người dẫn đường cho ông bạn già, tôi cũng vui sướng như vậy, nhưng tôi phải thú nhận điều này: có một thoáng ghen tị cứ nhói lên trong lòng tôi. Mady hiểu điều đó. Cuối cùng, co dừng lại và cầm lấy tay tôi, im lặng không nói gì cả, chỉ đơn giản là để tôi hiểu rằng cô muốn chia sẻ nỗi buồn với tôi. Trời đã bắt đầu tối, đã đến giờ Mady phải về, cô nói:
- Mình không muốn hai bạn phải chạy, hãy để Briquel về nhà mình cũng được. Mẹ mình sẽ làm cho nó một món súp xương gà rất ngon mà nhà mình đã ăn buổi trưa.
Gnatron và tôi chưa muốn về. Từ chỗ chúng tôi đang đứng, gần nhà thờ, chúng tôi có thề quan sát toàn bộ thành phố. Tôi thầm nghĩ rằng biết đâu Kafi lại đang ở dưới một trong số những mái nhà kia, và rằng nó cũng đang khóc, theo cách của nó, vì đã mất tôi. Tôi lẩm bẩm nhắc lại những lời tả về những người đã đem nó đi. "Họ có thề dắt nó đi dạo xung quanh đồn luỹ cồ hay trong khuôn viên thể thao gần đấy."
Rồi đột nhiên, tôi xiết chặt tay Gnafron:
- Bản đồ của cậu?... Cậu có bản đồ ở đây không?
Gnafron luôn luôn mang theo mình tấm bản đồ của thành phố Lyon và khu ngoại ô, một bản đồ luôn phục vụ cho chúng tôi trong những chuyến xông pha đây đó. May mắn là dù mặc bọ complet ngày chủ nhật nhưng hắn vẫn nhớ mang nó theo.
Tôi quỳ xuống căng mắt tìm ở phần bên trái của bản đồ, còn Gnafron thi dán mắt về phần bên phải. Chiến luỹ cổ ngày xưa để bảo vệ thành phố, được thề hiện trên bản đồ bằng những chấm tròn nhỏ màu nâu viền đen. Còn công viên, các khuôn viên nhỏ, bãi đất thì được thể hiện bằng màu xanh lá cây. Đột nhiên ngón tay tôi bất động.
- Đây này Gnafron, màu nâu và màu xanh ngay sát cạnh nhau.
Hai chấm nhỏ đó nằm trên khu đồi Saint-Foy kéo dài tới đồi Fourvière và nó cũng nhìn xuống toàn bộ dòng sông Saône.
- Mình chắc chắn là ở đây, ở Saint-Foy đấy cậu ạ. Mà cậu xem này, không cách xa đây lắm đâu. Cái đó giải thích tại sao mấy người mua Kafi đó lại đến trại chó này chứ không phải đến chỗ khác.
Gnafron tròn mắt ngạc nhiên nhìn tôi rồi rối rít reo lên tán thưởng:
- Ôi chao, Tidou của tôi ơi, cậu tuyệt vời lắm!
Tôi nhìn đồng hồ: - Mới năm giờ mười. Chúng ta vẫn còn thời gian!
Nửa giờ sau, chúng tôi đã tới Saint-Foy, một vùng ngoại ô kỳ lạ mấp mô những ụ đất rồi hố trũng, ở đó những tòa nhà lớn hiện đại dường như khoe khoang độ cao ngất trời trước những ngôi nhà nhỏ lè tè rải rác trên ngọn đồi Một con đường bao quanh toàn bộ khu công sự cổ, dưới chân công sự là một bãi tập thể thao rộng cũng được chỉ dẫn trên bản đồ. Rất nhiều nhà có vườn và tường rào bao quanh sân. Trước mỗi nhà, toi lại đừng lại để gọi Kafi, mới đầu còn khe khẽ, sau to dần:
- Kafi... Kafi!...
Thậm chí tôi còn lôi chiếc còi siêu âm ra thổi.
Âm thanh rất cao của nó đã quen thuộc với Kafi từ lâu rồi. Để gọi nó, tôi thổi hai tiếng ngắn gần nhau rồi lại hai tiếng khác ngay sau đó. Kafi vẫn hiểu đó là tín hiệu khẩn gọi nó và nếu không thể đến được, nó se sủa. ôi chao! Chẳng thấy động tĩnh gì cả.
Chẳng mấy chốc chuông nhà thờ đã đồ hồi bảy giờ. Đã đến lúc không thề không về! Trong lúc đi xuống con đường vắng lặng, tôi thổi hai tiếng còi một lần cuối. Chẳng có tiếng trả lời.
Chúng tôi đã ở ngoài khu vực Saint-Foy, đột nhiên tôi có cảm giác như có một cái gì đó đằng sau. Đúng lúc vừa quay lại thì tôi suýt nữa bị ngã ngửa vì hai chân trước của một chú chó chồm lên vai. Kafi. Đó là Kafi!
Nó ở đâu ra thế này? Làm thế nào mà nó lại thoát đi được? Tại sao trước đó nó không trả lời tiếng còi của tôi? Chắc là nó đã phải có một cố gắng phi thường để tẩu thoát với thương tích thế này. Sướng điên lên vì tìm được chúng tôi, nó cứ nhảy chồm chồm đằng sau chúng tôi, cắn cắn quần áo và liếm tay rối rít. Tôi xiết chặt nó vào mình và khóc vì hạnh phúc.
- Cậu thấy không Gnafron, nó đã trở về vào đúng ngày lễ Noel!
Gnafron và tôi lại âu yếm ôm hôn chú Kafi dũng cảm của mình rồi cả ba chạy về hướng đồi Chữ Thập Hung, ở đó những ánh sáng đèn xa xa nhấp nháy như những vì sao.