Chương 6 GRETCHEN
Sappho[54] là một người đàn bà Hy Lạp đa cảm.
Đó sẽ là một ngày đáng buồn trong lịch sử luật pháp Mỹ, khi tòa án của chúng ta từ chối bênh vực người không tắm rửa, không đi giày, không chải đầu, không ăn mặc gọn gàng và không tuân thủ phép tắc.
Frodo chưa chết. Anh ta đang ẩn mình ở Chicago chờ ngày Thị trưởng Daley[55] rút lui.
Tôi đã phải nghe hàng chục gia đình phàn nàn về sự dửng dưng của con cái và cầu mong chúng tỏ ra quan tâm đến điều gì đó. Nhưng ngay khi bọn trẻ cho thấy bất kỳ dấu hiệu quan tâm nào đối với các phong trào chính trị thì các bậc cha mẹ lại giật mình và kết tội chúng là cấp tiến. Điều những người làm cha làm mẹ đó thực sự mong muốn là con cái họ sẽ quan tâm đến những thứ họ đã quan tâm ba mươi năm trước.
Hãy thuê người tật nguyền. Thật vui khi quan sát họ làm việc.
Nỗi luyến tiếc quá khứ đâu còn như xưa nữa.
Không câu nói nào của giới trẻ mang tính cách mạng hơn khẩu hiệu kỳ quặc “Hãy hạ gục họ bằng siêu tình yêu.” Nếu câu này trở thành cách xử thế phổ biến thì nó có thể làm suy sụp cái xã hội được thiết lập như hiện nay. Nếu một cảnh sát trưởng miền Nam cho chó nghiệp vụ săn đuổi một nhóm người da đen, và những người này hát bài dân ca tôn giáo về sự tha thứ và cầu nguyện cho ông ta với sự yêu mến rõ rệt thì họ sẽ thực hiện được phép màu đấy. Nếu một nữ sinh viên có thể chấp nhận bị đánh đập bằng dùi cui và sau đó có thể hôn tay những kẻ hành hung mình và trao cho họ tình yêu thương thì việc đó sẽ đảo lộn hết chương trình của họ. Đức Chúa Jesus đã nghĩ ra cách xử thế này hơn hai nghìn năm trước, và nhờ nó người đã góp phần làm lụn bại cả Đế chế La Mã.
Người nghị hòa gần đây nhất từ phía Hà Nội vừa bị bắt tại Central Park.
Thanh niên một quốc gia là những người được ủy thác trông nom thế hệ sau.
• Disraeli
Tôi yêu nước Mỹ nhất khi tôi bị kẹt trong những vấn đề chính trị của nó... trong những cuộc đấu đá bẩn thỉu mà nhờ đó các tổ chức xã hội giành chiến thắng tìm cách đoạt lấy phần quyền lợi không xứng đáng của họ. Tôi thích chứng kiến tín đồ đạo Thiên Chúa chiến đấu giành cho trường học của họ thêm chút tiền, người Do Thái đấu tranh cải thiện mối quan hệ giữa Washington và Jerusalem, các công ty dầu lửa tìm cách thoát khỏi sự kiểm soát của chính phủ, và người phát triển một loại thuốc mới dùng mọi thủ đoạn để thoát khỏi con mắt của thanh tra y tế. Với tôi, một thành phố như Newark, nơi người theo đạo Tin lành kỳ cựu phải nhượng bộ người Ý mới, vốn là những người sẽ không chịu nhường một phần nào cho người da đen mới, còn hấp dẫn hơn chiến trường Troy, vì theo quan niệm của tôi đó là trận chiến thực sự trong thời đại tôi đang sống. Đó chính là lý do khiến tôi thích thú theo dõi Hội nghị Đảng Dân chủ ở Chicago[56] đến thế. Bạn chỉ việc ngồi dán mắt vào màn hình vô tuyến xem lũ khủng long phương Tây nặng nề lê bước về ngọn núi lửa diệt vong mà không hề nhận thức được chút gì về cuộc hành quân ấy. Nó còn khiến tôi hồi hộp phấn chấn hơn cả sự diệt vong của Dòng họ Atreus[57], vì tự sát tập thể không thể không làm người ta xúc động, như người Nhật đã biết từ xa xưa.
Mụ bèn rút phắt con dao nhỏ,
Và đâm chết em bé dễ thương.
Khi đi đến nhà thờ mụ thấy
Trên bậc cửa, một em bé dễ thương.
“Ôi bé yêu, con là của ta,
Ta sẽ bọc con trong lụa là đẹp đẽ.”
“Ôi mẹ yêu, khi con là của mẹ,
Mẹ đã không tử tế với con.”
• Child 20
Mỗi ngày bên họ lại có thêm người chết, bên ta lại thêm trẻ ra đời.
—★—Cuối năm 1967, trụ sở chính ở Geneva cử tôi tới Boston nghiên cứu khả năng bỏ vốn cho một khu chung cư tương đối lớn dự định đặt ở vùng Fenway Park, và trong quá trình thảo luận, hàng ngày tôi được tiếp xúc với một nhà tư bản tài chính nổi tiếng người Boston, ông Frederick Cole. Tôi thấy ông là người xa cách nhưng có năng lực; hầu như trong mọi cuộc đàm phán ông luôn phản bác tôi, đánh giá mọi việc trái ngược với tôi, và cũng hiếm khi tôi gặp một người mà mỗi lần trình bày dữ kiện bổ sung tôi đều có thể yên tâm là ông sẽ kiểm tra một cách khách quan và sẽ thay đổi quan điểm trước của mình nếu cần. Đây là một khả năng khác thường, vì khi khăng khăng giữ lập trường của mình, hầu hết chúng ta đều dùng dữ liệu bổ sung chỉ đơn thuần như những phần thêm thắt củng cố cho lý lẽ của mình. Ông Cole thì biết lẽ phải.
