Chương 5 YIGAL
Một người thay đổi tổ quốc thì cũng như con chó thay đổi tiếng sủa... không tin tưởng được.
Chỉ dựa trên thực tế, anh có thể suy ra cái lý thuyết là dù ở bất cứ nơi nào, nếu anh có một số X người Do Thái thì anh sẽ có X + 2 ủy ban.
Tôi không bao giờ hiểu được sự tâng bốc này dành cho Mosesd[40]. Tôi tính là trong bốn mươi năm lang thang khắp sa mạc, chẳng biết cái gì vào cái gì, ông ta đã có thể thực hiện được những điều vĩ đại. Chẳng hạn như, ông ta chỉ cần dẫn người của mình đi ba mươi thước[41] mỗi ngày theo đúng hướng thì sẽ đưa được họ không phải đến Israel mà đến tận Anh cơ, và tránh được toàn bộ mớ bòng bong này.
Chúa không chết. Chẳng qua Người từ chối dính líu.
Tối hôm nọ tôi đưa bạn gái về nhà gặp cha mẹ. Họ thích cô ấy nhưng lại không thể chịu được tôi.
Mọi đàn ông trên bốn mươi tuổi đều là đồ vô lại.
• Shaw
Sau Thế chiến I, các nước châu Âu tiếp nhận một triệu năm trăm nghìn người tị nạn. Sau cuộc chiến tranh Hy Lạp - Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp tiếp nhận một triệu bốn trăm nghìn người tị nạn bị tống cổ khỏi Thổ Nhĩ Kỳ. Sau Thế chiến II, các nước châu Âu phải thích nghi với mười ba triệu người tị nạn. Sau cuộc chiến tranh Ấn Độ - Pakistan, cả hai phía tiếp nhận trên mười lăm triệu người tị nạn. Vậy mà ngay sau cuộc chiến tranh Ả rập Israel, các nước Ả rập lại tỏ ra hoàn toàn không có khả năng tiếp nhận vài trăm nghìn người tị nạn, và trong việc này chủ yếu chính họ mới đáng trách.
Thành phố Hoa hồng đỏ - “già đời bằng nửa Thời gian.”
• Đức Cha John William Burgon
Ở đất nước này chúng tôi kẹt vì thuế má ám ảnh, còn ở đất nước trước kia chúng tôi kẹt vì lưỡi lê.
Ích lợi của một trường đại học là phải làm sao cho lớp trẻ càng khác cha ông càng tốt.
• Woodrow Wilson
Tệ hơn cả chiến tranh là nỗi sợ chiến tranh.
• Seneca
Một trong những sự kiện lịch sử nổi bật nhất thế kỷ này là các nước Ả rập ngoan cố khẳng định họ không thua Cuộc Chiến Sáu Ngày. Bằng cách sẵn sàng hành động, trung thành với việc giải thích đơn giản các sự kiện và ủng hộ quyết tâm suy giảm của nhau, họ đã hoàn thành một phép màu. Họ thông báo một cách đơn giản cho nhau và ra thế giới, “Đó là một thắng lợi Ả rập,” và kết quả là họ không bị buộc phải tham dự hội nghị hòa bình nào, không phải tham gia cuộc hòa giải nào. Họ đã thực hiện được trong thế giới của ý chí những gì có thể không bao giờ thực hiện được trong thế giới của vũ lực, và thắng lợi của họ còn vĩ đại hơn vì nó thuộc về tinh thần chứ không phải vật chất hữu hình. Tốt hơn hết tất cả chúng ta hãy thích nghi với điều đã trở thành sự thật: người Ả rập đã thắng trong Cuộc Chiến Sáu Ngày và phải được đối xử như những kẻ chiến thắng.
Câu châm ngôn của Bion nói rằng mặc dù bọn trẻ ném đá vào lũ ếch để đùa vui, nhưng lũ ếch không chết đùa mà là chét thật.
• Plutarch
Hãy chăm sóc cái bụng của người khác và tâm hồn của chính mình.
Người Ả rập có thể thua trong mọi cuộc chiến, miễn là họ thắng cuộc cuối cùng.
Người Do Thái không đạt được điều gì nếu họ thắng mọi cuộc chiến nhưng thua cuộc cuối cùng.
Ai cũng phàn nàn về trí nhớ của mình, và không ai phàn nàn về óc suy xét của mình.
• La Rochefoucauld
Nếu bạn khăng khăng đòi đặt chỗ trên tàu Titanic thì đi vé hạng bét cũng chẳng ích lợi gì.
Lịch sử bám theo sát gót.
—★—Hàng năm, tại nhiều nước trên khắp thế giới, một nhóm chọn lọc những thanh niên sắp đến tuổi hai mốt phải đối diện với một vấn đề khó xử, dù làm họ phấn khởi nhưng lại vô cùng phức tạp. Họ phải ngồi xuống, suy xét mọi khả năng và chọn một giải pháp mà rồi sẽ quyết định tương lai của họ. Giải pháp đó, một khi đã được chọn rồi thì sẽ không thể thay đổi, và nếu nhầm, có thể sinh ra những hậu quả không hay sẽ làm hỏng họ luôn.
Tất nhiên, những điều trên có thể dùng để nói về bất kỳ người nào trên thế giới: một thời điểm nào đó trong độ tuổi hai mươi mốt, cậu ấy hoặc cô ấy sẽ phải thực hiện một loạt sự lựa chọn cốt yếu sẽ quyết định tương lai, nhưng thông thường ta không nhận thức được điều này. Những thanh niên tôi đề cập đến khó khăn lắm mới nhận thức nổi những gì họ đang làm, vì chỉ trong một thời gian ngắn họ phải lựa chọn cho mình quốc tịch mà họ có bổn phận trung thành trong suốt phần đời còn lại.
Do sự ngẫu nhiên về nơi sinh - hay quyết định đặc biệt của cha mẹ họ vào thời điểm đó - họ được quyền hợp pháp có hai hoặc thậm chí ba hộ chiếu khác nhau. Thời thơ ấu, họ có thể năm trước đi du lịch bằng hộ chiếu Anh, chẳng hạn như vậy, năm sau là hộ chiếu Ý, tùy theo hoàn cảnh. Nhưng đến tuổi hai mươi mốt, họ phải quyết định và tuyên bố chính thức, “Từ ngày tháng năm này tôi sẽ là một công dân Anh,” hoặc công dân Đức, công dân Mỹ.
Tôi quen một vài người có nhiều hộ chiếu như vậy, ấn tượng nhất là một cô gái Thụy Điển dễ thương sống tại vương quốc Tonga ở Nam Thái Bình Dương, một xứ sở chẳng mấy người nghĩ tới. Cha mẹ cô đều là người Thụy Điển, nên cô có quyền mang hộ chiếu Thụy Điển. Cô sinh ra ở London, nên cô cổ thể đòi hỏi quốc tịch Anh. Gần như cô đã sống cả đời ở Tonga, và đủ tư cách làm công dân Tonga. Và vì cha cô đã trở thành người Úc một vài năm sau khi cô ra đời nên cô cũng được tính đến trong cuộc vận động pháp lý và ra đi với một hộ chiếu của đất nước này.
Tôi gặp cô khi cô hai mươi tuổi, một thiếu nữ da trắng xinh đẹp sống giữa những người Tonga da ngăm đen và kích thích trí tưởng tượng của mọi chàng trai ghé qua hòn đảo của cô. Cô hay nói với tôi về việc khi đủ hai mươi mốt tuổi cô nên chọn cái nào trong số bốn hộ chiếu; tôi khuyên cô chọn Úc, vì chắc cô sẽ sống trong tầm ảnh hưởng của quốc gia này, nhưng cuối cùng cô lại làm tôi bất ngờ khi chọn Tonga, và lập luận của cô đã dẫn dắt tôi lần đầu tiên đến với lớp người mà sau này được biết đến như là “thế hệ thoát ly” Cô nói, “Tôi không muốn thuộc về bất cứ quốc gia lớn với những kế hoạch lớn nào. Tôi không muốn gánh trách nhiệm của Anh hay Úc. Cứ mặc cho họ giải quyết những vấn đề của họ theo cách của họ, không liên quan tới tôi. Tôi không muốn là người Thụy Điển với vấn đề điên đầu loạn trí phải sống cạnh nước Nga, để tôi phải bôi nhọ nước Mỹ lúc này vẫn đang cố gắng trở thành một đất nước tự do, để tôi phải tự bảo vệ mình chống lại nước Nga. Tôi muốn là công dân Tonga. Không ai căm ghét chúng tôi. Không ai đố kỵ với chúng tôi. Bất cứ cường quốc nào cũng có thể xâm chiếm chúng tôi bằng cách gửi tấm bưu thiếp một xu cho cảnh sát trưởng của Nuku’alofad[42].” Và quỷ tha ma bắt nếu cô không vứt hết những quyển hộ chiếu khác đi và giữ lại hộ chiếu Tonga.
