← Quay lại trang sách

Bảy Trên cầu Saint-Vincent-

Lúc 8 giờ, sau khi nuốt vội bữa điểm tâm (thậm chí còn không nghĩ tới việc cám ơn mẹ vì món bánh sừng bò nóng giòn mà mẹ đã cố mua cho tôi), tôi rời khỏi nhà cùng Kafi. Thật kỳ lạ làm sao! Một màn sương dày dặc phủ trùm lên con phố Mảnh Trăng. Tôi chạy xuống căn cứ như bay. Bốn đứa đã có mặt ở đó. Nhìn sắc mặt, tôi đoán ngay chúng nó cũng vừa trải qua một đêm trằn trọc không yên. Mady cũng tới ngay sau đó, Gnafron tới sau cùng, nhưng hắn không có lỗi: hôm qua, mẹ hắn phải đi làm cả ngày ở nhà máy nên sáng nay bà dậy muộn. Vào một sáng như sáng mùng 1 hôm nay, hắn không muốn ra khỏi nhà mà chưa ôm hôn mẹ.

- Nào, phi đến đấy thôi! - Corget lên tiếng. - Đến sớm một chút thì tốt hơn đấy!

Phố còn lặng ngắt không bóng người. Dân Lyon đã đón giao thừa rất muộn nên họ ngụ bù thật lâu cho đẫy giấc. Thành phố tối mù mù, có cảm giác như sẽ không bao giờ trời sáng lên được. Trên bến sông, đèn đường vẫn sáng.

Hôm qua lúc từ sở cảnh sát về, chúng tôi đã thấy trước địa điểm ẩn nấp, phía sau lan can kè dá, trên gờ tường dày đỡ lan can. Với sương mù thế này, chúng tôi chắc sẽ không bị phát hiện. Kail cũng hiểu rằng chúng tôi đang chờ đợi một điều gì đó, thay vì rậm rịch rối rít lên và đòi nhảy lên kè đá, nó ngoan ngoãn nằm xuống cạnh tôi. Chúng tôi lần lượt đứng lên, đảo mắt dõi xung quanh. Xe cộ đi lại còn rất ít: chỉ có vài chiếc ôtô con qua lại, không có xe tải như ngày thường. Gã đàn ông được giao nhiệm vụ đợi ông mù vẫn chưa tới. Cũng không có dấu hiệu của cảnh sát. Liệu ai có thể tin vào điều sắp xảy ra tại nơi này?

9 giờ! Chẳng thấy động tĩnh gì cả. Sương không tan, mà trái lại. Đèn đường vẫn bật sáng và xe cộ đang đi lại, đèn pha cũng bật sáng. Cái lạnh ẩm ướt bắt đầu tấn công chúng tôi, đọng những giọt nhỏ xíu trên quần áo. Kafi giũ giũ bộ lông.

9 rưỡi! Cái lạnh và một nỗi âu lo nặng nề ngày càng xâm chiếm chúng tôi. Liệu cảnh sát có đến không?

9 giờ 40 phút! Báo động! Một chiếc ôtô tối màu, có lẽ màu đen thì phải, vừa đỗ xịch dọc vỉa hè, cách cầu 200 mét. Vì sương mù rất dày nên rất khó phân biệt nó. Song, nhìn vào hình đáng xe, Corget nhận ra đó là một chiếc xe con to bự, chắc là hiệu nước ngoài. Hơn nữa, chẳng ai xuống xe cả. Chắc chắn là xe gã mặc áo khoác ghi rồi.

9 giờ 50 phút! Bến sông dần dần nhộn nhịp hơn, ôtô qua lại ngày một đông, người đi bộ dựng cồ áo khoác để tránh sương mù băng giá. Chiếc xe con màu đen van đỗ cạnh vỉa hè thẳng tầm nhìn về phía cây cầu.

10 giờ! Đến lượt Gnafron phải nhô lên quan sát, hắn thấy hai người đang nói chuyện trên vỉa hè. Hắn nhận ra đó là gã Xoăn và tên đồng bọn. Nhưng cảnh sát đâu rồi? Corget cố gắng trấn an chúng tôi.

- Các cậu đừng lo lắng quá! Ông cảnh sát trưởng phải phòng ngừa kỹ càng chứ. Cảnh sát chỉ xuất đầu lộ diện vào giây phút cuối cùng.