Sau một buổi làm việc khó khăn, khi sự định giá của hai chúng tôi chênh lệch nhau tới hơn tám triệu đô la và ông lạnh lùng bảo vệ con số của mình, tôi phải tìm cách kết thúc phần tranh luận đó một cách êm thấm, vì vậy tôi nói, “Một người Ailen tên là Frederick thì kể cũng lạ.” Ông bật cười nói, “Không phải người Ailen, người Đức. Khi cụ cố tôi chuyển tới đây sau Cách mạng 1848, họ của cụ là Kohl, nhưng cụ e dân Boston có thể tưởng cụ là người Do Thái, vì vậy cụ đổi thành Cole, và thế là mọi người lại cho cụ là người Ailen, vốn thời ấy còn tệ hơn nhiều.” Tôi phá lên cười, và với thái độ lạnh lùng thường lệ, ông hỏi tôi liệu có vui lòng dùng bữa với ông tối hôm ấy không, và cuộc hẹn đột xuất đã được thu xếp.
Tôi đoán ông định đưa chúng tôi ghé vào một nhà hàng nào đó nhưng ông lại có kế hoạch khác. Ông gọi điện cho vợ thông báo ông mời tôi về nhà và chúng tôi sẽ ăn bất cứ món gì có sẵn. Chúng tôi bắt taxi, ra đại lộ Huntington rồi đến khu vực sang trọng hơn của Brookline, tại đây chúng tôi rẽ vào một gara nằm giữa đám cây cối và lùm bụi được chăm sóc cẩn thận. Trong thế kỷ trước, ngôi nhà có ván che màu trắng này thuộc sở hữu của một giáo sư Harvard nổi tiếng và đã được truyền từ đời này sang đời khác đến tay bà Cole, người hiển nhiên thuộc dòng dõi danh giá.
Ba chúng tôi vừa ngồi xuống bàn thưởng thức bữa ăn đơn giản gồm thịt bò nấu khoai tây, điểm chút hương vị New England với táo dại ướp gia vị và bánh mì phết mứt mộc qua, thì cô con gái của ông bà Cole, hiện đang học ở trường Radcliffe gần đó, bất ngờ đến nhập hội. Cô cao lớn, rám nắng, mái tóc nâu dài tết thành hai bím. Bộ váy áo bằng vải tuýt của cô là thứ vẫn được chúng tôi gọi là “món đồ xa xỉ kiểu nhà quê” và cách cư xử của cô toát lên vẻ quý phái theo cái nghĩa tốt đẹp nhất mà dân Boston dùng cho từ này. Cô tỏ ra vô cùng nhanh nhạy trong việc đánh giá tình hình và không cần ai nói cũng hiểu ngay tại sao tôi có mặt ở đó. Vì vậy, tôi không lấy làm lạ khi cha cô khoe lúc cô vào rửa tay, “Cháu Gretchen mới mười chín tuổi thôi mà đã tốt nghiệp đại học Radcliffe loại xuất sắc. Đến tháng Giêng này, cháu sẽ vào trường cao học.”
“Ấy là,” mẹ cô nói, “nếu chúng tôi có thể làm cho cháu dứt khỏi cái trò vô nghĩa của Thượng Nghị sĩ McCarthy.”
Lúc này Gretchen đã quay lại và chúng tôi được thưởng thức một bữa ăn thú vị với những trận cười sảng khoái khi cô kể về sự thiếu trình độ của phần lớn thanh niên trong tổng hành dinh của McCarthy. “Họ thực sự cho rằng hoạt động chính trị hoặc là năm 1810 với các cuộc diễu hành đuốc hoặc là năm 2010 với những trí tuệ siêu phàm đi đến những quyết định siêu phàm. Họ không có khái niệm gì về tình trạng bẩn thỉu của năm 1967, và biết rất ít về nó.”
Nhưng trong đêm đầu tiên tới thăm gia đình Cole, hoạt động chính trị không phải thứ khiến tôi ghi nhớ sâu sắc đến vậy. Sau bữa tối, Gretchen định đến dự một cuộc mít tinh ở trường Harvard - cô bắt buộc phải có mặt ở đó vì là đồng chủ tọa - thì cha cô bảo, “Gretchen, trông con có vẻ mệt mỏi. Sao con không nghỉ ngơi khoảng nửa tiếng và hát cho chúng ta nghe?” Có vẻ như cô đã được thừa hưởng sự hiểu biết từ cha mình, vì cô dừng lại, cân nhắc lời đề nghị một lúc, gật mạnh đầu, và nói, “Ý kiến hay tuyệt. Con đã làm việc cả ngày rồi.”
Cô ném áo khoác sang một bên, đến bên tủ và quay lại với một cây đàn guitar khá to, cây đàn mà khi mới nhìn, tôi cảm thấy nó có vẻ hơi quá lớn so với cô. Tuy nhiên, cô đã ngồi xuống một chiếc ghế đẩu thấp, hất đầu để đôi bím tóc màu nâu khỏi vướng và khẽ nói, “Child 243”. Tôi định hỏi tên bài hát có nghĩa gì thì cô đã bập bùng hai tiếng và bắt đầu chơi một giai điệu êm dịu, sau đó, bằng một giọng rất hay và trong trẻo, cô hát câu chuyện cổ về người phụ nữ lấy một anh thợ mộc đóng thuyền sau khi biết chắc chồng chưa cưới đã chết ở phương xa. Bốn năm sau, khi cô và anh thợ mộc đã có ba con thì người yêu cô trở về:
“Con vua ta có dễ dàng,
Yêu ta say đắm, vui lòng lấy ta;
Lòng ta chỉ nhớ tới nàng,
Bạc vàng, châu báu chẳng màng đến chi.”