Xét về mặt tâm lý, trường hợp thú vị nhất là của một thanh niên mà tôi đã dõi theo quá trình phát triển của anh từ lúc mới chào đời - thật ra, từ trước khi anh chào đời. Nhờ một loạt sự kiện lạ lùng, anh được quyền sử dụng hai hộ chiếu hợp lệ - Hoa Kỳ và Israel - và khi trưởng thành, anh dần nhận thức được rằng một ngày nào đó người ta sẽ yêu cầu anh tuyên bố trong hai quốc gia đó anh sẽ chọn quốc gia nào làm tổ quốc vĩnh viễn của mình.
Chuyện là thế này. Nhiều năm trước, khi vẫn còn làm việc cho Minneapolis Mutual, tìm kiếm đối tác đầu tư ở khắp vùng Trung Tây, tôi đã mơ một chiến dịch ở Detroit, nơi tôi mất đứt hai tuần nỗ lực quảng cáo chương trình đầu tư với một trong những chuyên viên kinh doanh của tập đoàn General Motors. Ông là người khác thường, một người Do Thái vùng Odessa tên Marcus Melnikoff; trong ngành công nghiệp xe hơi, ông được gọi là “Mark, người Nga điên rồ của chúng ta” với ít nhiều cảm mến, mà ở Detroit được tiếng là một người cộng sản phản đảng còn hợp thời hơn là một người Do Thái. Ông là một thiên tài quản lý công việc và nhân viên nhưng lại gặp rất nhiều khó khăn với con gái, cô sinh viên năm cuối trường Vassar, xinh xắn, cứng đầu cứng cổ và cô rất đông kẻ hâm mộ từ trường Yale và Amherst.
Tôi nhớ một buổi chiều năm 1949, khi tôi đang cố gắng giảng giải về những công lao của công ty Minneapolis Mutual thì ông Melnikoff ngắt lời, “Ông may mắn vì có con trai đấy. Đừng bao giờ sinh con gái. Chao ôi, đúng là đau cả đầu!” Đang tìm cách lấy lòng ông nên tôi hỏi vì sao, thế là ông xả hết nỗi lòng: “Vì chúng lớn lên và muốn lấy chồng. Hè năm ngoái là một thằng cha vô công rồi nghề chơi tennis. Chưa từng kiếm nổi một kopekh[43] trong đời. Mùa thu năm ngoái một sinh viên trao đổi người Indonesia. Cái xứ Indonesia ấy nằm ở chỗ chết tiệt nào chứ? Mùa đông năm nay lại là một trợ giảng trường Mount Holyoke với những tư tưởng cấp tiến. Vợ tôi luôn hỏi nó, ‘Tại sao con không thể chọn một thanh niên Do Thái tử tế và đứng đắn nào đó?”
Mấy ngày sau, khi tôi rẽ vào nhà riêng của Melnikoff ở Grosse Pointe, tôi thấy ông đang đợi một giáo sĩ Do Thái. “Thật khó xử vì lão giáo sĩ Do Thái Fineshriber chết tiệt ấy đỗ chiếc Ford của lão trên đường xe vào nhà chúng tôi!” ông làu bàu. Lúc đầu, tôi tưởng vấn đề nằm ở nhãn hiệu của chiếc xe vì công việc của ông ở General Motors là cạnh tranh với Ford, nhưng ông giải thích, “Hồi hội đồng địa phương nhóm họp quyết định xem vợ tôi và tôi có đủ trình độ học vấn để được phép gia nhập cộng đồng Crosse Pointe không, những người bảo lãnh cho chúng tôi đã để chúng tôi mạo danh là hai nhà khoa học Nga tị nạn. Ý đồ đó có vẻ làm người ta thích thú, vì vậy chúng tôi được chấp nhận, nhưng lúc nào cũng có một phe không tin, nghi ngờ chúng tôi là người Do Thái. Bây giờ thì cái lão giáo sĩ Do Thái Fineshriber trời đánh này bắt đầu lái xe lên đây, rồi mọi người đều biết hết cả.” Tôi giật mình sửng sốt trước lời phát biểu ấy và định hỏi thì nhận ra ông chỉ đang chế nhạo cái hệ thống đã bị ông qua mặt.
Giáo sĩ Do Thái Fineshriber tới, hóa ra đó là một người to béo, vui tính khoảng năm mươi tuổi, có xu thế hướng ngoại trong tôn giáo cũng như ông Melnikoff trong kinh doanh. Ông không tỏ ra bối rối khi tôi tình cờ nghe được những gì ông đến trao đổi, còn hoan nghênh mọi câu hỏi của tôi, vì vậy chúng tôi ngồi uống nước vui vẻ với nhau trong khi chờ đợi bà Melnikoff, một phụ nữ sôi nổi ngoài năm mươi. Lúc đến ngồi cùng chúng tôi, bà dặn vị giáo sĩ Do Thái phải ôn lại lần thứ hai những lời khuyên nhủ của ông bao giờ Doris quay về sau buổi chơi quần vợt trong nhà với người hâm mộ mới nhất của cô. “Không phải người Do Thái, tất nhiên,” bà Melnikoff nói với vẻ giễu cợt.
Giáo sĩ Do Thái Fineshriber nói, “Tôi thật lòng phản đối kế hoạch đưa Doris về Israel của các vị. Cô ấy sẽ gặp những thanh niên Do Thái... một số người rất có triển vọng. Nhưng có một mối nguy. Lời đồn đại về mục đích đến Israel của các vị sẽ nhanh chóng lan truyền. Người ta sẽ nghe nói đến sự giàu có của chồng bà. Người theo đuổi sẽ ngày càng đông, và tôi muốn bà hứa với tôi điều này. Bất cứ khi nào ai đó trong số họ ngỏ lời cầu hôn, mà chắc chắn họ sẽ làm thế, Doris sẽ phải nói với vẻ vô cùng sung sướng, ‘Ôi, anh David! Cả đời em chỉ mơ ước được sống ở Israel.’ Khi anh ta biết cô ấy có ý định sống ở đó thay vì đưa anh ta sang Hoa Kỳ, bà sẽ thấy nhiệt tình của anh ta bốc hơi ngay. Tôi nói là bốc hơi. Nó biến mất tiêu.” Ông xua mạnh tay trước mặt ra hiệu thủ tiêu hoàn toàn.
Tôi hỏi, “Ông muốn nói thanh niên Israel chủ yếu coi con gái Mỹ như tấm hộ chiếu?”
“Là một người không phải Do Thái, ông diễn đạt ý kiến của mình rất khá,” ông đáp. “Và với một cô gái xinh đẹp như Doris, khao khát được tới Mỹ và lấy được tài sản của cô ấy sẽ... thế đấy, mạnh gấp bội.”
Lúc này Doris đã đi chơi quần vợt về, một cô gái ngoài hai mươi tóc đen, cao, hấp dẫn. Dường như thật nực cười chuyện giáo sĩ Fineshriber và mẹ cô lo lắng đến việc kiếm cho cô một tấm chồng, vì theo như tôi đánh giá, cô gần như có thể lấy bất cứ người nào cô muốn. Chắc hẳn ông Melnikoff đã đoán được ý nghĩ của tôi, vì ông nói, “Có lẽ ông Fairbanks thấy lạ là với một cô gái như Doris mà chúng tôi vẫn lo lắng việc nó lấy một chàng trai Do Thái.” Tôi để ý thấy Doris không hề tỏ ra bối rối khi cuộc bàn luận kiểu này diễn ra trước mặt một người tương đối xa lạ; hình như trước đây chuyện này đã xảy ra rồi. “Nhưng hồi ông còn là một chàng thanh niên sống ở Odessa thì ông nhìn quan hệ Do Thái không Do Thái theo cách khác. Tôi ủng hộ ý kiến đưa ả ngựa non chân dài này tới Israel để rèn luyện một chút.” Ông nghiêng người về phía trước vỗ lên đầu gối con gái.