10 giờ 15 phút! Đúng lúc tới phiên tôi nhô lên để quan sát thì thấy gã Xoăn và tên đồng bọn chia tay nhau, sau khi xiết nắm tay thật chặt như những người quen trao đồi những lời chúc mừng vậy. Chắc là chúng thấy ông mù xuất hiện ở đầu con phố nhỏ đây. Phải rồi, ông kia kìa!

Ông Vauquelin!

Các bọn khác cùng nhổm hết cả lên. Mặc dù sương mù dày đặc nhưng chúng tôi không thể nào lầm được, đúng là bóng đáng người bạn già của chúng tôi! Ông tiến những bước nhỏ xít nhau, vội vã hơn bình thường. Tội nghiệp ông! Chúng nó vừa báo thấy chú chó của ông trên bến sông là ông vội đi tìm nó ngay. Đúng như gã Xoăn quan sát, ông trung thành đi trên vỉa hè với ý định sẽ qua đường tại chỗ đối điện cây cầu.

Chỉ còn 100 mét nữa là tới nơi! Rồi còn 50 mét! Gã Xoăn kín đáo giãn ra đề quan sát vụ tai nạn từ đằng xa. Gã đồng bọn đang tính toán để gặp ông mù vào đúng lúc ông ra tới trước cây cầu.

Tim đập loạn xạ, chúng tôi cố tìm một cách vô ích dấu hiệu nhỏ nhất chứng tỏ cảnh sát đã có mặt, sẵn sàng can thiệp vào vụ này. Thái dương tôi giật giật, tim đập mạnh tới mức làm tôi nghẹn đau. Ngay cạnh tôi, Mady cũng run rẩy như một chiếc lá. Một cách vô thức, cô xiết chặt bàn tay tôi, móng tay bấm sâu vào da thịt.

Gã đồng bọn của Xoăn vừa gặp ông mù. Gã nói gì đó với ông, và vừa nói, hắn vừa cúi người để nhìn chiếc ôtô. Ôi! Cảnh sát đâu rồi nhỉ? Nỗi bực tức của chúng tôi đã dâng lên ứ nghẹn đến cực điểm! Chúng tôi ở đây mà, chúng tôi thừa sức vọt lên! Chẳng lẽ chúng tôi phải im thít thế này mà tham dự vào một bi kịch khủng khiếp ư?

Đột nhiên, gã lái xe ôtô đen ra hiệu. Gã sắp khởi động máy đây. Thế là thằng kia nắm tay ông mù. Tôi muốn mình có thể nhắm mắt lại để khỏi phải nhìn những điều sắp xảy ra. ôi! Những giây phút chờ đợi chết người, cảnh sát đâu, mau lên, tới đi nào!...

Gã đàn ông và ông mù đang xuống tới lòng đường, còn chiếc ôtô kia đang lại gần, bắt đầu tăng tốc. Chỉ còn cách 30 mét thôi, rồi 20 mét. Tai nạn là không thể tránh được! Chẳng gì có thể ngăn cản nồi nữa rồi!

Nhưng đột nhiên, một người đi xe đạp mà không hề ai để ý tới chợt nhảy phắt khỏi xe. Bằng một cú đấm trời giáng, anh ta cho tên thanh niên kia lăn lông lốc trên lòng đường và kéo vội ông mù ra phía sau. Chiếc ô tô đen đi qua, những hồi còi đồng loạt vang lên để bắt nó đừng lại. Thay vì tuân lệnh, gã lái xe nhấn ga tăng tốc. Ba phát súng vang lên, nhằm lốp ô tô của hắn. Một bánh xe nổ tung, chiếc xe bị chệch hướng, ngoằn ngoèo rất nguy hiểm, sượt vèo qua cột đèn và cuối cùng đâm uỳnh vào lan can kè đá, rồi khựng lại bất động. Cửa xe bật mở. Gã đàn ông mặc áo khoác ghi nhào vội ra, chạy băng qua đường rồi mất hút vào một con phố nhỏ.

Tất cả chỉ diễn ra trong vài giây. Tất cả chúng tôi cùng nhảy ao lên. Tôi và Mady chạy về phía ông mù. Động tác hơi đột ngột của viên cảnh sát đạp xe đã làm ông trượt ngã xuống đất. May là cú ngã không nặng, ông lại đứng dậy, phủi phủi áo khoác, tự hỏi cái gì vừa xảy ra và những tiếng ồn ào này có nghĩa gì đây. về phần ga đàn ông muốn đẩy ông vào bánh ô tô, gã đã bị tóm gọn... còn gã Xoăn thì cũng chẳng chạy được xa nữa. Corget, Guille và Bisteque đã nhanh chóng rượt theo gã. Trong khi tôi đang thu lại chiếc can trắng cho ông mù, có ai đó lên tiếng hỏi từ phía sau lưng tôi:

- Con chó của cháu đâu? Cho nó đuổi theo được không?