“Vì chồng em là chàng thợ mộc,
Thợ đóng tàu trẻ chính là chồng em.
Và bé trai nhỏ xinh đã ra đời,
Nếu không, chàng hỡi, em nguyện theo chàng.”
Người đàn bà bỏ chồng, trốn đi với mối tình đầu để rồi phát hiện ra anh ta không còn là người nữa mà đã trở thành quỷ. Tiếng hát của Gretchen trở nên mong manh và đầy dự cảm khi đến đoạn kết:
“Cột buồm chính, tay hắn bẻ gãy,
Cột buồm trước, đầu gối hắn đè,
Và bóp vỡ chiếc tàu thành hai mảnh,
Hắn nhấn chìm nó xuống biển khơi.”
“Tên bài này là gì?” tôi hỏi.
“Child 243,” cô đáp, rồi bật cười. “Đó là tên chúng cháu thường dùng. Thực ra, đây là khúc ‘Người tình Yêu quái’. Còn Child số bao nhiêu là do một người bạn thời xưa của gia đình cháu đặt.”
Bà Cole giải thích rằng suốt những năm cuối thế kỷ trước, trong một ngôi nhà cách chỗ chúng tôi đang ngồi không xa lắm, một giáo sư Harvard nổi tiếng, ông Francis James Child, sưu tầm những khúc ballad cổ bấy giờ đang dần bị quên lãng. Ông dành gần năm mươi năm cho nhiệm vụ này, tập hợp mọi dị bản được biết đến của từng khúc ballad. Trước khi mất không lâu, ông xuất bản công trình sưu tầm của mình thành mười tập lớn ghi lại lịch sử ra đời và tồn tại của 305 khúc ballad cổ điển.
“Điều thú vị,” bà Cole nói tiếp, “là cứ đến mùa xuân, giáo sư Child đáng kính thường lại rời Boston lang thang khắp nước Anh và Scotland tìm kiếm những khúc ballad quý giá của mình. Ông đã thực sự tiêu hết của cải và sức lực vào việc đó. Nhưng cùng khoảng thời gian ấy, một học giả người Anh cũng dành tiền bạc và những kỳ nghỉ của mình lang thang quanh vùng núi Kentucky và Tennessee, sưu tầm chính những khúc ballad kia. Bởi vì, như ông biết đấy, những người Anh đầu tiên đến định cư ẩn náu trong vùng núi phương Nam của chúng ta đã mang theo các khúc ballad ấy. Thường thì dân miền núi Kentucky giữ gìn chúng dưới dạng gần với nguyên bản hơn chính người Anh.”
“Bà Cole nhà tôi hiểu khá rõ vấn đề này,” chồng bà giải thích, “vì giáo sư Child đã dạy mẹ vợ tôi hát khá nhiều khúc ballad. Chính tại phòng này, Gretchen học những bài đó từ bà ngoại, vì vậy giọng cháu khá trong sáng.”
“Tôi xem một quyển được không?” tôi hỏi.
“Thật không may, hiện nay chúng có giá trị khá lớn,” ông Cole đáp, “và gia đình chúng tôi chưa bao giờ được sở hữu một bộ. Gretchen phải đến thư viện mới xem được. Con gái yêu, hát cho chúng ta nghe khúc 173 đi.”
Tôi không đủ hiểu biết về ballad để có thể nói được khúc nào là vua. Sau này tôi còn được nghe Gretchen và bạn bè cô hát nhiều khúc ca hùng dũng về các hiệp sĩ dũng cảm và các thuyền trưởng gan dạ, một vài khúc trong số đó rất hấp dẫn; nhưng tôi khá chắc chắn đâu là khúc ballad nữ hoàng. Nó phải là Child 173. Ngay từ phút giây đầu tiên Gretchen gảy một loạt hợp âm báo điềm chẳng lành trên chiếc guitar, tôi đã bị quyến rũ bởi câu chuyện về Mary Hamilton, cô thôn nữ tới Edinburgh để trở thành một trong số bốn cô gái cùng tên Mary làm người hầu cho Mary, nữ hoàng Scotland. Không may, chồng nữ hoàng đem lòng yêu thương nàng và làm nàng mang thai. Bi kịch bắt đầu với một trong những khổ thơ đơn xuất sắc nhất của nền thi ca dân gian Anh:
Lời đồn bay đến bếp xa,
Lời đồn bay khắp hoàng gia,
Lời đồn lên tới tai nữ hoàng,
Và chuyện bẽ bàng nhất lại là,
Nàng Mary Hamilton đã sinh một đứa con,
Cho đức vua Stewart anh minh.
Sau này, khi nghiên cứu khúc ballad tuyệt vời ấy, tôi đi đến kết luận rằng sự tiến triển của ba dòng đầu, cách miêu tả tin đồn loang khắp hoàng cung - bay đến, bay khắp, lên tới - là thơ ca dân gian ở đỉnh cao nhất. Toàn bộ sự đau khổ của khúc ballad được báo trước trong những câu ca dồn dập không kịp thở đó, và lần đầu tiên tôi nghe Gretchen Cole hát những câu đó, cô đã truyền cho chúng một ý nghĩa lịch sử tuyệt vời. Mary Hamilton là cô gái có thật, bị rơi vào một vụ tai tiếng vô phương chối cãi; đây là sự khởi đầu chỉ có thể kết thúc trên đoạn đầu đài, và những tình huống hấp dẫn như vậy là chất liệu của thơ ca.