“Vậy thì, Doris ạ, việc cô phải làm,” giáo sĩ căn dặn Doris, “là nói ngay sau khi chàng trai ngỏ lời, ‘Lạy Chúa, em luôn mong muốn được sống ở Israel.’” Ông bật ngón tay sau khi nghĩ thêm: “Hay hơn nữa là cô cứ nói, ‘Em luôn mong muốn được sống trong một khu định cư ở Israel.’ Câu này sẽ làm anh chàng thực sự sợ hết hồn.”
Mọi người bàn luận sôi nổi về Israel, đất nước giáo sĩ Fineshriber biết đến với mối thiện cảm nhờ ba lần dẫn các thành viên giáo đường Do Thái của ông hành hương đến. Ông thích đất nước này, hiểu được tại sao người Do Thái muốn lập nghiệp ở đây, và hy vọng những năm tới sẽ có nhiều dịp quay lại. Nhưng vốn là người có đầu óc thực tế biết rõ Detroit và những vùng lân cận, ông thích Hoa Kỳ hơn và cảm thấy ở Michigan một người Do Thái cũng có được cơ hội tốt như ở bất kỳ nơi nào khác trên thế giới. Ông đặc biệt mong Doris Melnikoff không tự biến mình thành một kẻ ngốc; năm ngoái cô đã ba lần suýt nữa thì làm như vậy với vài kẻ xấu không phải Do Thái, và ông không thấy có lý do gì, sau khi đã tránh được hành động dại dột đó, bây giờ cô lại sa vào một cái bẫy Do Thái không kém phần tồi tệ. Khi rời khỏi đó, vẫn chưa thu được thành công gì trong nỗ lực kêu gọi đầu tư vào quỹ tương hỗ, tôi nghe thấy giáo sĩ nói, “Doris, nếu cô thực sự muốn có một chàng trai Do Thái tử tế, sao cô không thử xem thằng cháu con bà chị ta thế nào? Kính dày cộp, xếp hạng kém ở trường Stanford, thừa ba mươi pound cân nặng, lại còn hơi say mê Karl Marx.” Ở Boston, tôi từng quen biết một mục sư Ailen cũng hay nói đùa kiểu này với giáo dân.
Doris Melnikoff đi Israel thật, cô đã yêu một chàng trai Do Thái tử tế, đã nói với anh ta, “Cả đời em luôn mơ ước được sống trong một khu định cư ở Israel.” Thú vị ở chỗ, chàng trai lại trả lời với sự xúc động sâu sắc, “Anh thấy nhẹ cả người. Anh chỉ sợ em muốn anh sang Mỹ làm việc với cha em.” Chàng trai tên là Yochanan Zmora, một nhà khoa học dạy tại trường kỹ thuật ở Haifa. Khi anh đưa Doris tới thăm thành phố tuyệt vời đó, thành phố nằm trên một ngọn đồi bên bờ Địa Trung Hải, phía Bắc là thành Acre của quân Thập tự chinh và phía Đông Nam là ngọn đồi Megiddo bất biến theo thời gian, nơi xảy ra trận chiến Armageddond[44], cô biết đây chính là những gì cô hằng mong ước, và trong cơn bốc đồng, cô đã kết hôn với anh để chia sẻ niềm hứng khởi xây dựng miền đất mới.
Tôi đang ở cùng cha cô tại Detroit khi ông nhận được bức điện của bà Melnikoff. “Lạy Chúa! Lấy một người Do Thái tên là Zmora và sống ở Haifa ư?” Ông tìm cái tên đó trong Kinh Thánh và nhầm nó với Jaffa, vì vậy suốt thời gian vợ ông ở Israel mua sắm đồ đạc cho đôi vợ chồng mới cưới, ông lại tưởng tượng bà và Doris trong một nơi khác hẳn trên đất nước đó. Qua điện tín, ông thuê một thám tử tư ở Tel Aviv tìm hiểu lai lịch Yochanan Zmora, và người này báo cáo: “Danh tiếng tuyệt vời. Khả năng chuyên môn tuyệt vời. Ngoại hình tuyệt vời. Sinh ra với quốc tịch Anh, tên là John Clifton, Canterbury, xứ Kent, nước Anh. Bằng danh dự về khoa học tại trường Cambridge. Di cư sang Palestine 1946. Lấy tên Hebrew là Yochanan Zmora năm 1947. Tôi không tìm thấy thông tin bất lợi nào về người này trừ việc anh ta nghiêng về phe cánh tả trên chính trường Israel.”
Ông Melnikoff đưa tôi xem bức điện và hỏi ông nên bay đi đâu, Jaffa hay Canterbury. Tôi hỏi ông tại sao không ở Detroit chờ bà vợ cung cấp thêm thông tin, nhưng ông gắt, “Tôi mà cứ ngồi lì ở Detroit thì không làm ra một triệu đô la được. Tôi có một nguyên tắc. Nơi nào có chuyện lộn xộn là bay tới đó. Chẳng ích lợi gì, nhưng lại gây ấn tượng ra trò với sếp.” Mặc cho tôi khuyên can, ông bay đi London, thuê một chiếc Rolls-Royce, và thong thả xuống Canterbury gặp ông bà Clifton, đôi vợ chồng môi mỏng hay tỏ vẻ bồn chồn, kinh hoảng trước thói kiểu cách ồn ào theo lối Nga của ông. Tuy nhiên, thấy họ cũng lo lắng cho con trai như mình lo lắng cho con gái, ông nhẹ nhõm hẳn, và khi ông hỏi, tay cầm chén trà hướng về phía bà Clifton, “Thật tình mà nói, ngày nay bà có thể làm được gì với những đứa con cứng đầu cứng cổ chứ?” thì ông đã chiếm được cảm tình của ông bà Clifton. Ông Clifton là một luật sư hạng xoàng kỹ tính; trong lúc bốc đồng, ông đã mời ông Melnikoff tới câu lạc bộ của mình, một nơi rất khó chịu với trần tối màu, tường tối màu, ghế tối màu và màn treo tối màu. Ông Melnikoff nói, “Nơi này rất hấp dẫn,” và ông Clifton nói, “Vâng, thế đấy... hừm, vâng. Nó có phần tốn kém hơn so với mức mà bình thường người ta muốn trả cho những thứ phù phiếm. Nhưng ở đây cũng khá dễ chịu, đúng không?” Sau hai ngày không giải quyết được vấn đề gì, ông Melnikoff bay về Detroit, và khi tôi tìm cách khơi lại cuộc thảo luận về vụ đầu tư của ông với chúng tôi, ông lầm bầm, “Mời ông đi đi cho. Ai mà có thời giờ đầu tư tiền bạc trong khi con gái còn đang ở Jaffa chứ?”
Hai năm sau, chuông điện thoại của tôi ở Minneapolis réo lên chói lói và giọng ông Marcus Melnikoff vang lên như hét vào tai, “Xuống ngay nhé. Có việc cần.” Trong lúc lái xe đưa tôi từ sân bay về Detroit, ông đề nghị, “Hãy lập cho tôi một quỹ - một trăm nghìn đô la - lấy tên cháu trai tôi.” Khi tôi hỏi tên gì, ông cau mày nói, “Giờ thì chúng tôi đang phải đối mặt với vấn đề đó đây. Nghe tin Doris có mang, bà Rebecca đã bay tới Israel đưa nó về nhà. Chúng tôi nhất định yêu cầu đứa bé phải được sinh ra dưới quốc kỳ Mỹ - bảo đảm cho nó có hộ chiếu Mỹ. Chúng tôi đã đề nghị giáo sĩ Fineshriber đăng ký tên cháu là Bruce Clifton, dùng họ hợp pháp ở Anh của cha cháu. Tất nhiên, ở Israel cháu nó phải được đăng ký là Yigal Zmora rồi.”
“Chuyện này nghe có vẻ lôi thôi quá,” tôi phát biểu. “Tôi sẽ ghi tên nào đây?”