Tôi vỗ Kafi:

- Đuổi theo! Nhanh lên!

Kafi nhảy phắt ngay xuống lòng đường rồi lao về phía con phố nhỏ ma gã chạy trốn đã biến mất. Tôi bám theo nó cùng với ba viên cảnh sát, không biết từ đâu chạy ra. Cuộc săn đuổi gã đàn ông nhanh chóng kết thúc. Sau khi chần chư hai, ba lần, Rail dừng lại trước cánh cửa vào một hành lang và sủa nôn nóng. Tôi chạy lại định mở cửa.

- Không, - Một viên cảnh sát ngăn, - Không phải cậu, nguy hiểm đấy!

Súng lục lăm lăm trong tay, anh ta xông vào hành lang trong khi tôi giữ Kafi Gã đàn ông đang tron trong đó, dưới chân cầu thang.

- Giơ tay lên!

Biết mình đã bị tóm gọn, gã bất lương không dám phản kháng, đành chịu để dẫn tới chiếc xe hòm nhỏ nguy trang ngay gần đó, trên một ngõ nhỏ. Giây lát sau, những viên cảnh sát khác cũng tới cùng các bạn tôi. Họ giải theo tên nhặt giẻ rách và thằng đồng bọn.

- Hãy giải ba đứa đi cho tôi! - ông cảnh sát trưởng ra lệnh.

- Về đồn ạ?

- Không, về Saint-Foy, nếu có tên nào ở trên đó thì không nên đề cho hắn có thời gian chuồn mất... Chúng ta chắc chắn se phát hiện được ở đo những điều thú vị đấy!

Rồi ông quay lại phía chúng tôi:

- Hãy đi cùng bọn tôi nhé, các cậu nhỏ... cả ông bạn mù của các cậu nữa.

Tôi chạy đi tìm ông Vauquelin trên bến sông. Mady đã dẫn ông vào một quán cà phê nhỏ, cô gọi cho ông một đồ uống nóng để dịu cơn xúc động. Tội nghiệp ông Vauquelin! ông vừa mới biết rằng chú chó Briquet của ông chưa chết! Ông đã quá xúc động vì tin ấy.

Năm phút sau, chiếc xe hòm đen của cảnh sát đầy ních người đã khởi động và sau khi phóng hết tốc lực dọc qua bến sông, nó bắt đầu trèo lên con dốc cao của Saint-Foy.

Thật là một bất ngờ khó chịu cho bà Marnier quý phái khi xe cảnh sát đỗ xịch trước toà biệt thự tháp nhọn này, vào một buổi sáng mùng 1 như sáng hôm nay!

- Trời ơi! - Bà ta kêu lên khi chạy ra mở cổng. - Điều gì xảy ra vậy? Tai nạn ư? Các vị đem ông chồng tôi bị thương về ư?

- Bà sẽ hiểu ngay thôi. Hãy để chúng tôi vào!

- Ôi! - Bà Marnier lại kêu lên khi trông thấy còng số 8 trên cồ tay chồng - Đây là một sự nhầm lẫn đấy! Mấy ông này chắc chắn không hiểu gì cả, anh...

- Đủ rồi! - Ông cảnh sát trưởng cắt ngang. - Bà hãy chỉ nói khi nào chúng tôi hỏi!

Ông cảnh sát trưởng bắt đầu cuộc thẩm vấn:

- Anh đã muốn tạo một tai nạn đề loại bỏ người đàn ông mù này. Tại sao ông ấy lại gây khó khăn cho anh đến thế?

Kẻ bị kết tội không nhíu mày. Bằng cái giọng mũi rành rọt của mình, gã trả lời bằng cách đánh lạc hướng câu hỏi:

- Tôi chẳng hiểu người ta muốn gì ở tôi nữa. Không hề xảy ra tai nạn mà.

- Nếu viên cảnh sát đi xe đạp mặc thường phục không tới can thiệp thì anh đã cán người đàn ông này rồi. Từ hơn một giờ trước, anh đa đỗ xe cách cầu 200 mét, đợi khoảnh khắc thuận lợi.

- Tôi dừng xe ở đó đó chờ một người tôi hẹn gặp nhưng người đó không tới. Mặt khác, tôi muốn loại bỏ người này để làm gì kia chứ? Tôi đâu có quen biết ông ta.