Đến đoạn cuối, cũng hay một cách u sầu không kém gì đoạn đầu, Gretchen hát với sự trầm lắng và đau buồn học từ bà ngoại, học trò của ông giáo sư; tôi chưa bao giờ nghe đoạn kết một khúc hát dân gian nào mang đến cho tôi cảm giác hoàn toàn thỏa mãn như khúc này, có lẽ vì mỗi khi lắng nghe tôi lại nhớ đến không khí im lặng luôn tràn ngập căn phòng khi Gretchen Cole hát những lời cuối:
Tối qua nữ hoàng có bốn Mary,
Đêm nay, bà chỉ còn ba;
Trước đó có Mary Beaton, Mary Seaton,
Và Mary Carmichael, và ta.
Hai dòng đầu là bản chất của bi kịch, được miêu tả sơ sài; hai dòng cuối, với chuỗi tên thật rất ấn tượng của các cô gái, mang bi kịch trở về thực tế và nhắc chúng ta nhớ rằng một cô gái có thật sắp bị treo cổ.
Bởi vậy tôi giật mình khi bà Cole nói với tôi, “Lần nào hát khúc 173, mẹ cũng sẽ kể cho bọn trẻ chúng tôi nghe câu chuyện thực sự về Mary Hamilton, như giáo sư Child đã kể cho bà, và nó luôn làm chúng tôi rùng mình sợ hãi.”
“Bà ngoại kể cho cháu nghe câu chuyện này khi cháu còn nhỏ,” Gretchen xen vào, “và ngay cả bây giờ, cháu vẫn ứa nước mắt mỗi lần hát đoạn cuối. Đôi khi có người bảo cháu, ‘Đoạn cuối cô hát quá xúc động.’ Cháu không cho họ biết đó là vì bà ngoại đã diễn tả trong ấy câu chuyện về nàng Mary Hamilton thực.”
“Nàng là ai?”
Bà Cole đáp, “Theo những tài liệu của triều đình Elizabeth, khi Mary xứ Scotland còn trẻ và ở Pháp, đúng là bà có bốn cô hầu xinh đẹp đều tên Mary. Nhưng không phải một trong bốn cô đó bị treo cổ. Đó là một người đàn bà gian hùng xinh đẹp người Scotland đến Leningrad một thế kỷ sau đó... thời Pie Đại đế. Bằng cách nào đó nàng ta lọt được vào triều đình, và theo như một số người nói, nàng ta đã trở thành người tình của Pie. Dù thế nào đi chăng nữa, nàng ta đã sinh một đứa con hoang, bọc nó vào trong tã và vứt xuống giếng. Bà ta bị kết án tử hình, không phải vì Pie muốn thế mà vì ông ta vừa ban hành sắc lệnh tuyên bố xử tử những người đàn bà giết con hoang của mình. Vụ xử trảm đó rất nổi tiếng, với nàng Mary Hamilton diện bộ đồ bằng lụa hảo hạng. Khi đầu nàng ta lăn ngoài phố, Nga Hoàng đã nhặt lên, hôn hai lần, rồi đọc một bài điếu văn. Rồi ông ta hôn nó lần nữa và ném xuống rãnh.”
—★—Đầu năm 1968, sau thời gian thương lượng căng thẳng, Frederick Cole và tôi đã đạt được thỏa thuận về dự án Fenway Park, và để ăn mừng ông lại mời tôi tới Brookline dùng bữa tối và uống sâm banh, tôi mang theo một món quà đặc biệt tình cờ mua được ở London, nhưng khi chúng tôi ngồi vào bàn rồi, tôi mới thất vọng nhận ra Gretchen sẽ không ăn cùng chúng tôi. “Nó đang ở New Hampshire điều hành một văn phòng của McCarthy,” mẹ cô nói có phần phẫn nộ. “Nó nghiêm chỉnh chấp hành khẩu hiệu ‘Hãy Sạch sẽ vì Gene’[58] và đã thuê hẳn một tay thợ cạo đến cắt tóc miễn phí cho các tình nguyện viên nam.”
Khi tôi phát biểu rằng tôi khá vui vì thấy thanh niên quan tâm tới chính trị, bà Cole nói, “Ồ, tôi không phiền gì chuyện đó. Ông Frederick và tôi đều thuộc phái Cộng hòa, tất nhiên, và chắc ông cũng vậy, và tôi phải thừa nhận kể cũng lạ khi chúng tôi lại có đứa con gái tích cực hoạt động cho một đảng viên đảng Dân chủ. Nhưng chúng tôi có thể thích nghi với chuyện này. Điều khiến tôi lo lắng là nó đã bỏ trường cao học. Thậm chí còn không tham dự những giờ học đầu tiên. Tôi nghĩ điều đó thật đáng tiếc.”
“Con hãy còn trẻ mà em,” ông Cole nói. “Một năm trưởng thành hơn cũng tốt cho nó.”
Vậy là tối đó tôi không có cơ hội trao quà, nhưng khi Gretchen về Boston sau chiến thắng ly kỳ của McCarthy ở New Hampshire, gia đình Cole lại mời tôi tới, và tôi thấy cô thiếu nữ Gretchen, lúc này đã hai mươi tuổi, thậm chí còn tươi tắn và lôi cuốn hơn trước. Cô có vô số câu chuyện về hội nghị tuyển chọn ứng cử viên ở New Hampshire: “Tổng thống Johnson dứt khoát là xong rồi. Tất cả bọn con sẽ đi Wisconsin... cả đội... cả nhà nên thấy tận mắt tinh thần của chúng con. Con bảo đảm chúng ta sẽ thay đổi hoạt động chính trị ở đất nước này. Sẽ không còn ai có thể gây ra bất kỳ thứ gì như cuộc chiến tranh Việt Nam được nữa.”