“Không lôi thôi lắm đâu,” ông Melnikoff nghiêm nghị đáp. “Nếu ông từng là một người Do Thái ở Nga, tìm cách bỏ trốn - chuyện sống còn chứ không phải vấn đề sở thích - hẳn ông sẽ đánh giá cao việc một người ông thương yêu cháu chu đáo thu xếp để ông có hai tên... hai hộ chiếu. Khi nó lớn lên, cứ để cho nó chọn lựa. Hoa Kỳ hay Israel. Trong lúc chờ đợi, hãy sử dụng tên Bruce Clifton. Tôi tin chắc nó sẽ là công dân Mỹ.”
Vì vậy chú bé lớn lên với hai tên, hai tính cách, hai quê hương. Cha cậu, lúc bấy giờ đã là tiến sĩ Zmora và giữ chức chủ nhiệm khoa tại trường đại học khoa học danh tiếng của Israel ở Haifa, có ý định để Yigal làm công dân Israel và tìm chỗ đứng trong cuộc sống của dân tộc này; nhưng ông ngoại Melnikoff, với nhiệt tình kiểu Nga gia tăng theo năm tháng, lại muốn Bruce làm một người Mỹ thực sự, học tại một trường đại học Mỹ và tạo dựng sự nghiệp trong xã hội Mỹ. Cuộc tranh giành ấy không bao giờ được công khai; theo như những gì tôi được nghe thì chắc chắn nó đã không làm tổn thương cậu bé. Gần như suốt cả năm cậu sống với cha mẹ ở Haifa, nhưng hè nào cậu cũng bay tới Detroit để hiểu rõ quê ngoại. Tiến sĩ Zmora và ông ngoại Melnikoff ganh đua với nhau theo những cách có thể chấp nhận được để tranh giành tình cảm của cậu, và mặc dù khi đó vẫn chưa có cơ hội gặp cậu nhưng tôi nghe nói cậu đã trở thành một thiếu niên tuyệt vời.
Kể cũng lạ là tôi không bao giờ gặp cậu trong những lần tới Detroit, vì tôi vẫn tiếp tục bán cổ phần quỹ cho ông ngoại cậu. Sau khi chuyển sang World Mutual, tôi cũng có thời gian ở Haifa chỉ đạo các công trình nghiên cứu khả thi về vấn đề dầu mỏ của Israel, trong quá trình làm việc đó tôi đã trở nên khá thân thiết với tiến sĩ Zmora và bà Doris vợ ông, vì ông đại diện cho chính phủ Israel trong các cuộc thảo luận với chúng tôi. Dưới sự dìu dắt của ông, tôi được biết khá nhiều về Haifa và, sau những chuyến công tác tại các nước như Thụy Điển hay Afghanistan, tôi luôn hài lòng khi lại được tiếp cận thành phố bậc thang này, tiếp cận cái hải cảng cổ xưa đã từng biết đến nhà tiên tri Elijah[45], những đạo quân của các Pharaoh, xe ngựa của vua Solomon, sự tàn bạo của quân Thập tự chinh. Haifa trở thành một trong những thành phố tôi yêu thích nhất, vì trong các bến cảng của nó tôi có thể nhìn thấy những chiếc xuồng lớn của thành Carthage và những chiến thuyền ba tầng chèo chở các quân đoàn La Mã đến chinh phục Jerusalem. Có gia đình Zmora làm hướng dẫn viên, tôi đã đến tận hồ Galilee ở phía Đông, nơi mang những ý nghĩa quan trọng hơn.
Suốt thời gian đó, tôi cũng lơ mơ biết đến một cậu bé đang trưởng thành với mười tháng trong năm bị cái gánh lịch sử này đè nặng lên vai và hai tháng còn lại bị cuốn hút bởi sức sống và sự cám dỗ của bang công nghiệp Michigan. Một lần, trong khi leo lên đồi Galilee cùng cha mẹ cậu, tôi hỏi Doris liệu bà có bao giờ ân hận vì đã chọn Israel không, và bà kêu lên, “Ô, không! Đối với tôi những sự kiện bình thường trong cuộc sống cũng thành cuộc phiêu lưu. Lấy chồng, có con, chứng kiến thế giới xung quanh phát triển như thế nào. Đó mới là cái quan trọng. Vì vậy tôi cũng sống hạnh phúc như ở Detroit, nhưng không hơn thế này được. Tuy nhiên, ở Israel... ờ, người ta có thêm một điều gì đó.”
“Còn con trai bà?”
“Nó sẽ tự mình quyết định,” tiến sĩ Zmora đáp trong lúc đưa mắt khắp chiến trường lịch sử, nơi Saladin[46] đã đánh đuổi quân Thập Tự Chinh.
—*—
Mùa xuân năm 1956, World Mutual cử tôi đi Haifa để thực hiện một dự án đầu tư thực tế vào nhà máy lọc dầu mới, và tất nhiên tôi điện cho Yochanan Zmora ra sân bay đón, vì tôi sẽ tiến hành đàm phán với ông, và vừa bước ra khỏi cửa chiếc máy bay El Al tôi đã nhìn thấy, đang đứng chờ trên mặt đường rải nhựa phía dưới, Doris Melnikoff, chồng bà và một cậu bé dễ thương độ năm tuổi mặc quần soóc kiểu Anh, đầu đội kova tembely loại mũ nhỏ màu trắng rất được thanh niên Israel ưa chuộng; nó được coi như vật nhắc họ nhớ đến những chiếc mũ được các chiến sĩ đấu tranh cho tự do trong cuộc Chiến tranh Độc lập 1948 tùy cơ ứng biến sáng tạo ra.
Trong lúc cha mẹ chạy lại đón tôi và hỏi thăm tin tức từ Detroit, cậu bé đứng tách riêng một mình chờ cho đến khi màn chào hỏi xong xuôi. Rồi cậu lịch sự tiến lên phía trước, chìa tay ra nói, “Ở đầu này của tuyến bay thì cháu là Yigal, còn ở đầu kia là Bruce.” Tôi bắt tay chào đáp lại cậu, và như vậy chúng tôi đã bắt đầu một mối quan hệ ấm áp được đánh dấu bằng những lá thư định kỳ từ Haifa đến Geneva. Đầu tiên được viết bằng chữ hoa cỡ lớn, rồi với sự súc tích không ngừng được cải thiện, những lá thư từ Yigal với những lời đề nghị tôi mang đến cho cậu, trong chuyến bay sắp tới, những món đồ nho nhỏ quan trọng mà cậu không sao kiếm nổi ở Israel.
Sau này tôi sẽ nhận được những bức thư tương tự từ Vwarda, nhưng người gửi là một cô bé bốc đồng quen được nuông chiều trông chờ mọi người quen mang đến cho cô bất cứ thứ gì cô yêu cầu; cô không bao giờ nghĩ đến việc gửi kèm tiền để trả cho món đồ mình đề nghị. Trong thư của Yigal lần nào cũng có một tờ séc do chính cậu chứ không phải cha cậu ký tên. Tôi có thể hình dung được cảnh cha mẹ cậu dạy bảo, “Nếu muốn một thứ gì đó, con hãy để dành tiền, ra bưu điện và gửi séc đến Geneva cho ông Fairbanks.”
Cậu bé yêu cầu những gì? “Cháu đọc một bài báo ở Berlin nói rằng người Nhật đã phát minh ra ống vô tuyến kiểu mới. Ông có thể mang giúp cháu bốn cái được không? Xin ông đừng gửi qua bưu điện vì như thế thì cháu phải trả cước phí.” Khi lớn hơn, cậu nhờ mua đĩa nhạc pop trong catalogue của hãng Phillips ở Amsterdam và một cái thước tính loga hình tròn. Lần khác, cậu lại muốn biết liệu tôi có thể tìm cho cậu một tập bản đồ mới xuất bản ở Moscow không, nhưng cậu cần biết giá tiền trước. Khi tôi báo lại nó là ấn phẩm dành cho người lớn và giá hơn hai mươi đô la, cậu liền hủy bỏ yêu cầu, nhưng trong chuyến đi sau đó tôi đã mang nó theo coi như mòn quà tặng người bạn trẻ dễ thương. Khi tôi trao cho cậu gói quà, to và phẳng, tất nhiên cậu biết ngay đó là gì và rưng rưng nước mắt. Cậu giữ tay ở nguyên bên hông, không chịu cầm. Khi tôi cố ép cậu nhận, cậu nói, “Cháu đã không đúng. Cháu đã làm ông phải mua cho cháu.” Tôi suy nghĩ kỹ một lúc rồi nói, “Phải, cháu đã gợi ý cho tôi. Nhưng tôi mua cho cháu không phải vì lý do đó mà vì ông cháu đã nói với tôi cháu đang trở thành một nhà địa lý tài năng.”