- Nhưng ông ta thì có thể nói được là ông ta quen biết ông đấy!

- Chắc chắn là vậy, - ông Vauque- lin khẳng định. - chính là anh ta, tôi có thể phân biệt được giọng anh ta giữa hàng nghìn giọng khác, ông có thể hỏi xem anh ta hút thuốc gì. Đó là thuốc lá vàng chanh, hoàn toàn chắc như vậy.

Bị bắt dốc túi áo ra, gã đàn ông rút ra một hộp thuốc lá Mỹ rồi gã ném lên thành sa-lông với một vẻ giễu cợt:

- Cái này chứng tỏ cái gì đây? - Gã nói - Những người khác cũng hút thuốc lá ngoại quốc. Ông này nhầm rồi. Mà tôi có thể gặp ông ta ở đâu kia chứ?

- Ở nhà tôi, - Ông mù trả lời nôn nóng. - anh đã đến nhà tội nhiều lần, cố mua cho bằng được chiếc đàn dương cầm của tôi.

Kẻ bị kết tội không trả lời ngay. Gã suy nghĩ, rồi thay đồi chiến thuật!

- Cũng có thể lắm. Quả là tôi cũng đã mua bán đàn pianô thật. Nếu tôi đã từng tới nhà ông này thì cũng chẳng có lý gi dẫn tới cái vụ mưu sát mạo xưng này hết!

- Có lý do đấy.

- Thật điên rồ! Ai có thể làm các vị tin vào cái điều ngu ngốc này cơ chứ?

- Là mấy cậu này đấy... và chúng tôi tin vào chúng!

Gã ta vừa nhìn chúng tôi vừa bĩu môi:

- Tôi cũng chẳng quen biết gì chúng hết! Chang lẽ canh sát lại đi tin vào miệng lưỡi mấy đứa nhóc con ư?

- Tối qua, chúng đã nghe được một cuộc nói chuyện giữa anh với tên đòng loã, tên này này. Chúng đã núp sau ngôi biệt thự. Lúc đó khoảng 6 giờ, trong phòng làm việc của anh.

Tên bất lương hằn học liếc nhìn chúng tôi, trong khi gã Xoăn và thằng bạn cúi gằm mặt.

- Nếu anh có một trí nhớ tồi, - ông cảnh sát trưởng tiếp tục - thì hai cậu bé này có thề nhắc cho anh nghe, từng từ một, những gì đã được nói ra.

Lần này, gã đàn ông đã mất đi một chút vững vàng. Hắn lại đổi chiến thuật một lần nữa, giữ im lặng. Rồi ông cảnh sát trưởng quay về phía gã Xoăn:

- Còn anh, vai trò của anh trong vụ này là gì hả?

Gã Xoăn thận trọng tính nước vờ như không biết gì hết.

- Tôi chẳng biết gì cả ạ, tôi chỉ đi dạo trên bến sông, lúc người ta bắt tôi, tôi chẳng hiểu tại sao cả!

Tôi không thể nén nồi một tiếng kêu phẫn nộ:

- Thế còn con chó của ông mù? Và con chó của tôi? Ai đã bắt trộm nó?

Hắn chần chừ giây lát, rồi, chắc nghĩ rằng bắt trộm chó chẳng phải là một tội gì lớn nên hắn ấp úng:

- Chúng... chúng cứ rình mò thường xuyên trong sân, cái đó làm tôi rất khó chịu. Tôi đã giải phóng mình khỏi chúng.

- Thế còn lan can cầu thang tầng trên cùng ai đã cưa nó?

- Lan can ư?... Tôi không biết.

Dĩ nhiên là sẽ quá dại dột nếu gã thú nhận. Gã biết không có nhân chứng.

Ông cảnh sát trưởng bắt đầu sốt ruột, ông quay về phía ten thứ bạ. Dĩ nhiên là cả gã này cũng không biết tại sao gã lại phải ở đây. Rằng gã không hề tới Saint-Foy tối qua. Ban nãy, gã đang bình thản đi trên bến sông thì thấy một ông mù có vẻ khó khăn đi qua, gã thấy bắt buộc phải giúp ông qua đường. Gã công nhận việc sống ở phố Con Lạch cồ nhưng chối việc gặp gã Xoăn trong chiếc xe tải màu vàng.

- Tôi không hiểu, thưa ngài cảnh sát trưởng, - Gã vừa nói vừa duỗi tay ra.