“Con cũng nên xuống thang một chút đi,” ông Cole khuyên. “Ông Fairbanks có quà cho con đấy.”
Lúc này Gretchen lại trở thành cô gái nhỏ vui sướng vì sắp được quà, rồi khi tôi cho cô xem một cái hộp khá lớn và nặng, cô áp chặt mấy đầu ngón tay vào miệng, cố đoán xem đó là gì. Tôi tin chắc cô không thể biết được, vì ngay cả khi đã mở lớp giấy bọc để lộ hộp bìa nặng bên trong, rõ ràng cô vẫn vô cùng bối rối. Mở nắp hộp rồi, cô lại gặp phải những nùi giấy lụa và kêu lên, “Cái gì thế này? Ông làm cháu phát điên mất!”
Đám giấy lụa đã được lôi ra hết đâu đấy, cô nhìn thấy mười tập đồ sộ Những bản ballad dân gian Anh và Scotland, 1882 - 1898 của giáo sư Child được người chủ trước nào đó ở London đóng bìa da dày cộp. Cô không thốt lên được lời nào. Những tập sách này không chỉ là một trong những thành quả hàng đầu của sự uyên bác Mỹ; chúng còn là công trình của một người từng là hàng xóm của bà ngoại cô, là cảm hứng của toàn thể lớp trẻ hát ballad ở Mỹ và Anh, những người vẫn ca ngợi chất thơ ám ảnh được ông Child cứu vãn. Đây không chỉ là một bộ sách mười tập; đây là bản di chúc cơ bản cho thế hệ của Gretchen.
Chọn ngẫu nhiên một tập sách, cô giở qua các trang mà cô vốn biết rất rõ qua những buổi nghiên cứu tại thư viện và reo lên, “Đây là khúc cháu sẽ hát như một lời cảm tạ,” rồi cô mang guitar ra phòng khách, đưa cho tôi tập IV đã mở sẵn ở trang cuối: Child 113 - The Great Silkie ol Sule Skerrie.
“Cái tên khá lạ,” tôi nhận xét.
“Silkie là hải cẩu.” Thấy tôi nhún vai, cô nói, “Một con hải cẩu bơi trong nước. Khi lên đất liền, nó biến thành một người đàn ông. Con hải cẩu này có một đứa con trai với cô giữ trẻ đã bị nó quyến rũ. Nó quay lại để thăm con.
“Rồi vào một ngày nóng nực,
Khi mặt trời chiếu rọi từng tảng đá,
Ta sẽ đưa đứa con trai bé bỏng đi,
Và dạy con bơi trong biển xa.”
Phần nhạc đệm cho những lời hát kỳ lạ này thật ám ảnh; người ta có thể nghe thấy tiếng thì thầm của biển Scotland lạnh giá và sự huyền bí của một thời đại khi hải cẩu và con người trao đổi sự sống cho nhau. Đây là kiểu ballad được thanh niên thế hệ này ưa thích vì nó vừa có sự giản dị mà họ khao khát lại vừa có vẻ đẹp mà họ quý trọng. Tôi ngẫm nghĩ về những điều này trong khi Gretchen chơi một đoạn chuyển tiếp điệu thứ trên guitar. Rồi cô bắt đầu hát đoạn cuối, và tôi lặng người kinh ngạc trước nội dung của nó, không giống trong bất kỳ khúc ballad nào trước đây tôi đã được nghe. Con hải cẩu nói với cô gái rằng sau khi nó mang con trai rời khỏi đất liền và dạy đứa bé trở thành một chú hải cẩu giỏi giang, cô sẽ tìm được cho mình cuộc sống tốt đẹp với số vàng nó đã trao cho cô.
“Và em sẽ cưới một chàng pháo thủ tài ba,
Và ta tin chắc anh ta là một chàng pháo thủ tài ba,
Và phát đại bác đầu tiên chàng nhắm bắn,
Chàng sẽ bắn cả con trai bé bỏng của ta và ta.”
Dường như khúc ballad cổ này đã đoán trước được chiều hướng bi kịch sẽ bất ngờ xảy đến với thanh niên Mỹ thời bấy giờ. Không từ nào trong những đoạn trước chuẩn bị tinh thần cho người ta tiếp nhận linh cảm của con hải cẩu về cái chết của mình dưới bàn tay chàng pháo thủ ngang tàng; người nghe bất chợt có cảm giác về một kiểu phi lý tuyệt diệu. Tôi thường có cảm giác hẫng hụt tương tự mỗi khi tranh luận về chế độ quân dịch với những thanh niên như Joe hoặc về quan hệ sắc tộc với Cato. Bằng trực giác, họ cảm nhận được các khía cạnh của tương lai mà tôi không thể.