“Ông cháu nói thế ạ?” Yigal nghiêm nghị hỏi.
“Đúng vậy. Khi tôi ở Detroit.”
“Ồ,” cậu bé trầm ngâm nói, “khi cháu và ông cháu ở trên núi Tabor, ông bị lạc và cháu đã chỉ đường về cho ông.”
“Nếu thế thì đây là mòn quà rất chính đáng,” tôi nói, vậy là cậu đưa nắm tay lên dụi đôi mắt đỏ hoe và nhận món quà.
Khi học lớp bốn ở trường Haifa, cậu có chỉ số IQ cao hơn 150 nhiều, nhưng các thầy cô giáo nhận thấy cậu không hề có cái vẻ bẽn lẽn thái quá thường thấy ở những trẻ em có trí thông minh cao. Cả người cha Anh và người mẹ Mỹ của cậu đều có quan niệm chăm sóc dạy dỗ con rất thiết thực. Họ trông chờ cậu cư xử cho phải phép, nhưng vẫn khuyến khích cậu tham gia chuyện trò cùng gia đình. Họ thảo luận về chủ đề lịch sử Anh, Mỹ hay Israel, cũng như những vấn đề của cậu ở trường. Nghĩa vụ đạo đức của cá nhân cũng như vấn đề nghệ thuật và tôn giáo được xem xét liên tục. Gia đình Zmora thấy thật khó mà coi trọng thuyết thần học ngột ngạt đang được ưa chuộng ở Israel và không buồn giấu giếm thái độ coi thường đối với cách xử sự lố bịch của các giáo sĩ Do Thái chính thống.
Vợ chồng tiến sĩ Zmora cũng để mắt đến việc cho Yigal va chạm với bạn bè đồng trang lứa. Họ khuyến khích cậu giao du với những nhóm thiếu niên nhập cư ngang ngạnh người Marốc và Iran và gạt bỏ bất cứ lời kêu ca phàn nàn nào của cậu về việc bị đối xử thô bạo. Họ hài lòng thấy cậu tổ chức cho mấy cậu bé trong đám trẻ nhập cư đó lắp điện đài dưới tầng hầm nhà họ, và còn cấp tiền khi cậu muốn mua một cái lều để cho một nửa số bạn của cậu có thể cắm trại trên đồi Galilee và liên lạc bằng sóng ngắn với nửa còn lại trong thành phố. Họ tỏ ra thích thú khi quân cảnh đến nhà thông báo, “Con trai ông bà làm nhiễu tần số vô tuyến của chúng tôi rồi.” Quân cảnh rất kinh ngạc khi biết hóa ra thủ phạm lại là một cậu bé chín tuổi.
Yigal rất yêu Haifa. Đó là một thành phố với những hình ảnh tương phản sống động: một bến cảng nhộn nhịp tàu bè từ mọi nơi trên thế giới, khu thương mại sầm uất từng là tụ điểm của các nhà buôn trong hàng nghìn năm, cao nguyên hùng vĩ Mount Carmel với những nhà thờ Công giáo nổi tiếng và khu tập trung dày đặc người Đức tị nạn. Tuy nhiên, điều làm cậu thích thú nhất là đặc trưng lịch sử của vùng này: cách đó vài dặm là những hang động mà ai cũng có thể leo vào và là nơi cư trú của con người suốt mười lăm nghìn năm. Trong những ngách tối, cậu có thể nhìn thấy những bậc lên xuống có lẽ do người xưa đục đẽo. Còn cả những thành phố không còn tồn tại từng được nhắc đến trong Kinh Thánh với tầm quan trọng nào đó và một nghĩa địa lạ thường trong lòng đất với một số quan tài vẫn ở đúng vị trí và hàng đống bụi đất mà trong đó ta có thể tìm thấy những chai thủy tinh Ai Cập.
Dân chúng Haifa cũng đáng chú ý như chính mảnh đất ấy. Một hôm, tiến sĩ Zmora chỉ cho Yigal một quầy bán các loại báo được viết bằng mười một thứ tiếng khác nhau; trong các gia đình đến chơi nhà họ có nhiều người nói được bảy tám thứ tiếng; phần lớn nói được ít nhất ba thứ tiếng. Đồ ăn thức uống đủ loại lúc nào cũng sẵn sàng, và một số người cao tuổi vẫn mặc quốc phục của nhiều nước trên thế giới, vì vậy một cậu bé lớn lên trong thành phố này buộc phải nhận thức được là trái đất có rất nhiều người không giống mình.
Yigal không phải đứa trẻ phổng phao; thực ra cậu có phần hơi còi, nhưng lại có khả năng phối hợp các ưu điểm của bản thân một cách tài tình đến mức không bao giờ rơi vào thế bất lợi khi chơi với bạn. Trong trò chạy lên chạy xuống vô số bậc cầu thang, vốn là đặc điểm của Haifa, cậu thiếu niên nhỏ nhắn dẻo dai với đôi mắt đen và nước da trắng ấy còn nhanh nhẹn hơn các bạn. Cậu thích những trò chơi đòi hỏi sự kết hợp giữa tốc độ và sự nhẫn nại, vì cậu có thể di chuyển nhanh và do đó vô hiệu hóa được các cậu bé to lớn hơn vốn có lợi thế về sức khỏe.
Vì vậy cũng là lẽ tự nhiên khi cậu thích bóng đá và đá bóng khá giỏi. “Chú bé này có thể trở thành một tiền đạo xuất sắc đấy,” người quen của gia đình nhận xét vào mùa hè khi nhà Zmora về Canterbury thăm họ hàng bên Anh. Ở Haifa, tài nghệ của cậu cũng được đánh giá cao, chưa đến mười tuổi cậu đã được chơi cùng các bậc đàn anh, vì cậu góp phần vào lối chơi của đội, và mặc dù không có cái mà các phóng viên thể thao gọi là “một khao khát tấn công vào điểm yếu của đối phương,” nhưng cậu có khát vọng chiến thắng mạnh mẽ và có nhiều ý tưởng để thực hiện khát vọng đó. “Khi ta đá bóng đến chân cậu ấy,” một đồng đội của cậu nói với tôi, “cậu ấy chuyền lại rất khéo léo.” Không cậu bé nào có thể thốt ra một lời khen ngợi cao hơn, và mỗi khi người ta thành lập đội bóng, cậu đều được tuyển chọn ngay lập tức. Thói quen giao du với các bậc đàn anh sẽ đóng một vai trò quan trọng trong cuộc đời cậu.
Tuy vậy, niềm say mê lớn nhất của cậu không dành cho thể thao mà là điện tử. Năm lên chín, từ hộp linh kiện Heathkit tôi mang từ Hoa Kỳ sang cho, cậu đã lắp ráp thành một máy thu thanh hạng nhất, và khi lắp thêm các linh kiện đặt mua từ châu Âu, cậu có một hệ thống chất lượng chuyên nghiệp dùng để liên lạc với tất cả các nước trên thế giới. Một lần tôi mang cho cậu một số thiết bị đặc biệt của Đức, cậu liền vứt cái cũ đi và chỉ trong vài phút đã lắp xong chiếc máy thu thanh mới. Tôi gật đầu tán thưởng và định rời khỏi đó, nhưng cậu nắm tay tôi. “Khoan đã! Ông không đoán được cháu định làm gì ư?” Cậu điều chỉnh các vecnê trên ô dò kênh và vài phút sau đã liên lạc được với một tay nghiệp dư ở Detroit; anh chàng này gọi điện cho Marcus Melnikoff, chẳng bao lâu sau Yigal và tôi đã chuyện trò với ông.