- Lũ trẻ này bịa ra cả đấy!

Chúng tôi sôi lên vì phẫn nộ. ông cảnh sát trưởng ra hiệu cho chúng tôi yên lặng.

- MỘT sự im lặng nặng nề đè lên căn phòng. Liệu cảnh sát có tin mấy người này không? Liệu họ có nghĩ rằng bọn tôi là đầu trò đùa cợt không?

Ông cảnh sát trưởng đi đi lại lại khắp phòng, vừa đi vừa gãi gãi trán. Đột nhiên, ông quay về phía những thanh tra viên và cảnh sát:

- Hãy lục soát căn nhà. Phòng này đầu tiên, những phòng khác sau.

- A, không được, - Bà Marnier phản đối với vẻ tức giận hết mức của bà ta. - phòng này là phòng tôi, tôi cấm các ông!

Để thề hiện sự phẫn nộ của mình, bà ta đứng dựa vào tường, khoanh tay, mắt nhìn các cảnh sát đầy thách thức.

- Tôi rất tiếc. - Ông cảnh sát trưởng lạnh lùng nói.

Rồi ông quay về phía đám nhân viên dưới quyền:

- Các anh hãy thực hiện công vụ của mình đi!

Trong vài phút, căn phòng khách đẹp đẽ đã bị đảo lộn tứ tung. Người đàn bà kia vẫn đứng nguyên tại chỗ, tay bắt chéo, nhưng đã mất đi vẻ thách thức tự tin. Ông cảnh sát trưởng vừa đọc được trong mắt bà ta một thoáng lo lắng, ông nhanh chóng lại gần bà ta:

- Bà lùi ra!

Bà ta không chịu động cựa. ông cảnh sát trưởng ra hiệu cho hai nhân viên túm tay bà ta và lôi ra xa. Rồi ông kiểm tra bức tường, chỗ bà ta đã đứng che nó, lấy bức tranh khung mạ vàng cảnh thành phố Lyon và nhấc nó xuống. Ông bắt đầu lần tay trên lớp giấy bồi tường, đó là lớp giấy bồi in những cành lá hoa rất to mau ghi và màu vàng. Đột nhiên, ông quay về phía người đàn bà và nói:

- À! Tôi hiểu tại sao bà lại cứ đứng đây, dựa vào bức tường này rồi!

Bằng một cử chỉ đột ngột, ông xé một mảng giấy bồi và phát hiện ra một cái hốc. Ông lôi từ trong đó ra một cái hộp nhỏ bằng gỗ.

Gã mặc áo khoác ghi và mụ vợ tái mét mặt. Giữa sự im lặng đầy nặng nề ấy, ông cảnh sát trưởng đặt chiếc hộp lên đôn và mở nó ra. Trong đó không đựng tiền, mà toàn giấy tờ. Ong xem xét từng tờ một. Rồi cuối cùng, ông lắc lắc đầu, thở phào nhẹ nhõm:.

- Cuối cùng thì đây! - ông kêu lên. - Chúng ta cứ tự hỏi đâu là chìa khoá của câu đố, nó đây này. Chúng ta chỉ còn thiếu mỗi bằng chứng này thôi. - Ông mở một bức thư ra, quay về phía chúng tôi và cao giọng đọc:

"Tôi là Geneviève Vauquelin, trú tại Lyon, trên dốc Salnt-Barthelemy, tuyên bố rằng trong trường hợp tôi còn sống sau khi ông anh của tôi là Antoine Vauquelin chết, sẽ bãi bỏ việc thùa kế chiếc đàn dương cầm thuộc quyền sở hữu của ông. Tôi tuyên bố nhượng nó cho ngài Charles Marnier, trú tại phố Dragonne ở Saint-Foy ngoại ô Lyon, vì biết ơn những giúp đỡ lớn lao mà ngài đã dành cho anh trai tôi.

Lyon, ngày 23 tháng 7 năm 19...

Ký tên"

Ông vừa đọc xong bức thư thì người bạn già của chúng tôi mặt mũi nhợt nhạt, ông đứng dậy run rẩy đưa tay ôm đầu và suy nghĩ nát óc.

- Còn ngày tháng? - ông hỏi. - Bức thư ấy viết ngày bao nhiêu ấy nhỉ?

- Ngày 23 tháng 7 năm ngoái!