Trong những tháng kế tiếp, khi ở Boston khởi động cho dự án, tôi có khá nhiều dịp gặp gỡ gia đình Cole, và mặc dù Gretchen thường xuyên vắng nhà vì bận làm việc cho Thượng nghị sĩ McCarthy, nhưng bất cứ lúc nào có mặt ở đó, cô đều để cho tôi góp ý về những chuyện đang diễn ra. Tôi phát hiện cô còn hát hay hơn rất nhiều so với sự phỏng đoán của tôi khi mua tặng cô mười tập sách đó; cô thường hát ở các quán cà phê và đôi khi trình diễn cùng các nhóm nhạc trong một số chương trình hòa nhạc được lên lịch từ trước có sự tham dự của sinh viên quanh khu vực Boston, và trong khi những người khác chuyên hát các bài phản kháng cho đến tận khi tưởng như cách mạng sắp nổ ra đến nơi, cô vẫn giữ những bản ballad của Child, và dù xuất hiện ở bất cứ buổi hòa nhạc nào thì cô chắc chắn luôn là một ngôi sao.
Cô vẫn để bím tóc, vẫn thích giày màu nâu đế thấp và quần áo giản dị. Cô có nước da sáng không cần trang điểm cầu kỳ và có nhan sắc đủ để thu hút sự chú ý. Tác phong của cô thì nhanh nhẹn, không kiểu cách; cô không bắt chước giọng miền núi thất học vốn rất được giới làm trò mua vui thời đó ưa chuộng mà cũng không tầm thường hóa ca khúc bằng các bóng gió mang tính thời sự hay bằng sự khêu gợi tình dục. Cô nghiêm túc giữ nguyên ca từ của Child, như thể bất cứ lúc nào ông giáo sư già cũng có thể hiện về kiểm tra xem tác phẩm của mình được sử dụng ra sao. Một đêm cô nói với tôi, “Khi chọn lọc lời ca, ông càng quay về quá khứ thì càng có khả năng là ông đúng.” Tôi hỏi ý cô là gì, và cô đưa cho tôi xem một tập trong số sách của mình. Chỉ riêng Child 12, khúc ballad có lẽ được ưa thích nhất trong tổng số 305 khúc kể về việc huân tước Randal bị người yêu đầu độc - đã có mười lăm bản phóng tác khác nhau, trong đó có một bản do Ngài Walter Scott biên tập, cô nói, “Nếu cháu sử dụng bản mới nhất, ông sẽ thấy nó đã được thêm thắt một số chi tiết nhằm làm cho nó hay hơn. Ông quay về bản cổ nhất và sẽ luôn thấy nó rất mạnh mẽ, gay gắt và rất gần với cảm xúc con người. Cháu nghĩ chính vì vậy mà giới trẻ thích ballad đến thế.”
Rồi thì tôi cũng trở nên khá quen thuộc với một số khúc ballad của Child, nhưng trong bất cứ buổi biểu diễn nào thì cao điểm vẫn là lúc Gretchen tuyên bố bằng giọng dịu dàng, “Bây giờ tôi sẽ hát Child 173”, vì khi đó cử tọa sẽ hoan nghênh nhiệt liệt; trong khu vực Boston, bài “Mary Hamilton” vốn nổi tiếng là bài đỉnh cao của Gretchen. Nhưng tôi lại dành nhiều tình cảm hơn cho Child 113, khúc ballad ám ảnh nói đến linh cảm của chàng hải cẩu về cái chết. Không phải buổi hòa nhạc nào Gretchen cũng hát, vì đôi khi tâm trạng của khán giả không thích hợp, nhưng có những đêm, khi đám đông phần lớn là thanh niên đang lo lắng về chiến tranh Việt Nam, cô sẽ hát khúc ca này, và phần kết kỳ lạ đó sẽ khiến mọi người sững sờ, như thể cô nữ sinh Radcliffe thông minh này đã thấu hiểu tâm tư và nói lên suy nghĩ thực của họ:
“Và phát đại bác đầu tiên chàng nhắm bắn,
Chàng sẽ bắn cả con trai bé bỏng của ta cùng với ta.”
—★—Một buổi chiều, lần đầu tiên tôi nhận thức được Gretchen có thể gặp rắc rối khi cô đột ngột bước vào văn phòng tôi ở gần Fenway Park mà hỏi, “Ông có thể cho cháu vay hai trăm đô la được không... ngay bây giờ?”
Yêu cầu của cô quá bất ngờ và về một mặt nào đó thì đúng là phi lý vì gia đình cô thuộc loại khá giả, đến nỗi tôi phải hỏi, “Để làm gì?”
Cô nhìn tôi vẻ nôn nóng và hỏi lại, “Ông có thực sự muốn biết không?” Khi tôi gật đầu, cô nói, “Thôi được, không phải để nạo thai, cháu tin chắc ông đang nghĩ thế. Và cháu cũng không định bỏ nhà đâu.”
“Như vậy là loại trừ được hai lý do đáng lưu ý,” tôi nói.
“Nhưng ông vẫn muốn biết?” Cô hỏi, có phần bực bội.
“Nếu là hai trăm đô la thì đúng.”
“Ông sẽ không vui đâu,” cô báo trước, rồi rời văn phòng của tôi, đứng ở hành lang huýt sáo. Ngay sau đó bên cạnh cô xuất hiện hai thanh niên, hai kẻ khốn khổ chưa từng thấy, ngoại trừ trong bản tin thời sự trên ti vi. Người thứ nhất cao gầy, râu ria xồm xoàm, quần áo không là và dơ dáy hết mức. Kẻ thứ hai bè bè chắc nịch, tóc cắt rất ngắn và có vẻ giận đời. Cả hai có lẽ trạc tuổi Gretchen nhưng thiếu tự tin hơn nhiều. Thực ra, thứ có triển vọng duy nhất mà tôi nhận thấy ở họ là răng họ trắng và rất đều, có vẻ như họ thường xuyên được cha mẹ đưa đến bác sĩ nha khoa.