Cậu trở nên thành thạo về thiết bị điện tử đến mức năm cậu mười lăm tuổi, đám bạn bè hơn tuổi, lúc này đang thực hiện nghĩa vụ quân sự trong quân đội Israel, phải nhờ cậu giúp đỡ mỗi khi binh chủng thông tin gặp vấn đề, và trong một thời gian ngắn cậu đã sử dụng và duy trì liên lạc quân sự giỏi hơn cả bọn họ. Yigal thường xuyên lui tới một doanh trại nằm ở một trong những ngọn đồi cao trên núi Carmel; ở đó, cậu cùng bạn bè tháo rời các đài thu phát và trạm tiếp âm của chính phủ, lắp ráp lại với những cải tiến cậu cho là cần thiết, rồi đến mùa hè cậu đi theo mấy người bạn thân trong các cuộc diễn tập, giúp họ xử lý việc liên lạc. Dĩ nhiên cậu đã tự học mã Morse, nhưng đóng góp chủ yếu của cậu bắt nguồn từ hiểu biết về những gì tạo ra bước tiến mới trong lĩnh vực điện tử.
Cha mẹ cậu nhận thấy cả mối quan tâm mang tính trí tuệ dành cho khoa học lẫn mối quan hệ mang tính cá nhân với quân đội của cậu, và vì cậu cũng phải đối diện với ba năm nghĩa vụ quân sự như mọi thanh niên Israel khác, ông bà Zmora cho rằng nếu cậu sớm nhận biết được lĩnh vực chuyên môn của mình và tự hoàn thiện nó thì cũng có ích. Vì thế họ không thấy lo lắng khi phát hiện ra trong nhà có một người lính tham gia quân đội trước tuổi, họ gọi cậu là “chú lính dù của chúng tôi”, nhưng câu đùa ấy dễ bị hiểu nhầm đến mức họ thôi không cố giải thích cho bạn bè nữa. Cuối năm 1966, khi tôi đến thăm dự án dầu khí, bà Doris lại lôi câu nói đùa ấy ra, tôi nhận xét, “Trông cậu ấy còn quá nhỏ để nhảy,” chồng bà bèn nhăn mặt nói, “Anh đã bảo em quên câu nói đùa ấy đi cơ mà,” vậy là để tự biện hộ, bà kể cho tôi nghe toàn bộ câu chuyện về cậu con trai bán quân sự của mình, tôi hỏi, “Bà không sợ ư?” thì bà đáp, “Lo sợ là một khía cạnh của cuộc sống thể kỷ hai mươi. Ông không sợ sao?” và khi ngẫm những chuyện mình từng chứng kiến trên khắp thế giới - nạn đói ở Ấn Độ, cuộc nổi dậy của người da đen chống người da trắng ở Mỹ, việc tái xét ở Vwarda - tôi phải công nhận mình có sợ.
“Không nhiều quá,” tôi nói thêm. “Tôi vẫn giữ hy vọng.”
“Chúng tôi cũng thế,” bà Doris nói, và khi cậu con trai mười lăm tuổi tự tin, dẻo dai của họ bước vào, tôi có thể thấy cậu cũng cảm thấy y như vậy.
—★—Về Yigal Zmora như vậy là quá nhiều. Còn Bruce Clifton thì sao? Mùa hè năm 1956, bạn bè Do Thái của ông Marcus Melnikoff báo cho ông biết rằng qua những gì họ nghe được ở Washington thì chiến tranh giữa Israel và các quốc gia Ả rập nhất định sẽ nổ ra. “Nên đưa con gái tránh đi thì hơn,” họ khuyên.
Ông nhiều lần gửi thư khẩn tới Haifa bảo Doris phải đưa cả gia đình về Detroit cho đến khi tương lai được đảm bảo, nhưng bà không nghe: “Nếu chiến tranh nổ ra như cha nói, ngành khoa học sẽ cần đến anh Yochanan, và con không thể tưởng tượng được mình lại bỏ rơi anh ấy để sang Mỹ tìm nơi an toàn. Vì vậy cha bỏ ý nghĩ vớ vẩn ấy đi.”
Ông Melnikoff đánh điện lại khăng khăng cho rằng ít ra cũng phải cho đứa bé bay về Detroit, Doris trả lời, “Con rất hiểu Yigal, nếu chúng ta bắt nó bỏ chạy khỏi Israel trong thời kỳ khủng hoảng thì có thể nó sẽ bị tổn thương tình cảm. Nhưng chuyện đó không quan trọng, vì con nghĩ ngay lúc này cả một bầy ngựa cũng không thể kéo nó đi được. Cha xem đấy, nhóm của nó đang chơi trò lính tráng và đã lập kế hoạch phải làm gì nếu xung đột xảy ra bất ngờ.”
Khi nhận được lá thư này, ông Melnikoff đưa tôi xem và khịt mũi, “Chúa ôi, thằng bé mới năm tuổi. Hai vợ chồng chắc mất trí rồi.” Ông nhờ tôi lái xe đưa ra sân bay và, chẳng cần hành lý gì, bay ngay sang Israel. Hai giờ sau khi tới nơi, ông đã thuyết phục được vợ chồng Zmora để ông đưa Yigal sang Mỹ cho đến khi cơn khủng hoảng qua đi. Sáu giờ sau đó, ông và Bruce đã trên đường trở về xuyên qua Đại Tây Dương, và khi họ tới nơi thì tôi đã chờ sẵn ở sân bay.
Bruce bước xuống thang trước, một cậu bé năm tuổi thon nhỏ, vẻ có giáo dục, đội chiếc kova tembel để thông báo về quốc tịch của mình. Nhận ra tôi, cậu nghiêm trang bước tới trước và cúi chào, “Cháu và ông ngoại đã có một chuyến bay tuyệt vời,” cậu nói bằng tiếng Anh nuốt âm.
Dù cậu còn nhỏ tuổi và nhỏ người, ông bà Melnikoff vẫn đăng ký cho cậu vào học lớp một trường Grosse Pointe, và cậu dễ dàng thích nghi với lối sống Mỹ. Cuối tháng Mười, khi chiến tranh bùng nổ đúng như lời ông ngoại Melnikoff dự đoán, mọi người trong nhà tìm cách giấu Bruce tin này nhưng vô ích. Qua truyền hình và qua trao đổi với bạn học, cậu theo dõi diễn biến cuộc chiến với mối quan tâm gần như của người lớn, âm thầm hài lòng khi đất nước mình thắng trận. Sau khi tổng thống Eisenhower, người được ông bà cậu ủng hộ một khoản tiền đáng kể, tái đắc cử, cậu hỏi, “Bây giờ cháu có thể về nhà không?” Mọi người quyết định tốt hơn hết cứ để cậu kết thúc năm học đó ở Grosse Pointe VI, theo lời ông Melnikoff nói với tôi, “Ở Israel có thể không có trường nào tốt bằng trường này.”
Thật ra, trong những năm tiếp theo, chính vấn đề trường lớp đã gây nên bất đồng nghiêm trọng nhất giữa hai phe của gia đình Melnikoff. Ông ngoại Melnikoff cho rằng vì ông có tiền và có quyền cho cháu nhập học nên Bruce phải được hưởng nền giáo dục Mỹ, nhưng bà Doris lại khăng khăng con trai bà sẽ đến trường cùng bạn bè đồng trang lứa ở Haifa. Khi cuộc tranh luận được đưa ra để cậu bé quyết định, cậu đã tháo gỡ vấn đề theo một cách đáng ngạc nhiên: cậu nói với ông, “Cháu thích nước Mỹ, nhưng so với Haifa thì trường của ông kém xa đến nỗi việc học hành của cháu sẽ nguy mất.” Khi bay đi Haifa nghiên cứu tình hình, ông Melnikoff nhận thấy Bruce nói đúng; cậu đã khá may mắn được nhận vào Reali School, một trong những trường tốt nhất thế giới, nơi các cậu bé Israel mười tuổi được hưởng một nền giáo dục gần như tương đương với những gì các thanh niên mười tám tuổi nhận được ở Mỹ. “Tất nhiên,” tôi lưu ý Melnikoff khi ông bàn luận về sự so sánh đó với tôi, “Ở Mỹ hầu như mọi trẻ em đều được học trung học. Còn ở Israel thì chỉ có khoảng một trên hai mươi lăm em thôi. Reali phải là trường tốt nhất. Nó có phải bận tâm đến bọn đầu đất đâu.”
Nhưng năm 1965, Bruce mười bốn tuổi, ông ngoại Melnikoff không nghe thêm bất cứ lý lẽ nào nữa; ông khăng khăng bắt Bruce phải học ở Mỹ và tranh thủ sự ủng hộ của tôi để thuyết phục cha mẹ cậu. Trong chuyến đi tiếp theo tới Haifa, tôi nói với họ, “Ông Marcus có lý đấy. Luật pháp nước Mỹ yêu cầu khi một đứa trẻ sinh ra với hai quốc tịch như Yigal...”