Ông thì thầm nhắc lại, rồi đột nhiên ông kêu lên:

- A! Tôi hiểu rồi! Phải, tôi chắc chắn đấy. Tội nghiệp bà em của tôi! Bà ấy làm điều nay để cứu tôi đấy. Vào tháng 7 năm ngoái, tôi đã bị ốm rất nặng. Để tôi được chăm sóc tốt hơn bà ấy đa đưa tôi vào một bệnh viện tư. Tôi thì không muốn vậy vì tôi biết chúng tôi có ít tiềm Vậy là bà ấy giải thích rằng bà ấy đã tiết kiếm bí mật được một tí tiền.

Tiết kiệm ư! Không, chúng tôi đâu có, nhưng lúc ấy tôi ốm đến nỗi tin vào điều đó. Giơ thì toi chắc chắn rằng người đàn ông này đã đề nghị với bà ấy một vụ mua bán bỉ ổi. Biết rằng tôi sắp chết nên hắn ta đã giơ tiền cho bà ấy đề bắt bà ấy viết và ký vào tờ giấy này.

Nước mắt nức nở ướt cả mái tóc bạc trắng rất đẹp của ông khiến ông không nói tiếp được nữa. ông cảnh sát Trưởng quay về phía gã đàn ông tự xưng là thương gia.

- Tôi nghĩ rằng anh không còn đủ gan để chối nữa roi. ở tờ giấy thứ hai này. Anh đã kiến nghị với chính phủ về xuất xứ ngày xưa của chiếc dương cầm của Franz Liszt này. Qua lá thư này chính phủ sẽ cho anh một món tiền khổng lồ, gần bằng một gia tài. Điên tiết vì thấy bệnh tình không giết nồi người đàn ông này, và lại có trong tay bức thư của bà em gái có giá trị như một chúc thư, anh đã lạnh lùng quyết định sẽ trừ khư ông ấy.

Lần này, cả bốn bị cáo đã mất hẳn vẻ ngạo nghễ. Dán mắt xuống đất, chúng không còn dám nhìn thẳng vào mặt chúng toi nữa. ông cảnh sát trưởng tiếp tục hỏi gã mặc áo khoác ghi, ông muốn làm rõ tất cả.

- Lầm sao anh biết được sự tồn tại của chiếc đàn dương cầm có giá trị đặc biệt này? Anh trả lời đi!

Bằng một giọng lầm bầm, không ngẩng đầu lên, gã kể lại việc đã gặp bà em gái của ông mù ở nhà một người cho vay nặng lãi khi bà tới đó vay tiền, song, để không phải thế chấp chiếc đàn pianô, đồ vật duy nhất có giá trị của ông anh, bà đã ra về tay không. Thế là gã sắp xếp để gặp riêng bà vào ngày hôm sau. Hắn đã đề đạt vụ đồi chác này và bà đã hấp tấp đồng ý vì chiếc đàn sẽ chỉ bị lấy đi khi nào ong anh bà chết mà thôi.

- Một sự sắp đặt bề ngoài có vẻ thành thật lắm, nhưng sẽ nhanh chóng đem lại cho anh một món không lồ, - Ông cảnh sát trưởng nói, - Vì người đàn ông này ít có may mắn sống sót. Anh đã cho bà ấy bao nhiêu?

- Một khoản lớn lắm ạ!

- Chính xác là bao nhiêu?

- Tôi không nhớ nữa, một khoản rất lớn.

- Ồ, - Ông Vauquelin phản đối. - chắc chắn là không! Tôi có may mắn là đã nhanh chóng khỏi bệnh dù đã hết cả hy vọng. Tôi chỉ ở trong bệnh viện tư có vài ngày thôi.

Tới giờ thì ông cảnh sát trưởng đã biết khá đủ, và chung tôi cũng vậy. Ong ta hiệu cho đám nhân viên:

- Giải chúng đi cho tôi!... Còn các cháu, chúng tôi sẽ đưa các cháu về dốc Saint-Barthélemy, cùng cả ông Vauquelin nữa!

Còng số 8 trên tay, bốn nhân vật độc ác ấy giậm gót lần cuối trên tám thảm phòng khách, những tấm thảm mà có trời mới biết đã được mua bằng những số tiền bẩn thỉu nào!

Mady dẫn người bạn già của chúng tôi về phía tiền sảnh, ông xúc động thì thào:

- Ôi các con của ta! Ta nợ các con nhiều quá. Ta chịu ơn các con cả đời!

- Ồ, ông đừng nói thế nữa. - Mady trả lời. - Tốt hơn ông hãy nghĩ tới việc Briquet đang chờ ông ở nhà cháu vả ông sẽ được gặp lại nó.