“Đây là Harry ở Phoenix và Carl ở New Orleans. Mỗi người cần một trăm đô la.”
“Để làm gì?” Tôi hỏi, ngờ rằng có lẽ Gretchen đã đúng khi nói tôi sẽ không muốn biết.
Cô đáp lại với vẻ vô cùng điềm đạm, “Họ phải vượt biên... sang Canada. Harry phải trốn quân dịch. Carl đã vào quân đội... cậu ấy đào ngũ.”
Khi cô nói câu này, hàng loạt ý kiến phản đối lóe lên trong tâm trí tôi, một phản ứng chắc hẳn Gretchen từng gặp: Đầu tiên ông ta nghĩ, “Đồ bỏ đi chết tiệt, đi xin tiền của một đứa con gái.” Rồi ông ta nghĩ, “Quân đội sẽ dạy cho chúng nhiều điều bổ ích. Mình nên gọi cảnh sát.” Ông ta lại nghĩ, “Mình sẽ gặp cả đống rắc rối nếu cho anh chàng Phoenix tiền để trốn quân dịch. Thậm chí nếu mình giúp anh chàng kia đào ngũ thì còn tệ hơn. Người ta có thể bắt giam mình vì tội xúi giục và giúp đỡ tội phạm. Và cuối cùng, ông ta nghĩ, “Mình không muốn dính líu vào vụ này.”
Tôi nghiêm nghị hỏi Gretchen, “Cô có biết việc cô đang làm là phạm pháp không?”
“Và cần thiết.”
Quay sang hai cậu thanh niên, tôi hỏi, “Tại sao các cậu lại thấy cần phải trốn?” Họ nhún vai như thể muốn nói, “Này ông, chúng tôi không thể nhai đi nhai lại câu chuyện làm quà ấy. Ông có thể đưa hoặc không đưa cho chúng tôi hai trăm, nhưng vì Chúa, xin miễn răn dạy chúng tôi.” Tôi nói, “Tôi không muốn biết tên các cậu. Tôi không muốn biết bất cứ điều gì về chuyện này. Gretchen, tôi sẽ cho cô vay hai trăm đô la, nhưng tôi muốn thư ký của tôi trao cho cô - trực tiếp - trước mặt nhân chứng.” Tôi chỉ cánh cửa cho hai kẻ đào tẩu và họ ra ngoài. Khi cả hai đã đi khuất hẳn, tôi gọi cô thư ký vào bảo, “Cô Cole muốn vay hai trăm đô la. Cô làm ơn ra lấy tiền ở chỗ thủ quỹ.”
“Từ tài khoản cá nhân của ông ạ?”
“Tất nhiên rồi.” Khi cô thư ký đi khỏi, Gretchen nói, “Ông khá thận trọng đấy, đúng không?” Tôi bèn đáp, “Xem này, thưa quý cô. Tôi từng làm việc tại hơn một chục nước khác nhau cách xa Geneva rồi. Khối kẻ chỉ mong bắt được tôi đang chơi trò chợ đen, buôn tiền hay buôn ma túy... hoặc giúp mấy thằng thanh niên vô dụng trốn nghĩa vụ quân sự. Nếu đó là mối quan tâm của cô thì được thôi. Không phải vấn đề của tôi.” Tôi gọi hai nhân viên thiết kế đến, làm ra vẻ như xem xét phần việc của họ. Tôi muốn họ có mặt khi cô thư ký quay lại văn phòng tôi mang theo hai trăm đô la. Họ sẽ chứng kiến tôi đưa tiền cho Gretchen và nghe thấy tôi nói, “Đây là hai trăm đô la tôi cho vay đến thứ Sáu tuần sau. Đừng tiêu pha phung phí nhé.”
Cuối buổi chiều hôm đó, Gretchen quay lại văn phòng cảm ơn tôi. “Tình hình thật sự cấp bách,” cô nói. “Hai cậu thanh niên tội nghiệp ấy chỉ còn một ngày nữa là rắc rối to. Giờ này ngày mai, họ sẽ được an toàn ngoài biên giới.”
Giọng cô có vẻ bí ẩn đến nỗi tôi phải hỏi, “Cô vẫn thường xuyên làm những việc như vậy sao?” Và cô phản công luôn, “Ông có đoán được tại sao cháu hát ở quán cà phê nhiều đến thế không? Từng xu cháu kiếm được đều dành để giúp đỡ những thanh niên trốn quân dịch. Cả tiền tiêu vặt của cháu nữa.”
“Nhưng vì sao?”
“Vì chúng cháu đang bị kẹt trong một tình huống ác nghiệt và vô lý. Năm ngoái, khoảng hai mươi nữ sinh Radcliffe chúng cháu học cùng với sinh viên năm thứ nhất trường Harvard. Chúng cháu mau chóng hiểu ra rằng nếu chúng cháu giành được điểm cao nhất, các bạn nam ấy sẽ chỉ còn lại điểm thấp hơn, có nghĩa là họ sẽ mất quyền được hoãn quân dịch và bị quân đội tóm ngay. Vì vậy cháu tập hợp đám con gái lại thành nhóm. Chúng cháu nhất trí giả vờ ngốc nghếch... để các bạn nam giành được điểm cao. Nhưng sau bài thi thứ nhất, giáo sư gọi chúng cháu đến mà bảo, ‘Tôi biết các cô đang làm trò gì. Các cô thông minh hơn nhiều so với những gì thể hiện trong bài thi. Thôi ngay cái trò ấy đi.’ Khi chúng cháu cố gắng giải thích về vấn đề quân dịch, giáo sư ngắt lời, ‘Trước khi khóa học bắt đầu, tôi đã quyết định hạ của mỗi nữ sinh hai điểm và nâng cho nam sinh một điểm rồi. Vậy nên xin các cô thi cử cho thật tốt, tiếp thu lấy tri thức, còn bảo vệ các chàng trai thì để tôi lo.’ Điểm C duy nhất có được. Cháu quý nó lắm.”