“Đứa bé có thể chọn bất cứ quốc tịch nào nó muốn... năm hai mươi mốt tuổi,” bà Doris ngắt lời. “Tôi đã tìm hiểu rồi.”
“Hình như bà vẫn chưa tìm hiểu đầy đủ thì phải,” tôi nói tiếp, “vì điều bà nói chỉ đúng một phần. Đứa trẻ đó được phép lựa chọn năm hai mươi mốt tuổi, nhưng nó chỉ đủ tư cách làm như vậy nếu có năm năm học tập trong phạm vi nước Mỹ.”
“Điều này có đúng không?”
“Tôi không biết chính xác số năm quy định - đấy là do cha bà nói với tôi.”
“Cha tôi hay nảy ra những ý tưởng kỳ quặc lắm. Tốt hơn hết chúng ta nên kiểm tra lại xem sao,” bà nói.
Chúng tôi lái xe tới Tel Aviv, gặp một viên chức đại sứ quán Mỹ có bộ luật chính xác đặt trên bàn làm việc: “Bất cứ trẻ em nào được sinh ra ở nước ngoài...”
Doris mừng rỡ ngắt lời, “Điều này không áp dụng với chúng tôi. Yigal sinh ra ở Detroit và như thế cháu đã là công dân rồi.”
Viên chức đại sứ quán xác nhận điều đó: “Bất cứ đứa trẻ nào được sinh ra một cách tự nhiên ở nước Mỹ thì chắc chắn đều là công dân Mỹ, bất kể quốc tịch của cha mẹ như thế nào.”
Nghe thấy thế, bà Doris chẳng còn bận tâm tranh luận thêm gì nữa và chúng tôi trở về Haifa. Nhưng khi bà báo về Detroit cho cha mình biết về phát hiện này, ông bèn viết cho bà một lá thư thận trọng, đồng thời gửi một bản sao đến Geneva cho tôi.
Doris thân yêu,
Con và anh thanh niên thông minh ở đại sứ quán hiểu luật theo một kiểu, còn cha lại hiểu theo kiểu khác. Vì con đã tốt nghiệp đại học nên có lẽ con đúng. Nhưng cha học trong ngôi trường khắc nghiệt hơn con nhiều, đó là các cơ quan mật vụ Nga, và họ đã dạy cha nhiều điều. Vì vậy cha đã đến Sở Nhập cư Mỹ xem kỹ luật, trong đó nói rằng những đứa trẻ giống như Bruce phải học năm năm ở Mỹ nếu muốn yêu cầu được thành công dân chính thức năm hai mươi mốt tuổi. Có thể bây giờ điều này chưa phát huy hiệu lực với Bruce. Có lẽ cha đang thận trọng quá đáng. Có lẽ nếu cha hỏi ý kiến các luật sư hàng đầu của hãng Pontiac, họ sẽ đồng ý với con và nói rằng cha đang cẩn thận không cần thiết.
Nhưng cha không hỏi các luật sư cao giá. Cha hỏi ý kiến tất cả những người Do Thái trốn khỏi Odessa sau các cuộc tàn sát người Do Thái, tất cả những người bị truất quyền sở hữu đang chết dần chết mòn trong trại tù chính trị sau cuộc đại chiến vừa qua và tất cả những người Do Thái vẫn đang tìm cách rời khỏi nước Nga. Họ mới là những chuyên gia đích thực về luật quốc tịch và họ thét lên với cha, “Melnikoff, nếu trên thế giới của Chúa này có cách nào giữ gìn hộ chiếu cho cháu ông thì hãy làm đi.” Cha vẫn còn nhớ niềm vui sướng tột cùng đã tràn ngập ngôi nhà ở Odessa của chúng ta khi rốt cuộc chúng ta cũng nhận được mẩu giấy màu xanh ấy, và cha còn nhớ nỗi kinh hoàng ám ảnh cả gia đình khi mọi người phát hiện ra tên ông nội Menachem của con không có trong danh sách. Cụ đã dũng cảm để chúng ta ra đi làm ăn thịnh vượng ở một mảnh đất cụ không bao giờ được thấy. Trong đợt tàn sát sau đó, cụ đã bị giết.
Cha muốn Bruce đến trường học bây giờ... ngay lập tức... có thể chuyến bay sau... để khi một thằng ngu ngốc chết tiệt nào đó viết thẻ xanh cho chúng ta, tên của cháu sẽ có trong danh sách.
Cha yêu các con
Marcus Melnikoff
Lời cầu khẩn quá tha thiết đến nỗi ông bà Zmora không cưỡng lại được; tiến sĩ Zmora thừa nhận, “Anh cho rằng Yigal nên biết về nước Mỹ rõ như về Galilee. Có thể tương lai của nó nằm ở đó.” Vậy là cậu bé được đưa lên chiếc máy bay El Al và quay lại Grosse Pointe.
—★—Thật may mắn, ông bà Melnikoff tìm được một trường tư có quá ít nam sinh đến nỗi không thể đưa ra sân một đội bóng bầu dục và vì thế chỉ chuyên về bóng đá. Bruce là cầu thủ trẻ nhất đội và xét về nhiều mặt là người giỏi nhất. Ở tuổi mười bốn, vốn là một thiếu niên nhỏ nhắn với phản xạ của chiếc lò xo nén, cậu đã giúp trường mình đánh bại các đội bóng từ những trường lớn hơn nhiều và nhờ vậy nhanh chóng hòa mình vào cuộc sống ở trường cũng như ở tổ quốc mới. Khi một tờ báo Detroit đăng ảnh cậu trong vai trò tiền đạo xuất sắc nhất bang - hầu như trong bang chẳng có trường nào chơi bóng đá - thì cũng là một kiểu thừa nhận. Bruce Clifton vững bước trên con đường trở thành người Mỹ.
Nhà trường có tác động kỳ lạ lên cậu. Hầu hết bạn học của cậu không phải người Do Thái, và lần đầu tiên trong đời cậu bắt đầu hiểu ra làm một người Do Thái có ý nghĩa như thế nào, vì như cậu nói với anh bạn người Grosse Pointe không phải Do Thái ở cùng phòng, “Ở Haifa ai cũng là người Do Thái. Cậu không bao giờ nghĩ rằng có thể còn bất cứ dân tộc nào khác – tất nhiên trừ người Ả rập, mà họ thì cũng Do Thái như chúng tớ thôi. Mâu thuẫn giữa Ả rập và Do Thái mang tính chính trị nhiều hơn là sắc tộc.”
Nhưng việc là ngôi sao bóng đá không tránh cho cậu khỏi cái thành kiến thông thường trong một trường tư thục Mỹ. Cậu được biết nhà trường cũng có chỉ tiêu và cậu thật may mắn vì ông ngoại cậu có ảnh hưởng nên cậu, Bruce, mới được nhận vào một trong những ngôi trường vốn là niềm mơ ước của người Do Thái. Cậu cũng được báo trước rằng trên thực tế một số trường đại học có thể cậu muốn ghi danh cũng có chỉ tiêu. “Họ không ghi trong sách giới thiệu, cậu hiểu không,” một người bạn Do Thái khác giải thích, “mà đơn giản là họ không nhận quá nhiều người Do Thái, tớ cho là họ không thể.”
“Với tớ việc đó không thành vấn đề.” Bruce bật cười. “Trong trường đại học mà tớ sẽ đăng ký, cha tớ là chủ nhiệm khoa và mọi người đều là dân Do Thái.”
Nhưng còn có những vấn đề khác, những vấn đề không thể tránh. Khi trường tổ chức vũ hội, sinh viên Do Thái mời bạn nhảy Do Thái và có phần quanh quẩn với nhau. Ngoài ra, Bruce khó mà giữ mồm giữ miệng khi động đến những vấn đề liên quan đến sự xuất sắc của trường. Cậu hay nói, “Tại trường Reali ở Haifa, chúng tớ học những thứ vớ vẩn này từ hồi mười tuổi.” Cậu bình luận thường xuyên đến nỗi giáo viên cũng được nghe phong thanh về những lời khoe khoang khoác lác nực cười của cậu và phải nhắc nhở, vậy là ngay sau đó cậu viết thư về Haifa xin đề cương bài giảng cậu học khi lên mười và chứng minh mình đã nói đúng. Trường Israel vượt xa trường Mỹ ít nhất là ba năm, nhưng đến lúc này thì ông Melnikoff phải kéo cháu mình ra một chỗ bảo, “Một người đàn ông biết suy xét không bao giờ khoe khoang về hai điều. Người vợ đầu đáng yêu như thế nào và ngôi trường trước đó tốt như thế nào. Hãy ngậm miệng lại.”
Vì vậy sau đó Bruce chuyển sang bàn luận về sinh hoạt quân sự ở Israel và kể con gái Israel lớn hơn nữ sinh ở trường này một chút đã là lính như thế nào và cậu đã tham gia huấn luyện cùng một đơn vị quân đội và từng phụ trách việc liên lạc của họ ra sao.
“Tớ nghĩ cậu ấy hút cần sa,” một cầu thủ bóng đá phát biểu sau khi nghe cậu kể say sưa về ba ngày trong sa mạc Negev, nhưng trong khi đó Bruce lại nói với ông ngoại, “Cháu thấy đám con trai Mỹ ấy non nớt kinh khủng so với những cậu nhóc cháu biết ở Haifa. Ông biết sự khác nhau ấy chứ? Bọn chúng chẳng làm được gì cả. Bọn chúng là trẻ con thành phố. Cứ cho chúng ra khỏi thành phố mười dặm xem, chúng sẽ lạc luôn!” Tuy nhiên, Bruce thấy mình càng ngày càng mang đậm tính cách Mỹ hơn, và cậu không quá buồn rầu trước thay đổi đó. Ông ngoại cậu đưa cậu tới bãi chạy thử của hãng Pontiac, và dù chưa đủ tuổi có bằng lái cậu cũng được phép thử những kiểu xe mới, lao ầm ầm với tốc độ tám mươi dặm một giờ trên những con đường cao tốc giả. Ông cậu nói với các đối tác kinh doanh, “Rõ ràng thằng bé đã quyết định sống ở đây cho đến cuối đời. Thế là phải, vì nó thuộc về nơi này.”
Nhưng Bruce còn lâu mới quyết định. Hè nào cậu cũng bay về Israel, và ngay khi nhìn thấy dãy đồi Galilee chan hòa ánh nắng hay khi theo những người bạn lớn hơn diễn tập ở sa mạc Negev, cậu lại cảm thấy mình bị lôi cuốn một cách mạnh mẽ về phía quốc gia Do Thái. Hai cô em gái cũng thu hút cậu về với Israel; cậu thích cách hai cô bé thích nghi với cuộc sống, thích sự không kiêu kỳ hay màu mè của chúng. Thanh niên Israel không quá khác biệt so với thanh niên trên khắp thế giới, nhưng thiếu nữ Israel có vẻ gì đó khá mới mẻ và cậu nhận thấy mình thích những người này hơn mẫu người tương ứng ở Mỹ.
“Con chưa gặp cô gái Mỹ hạng nhất nào đấy thôi,” mẹ cậu tranh luận. “Cứ chờ cho đến khi con lên đại học và xem những gì đang đợi con tại trường Vassar và Smith.”
“Năm nay con sẽ xem xét vấn đề đó khi quay trở lại,” cậu nói với mẹ vào cuối hè 1965, nhưng năm tiếp theo cũng không có gì mang tính quyết định hơn năm trước. Cậu vẫn chưa tìm được cô gái Mỹ nào mình thích; vẫn làm bạn bè phát chán khi nói với họ trường học ở Haifa tốt hơn nhiều như thế nào; và cậu vẫn làm họ bất bình bằng những câu chuyện về các cuộc diễn tập quân sự trên sa mạc. Điều duy nhất thay đổi là ông ngoại cậu cho lắp đặt tại nhà riêng của họ ở Grosse Pointe một trạm radio tuyệt vời với cột ăng ten có thể kéo vào, và khi đám bạn học thấy Bruce thông thạo thiết bị này như thế nào, và cậu quen biết những người trực tổng đài khắp thế giới như thế nào, họ bắt đầu tự hỏi liệu có thể nào cậu đã nói thật về những kinh nghiệm trong quân đội.
Rồi đến chuyến tham quan Thành phố Đỏ của cậu, và mọi thứ đều thay đổi. Ở Haifa, lũ trẻ hay hát một bài thường khiến cha mẹ chúng khiếp sợ. Bài hát tên là “Bản ballad về Thành phố Đỏ” kể về cuộc thám hiểm Negev lúc nửa đêm. Lần đầu tiên bà Doris Zmora nghe cậu con trai Yigal khe khẽ hát bài này, thì thầm những lời:
“Ta là một người đàn ông.
Ta sẽ đến Thành phố Đỏ.
Ta dũng cảm tiến về hướng Đông...”
Bà kêu lên, “Yigal! Con không bao giờ được hát bài ấy một lần nào nữa. Không bao giờ!”
Cậu bật cười trước nỗi sợ của bà, và hai ngày sau lại bị bắt gặp đang hát bài hát kích động ấy. Lần này, mẹ cậu mời cha cậu tới, tiến sĩ Zmora nói, “Mẹ con nói đúng. Đừng để bài hát ấy ăn sâu vào máu.”
“Tại sao lại không ạ?”
“Vì nó dẫn tới cái chết. Cái chết vô nghĩa. Và bất cứ cái chết vô nghĩa nào cũng là điều khủng khiếp.”
“Con không sợ.”
“Không đáng sợ với người chết... chỉ với người bị bỏ lại thôi.”
Nhưng, cũng như nhiều thanh niên Israel khác trên khắp đất nước này, Yigal vẫn hát cho mình nghe bài đó, và một buổi sáng mùa hè năm 1966, cậu đang đợi trong sân nhà ở Haifa thì một chiếc xe hơi màu đen chở hai thanh niên chầm chậm chạy qua, một người nghiêm trang gật đầu với Yigal khi chiếc xe đi tiếp. Tránh gây nghi ngờ, Yigal chậm rãi kết thúc công việc đang làm, vào nhà, vơ lấy áo khoác và lang thang xuống phố. Cô em gái Shoshana đang trên đường về nhà thì gặp anh trai và để ý đến chiếc áo khoác, cảm thấy thật kỳ lạ khi cậu mang nó theo vào một ngày nóng bức như vậy. Cô bé quay lại nhìn theo và thấy anh mình nhảy lên một chiếc ô tô màu đen hình như đang đứng đợi cậu, nhưng về đến nhà cô không nói gì cả. Tuy nhiên, khi Yigal không xuất hiện tại bàn ăn tối thì sự thật mới vụt hiện lên trong tâm trí cô như ánh sáng lóe lên trong bóng tối.
“Anh ấy đi đến Thành phố Đỏ!” Cô kêu lên. “Con biết mà!” Trong giọng nói của cô bé rộn lên một niềm hân hoan khiến cha mẹ cô hoảng sợ, vì họ biết cô đã đoán đúng.
Trong lúc đó, Yigal và các bạn đang tiến đến gần thành phố lịch sử Beersheba nằm ở rìa phía Bắc sa mạc Negev. Không giảm tốc độ, họ băng qua khu chợ lạc đà của thành phố họp thứ Năm hàng tuần và bắt đầu tiến vào sa mạc lổn nhổn đá chắn giữa họ và mục tiêu.
Khi đã đi khá sâu trong sa mạc Negev, họ rẽ vào một con đường nằm ở hướng Đông đã được một người trong nhóm thăm dò hồi hè năm ngoái, và một lúc sau, đúng như họ lường trước, con đường kết thúc, vì vậy họ đi tắt qua sa mạc, lái xe không đèn và chỉ nói chuyện thì thầm. Phía Bắc có một con đường khá tốt, gần như dẫn đến tận nơi họ muốn tới, nhưng những nhà phiêu lưu giống như họ đã rút ra bài học xương máu là không nên đi con đường ấy vì nó dẫn đến cái chết.
Cuối cùng họ dừng lại giữa đường, xuống xe và bắt đầu phăng phăng tiến về hướng Đông, vậy là chẳng bao lâu sau họ đã rời khỏi Israel bước vào khu vực Wadi Arabah thuộc Jordanie, một lòng chảo rộng lớn hoang vu chạy xuôi phía Nam đến vùng vịnh. Họ rảo bước trên vùn