Tôi đưa cô đi ăn tối và lắng nghe cô tả sơ qua về mọi trò gian dối cô đã sử dụng để giúp đám nam sinh không phải nhập ngũ: thuốc gây nhiệt độ cao trước khi khám sức khỏe, mấy thứ thuốc khác giả tiếng tim, phiếu khám sức khỏe giả, hồ sơ giáo dục giả, và một đường dây bí mật bằng tàu hỏa giống như hệ thống được dân nô lệ sử dụng trong thập kỷ 1850, đi từ New York đến New Haven, Boston, Montreal. Một người bạn cùng lớp với cô tại Radcliffe, con gái một mục sư, chuyên dạy những thanh niên vô thần đóng giả làm người từ chối nhập ngũ vì lương tâm không cho phép với sự hỗ trợ của giấy tờ giả do các giáo sĩ giả cung cấp... Một bầu không khí mục nát độc hại nảy sinh từ cuộc chiến tranh Việt Nam, và Gretchen Cole ở chính giữa.
“Cháu biết, việc ấy không hay ho gì - đưa các chàng Tarzan trẻ trung khỏe mạnh vượt biên sang Canada - nhưng chẳng có gì chúng cháu làm lại có thể đem so với một tội ác còn lớn hơn nữa, đó là tiến hành cuộc chiến tranh không tuyên bố khiến biết bao thanh niên Mỹ phải bỏ mạng và để cho những người như ông hoặc cha cháu cứ việc tiếp tục hoạt động kinh doanh bình thường của mình. Ông Fairbanks, hai trăm đô la ấy không phải tiền vay. Đó là tiền thuế.”
Sau bữa tối, chúng tôi đến câu lạc bộ nơi Gretchen thường hát, và khi nhìn thấy cô ngồi dưới ánh đèn, cây đàn guitar to che khuất cả người, đôi bím tóc chạm bờ vai, tôi đã nghĩ đây chính là một cô gái thuần khiết như pha lê; cô như một con suối rừng ngày đông, trong trẻo và mát lạnh, hai bên bờ không có lấy một chiếc lá mủn nào. Khi hát các khúc ballad cổ, cô dường như đã mang chúng ra từ kho tàng kinh nghiệm sâu xa và được bảo vệ cẩn thận của nhân loại, cô gần như là một nữ giáo sĩ chịu trách nhiệm gìn giữ những thứ được cho là tốt đẹp. Cô không phải người con gái bình thường, đúng thế. Cô là người đáng tin cậy, là sự kết hợp hấp dẫn giữa trí tuệ, tính cách và đạo đức. Cô đã rất đúng khi tự giới hạn mình trong những khúc ballad cổ nguyên gốc, không bị làm hỏng bởi những quan điểm hiện đại được đưa vào nhằm làm chúng dễ tiếp thu hơn, vì chúng thể hiện con người cô và truyền đạt tư tưởng của cô đến các thính giả trẻ.
“Bây giờ tôi sẽ hát Child 286,” cô thông báo trước khi hát tặng một khúc ballad tôi chưa được nghe bao giờ. Giống như những khúc hát khác, khúc này khá vụng về, không được trau chuốt và làm người ta tức điên. Chuyện kể về hành động của Ngài Walter Raleigh khi con tàu The Golden Vanity của ông ta tình cờ gặp chiến thuyền Thổ Nhĩ Kỳ tốt hơn. Khi Raleigh xem chừng có nguy cơ bị mất tàu thì lại tìm được sự giúp đỡ bất ngờ:
Rồi chàng bồi tàu bé nhỏ của chúng ta đứng dậy,
Thưa rằng, “Bẩm chủ nhân, nếu con phá tàu, ngài sẽ thưởng chi đây?”
“Ta sẽ ban cho mi kho hàng, ta sẽ ban cho mi vàng bạc,
Cả con gái ta cũng thuộc về mi, khi ta quay trở lại đất liền,
Nếu mi đánh đắm được chúng ở Low Lands Low.”
Chàng trai táo bạo bèn lặn xuống nước bơi tới chỗ kẻ thù Thổ Nhĩ Kỳ, đục nhiều lỗ ở bên mạn và đánh đắm tàu địch, nhưng khi chàng bơi trở lại The Golden Vanity, Ngài Walter lại thay lòng đổi dạ, ngài thấy thật nhục nhã nếu đem vàng bạc và con gái cho một gã bồi tàu.
Chàng cầu xin chủ nhân, “Con sẽ không trách móc ngài đâu,”
Chủ nhân đáp lại, “Ta sẽ không cho mi lên tàu đâu,
Ta sẽ giết mi, ta sẽ bắn mi, ta sẽ ném mi vào dòng nước,
Ta sẽ cho mi chìm nghỉm ở Low Lands Low.”
Chàng trai bơi mãi, bơi mãi quanh mạn phải;
Họ vớt chàng lên boong, và chẳng mấy chốc chàng qua đời;
Rồi họ khâu chàng trong tấm da bò già,
Và ném chàng qua mạn tàu rơi xuống nước,
Họ để chàng chìm nghỉm ở Low Lands Low.
Khi Gretchen hát xong, tiếng vỗ tay hoan hô chứng tỏ mọi người đều tán thành, vì hành vi vô đạo đức thô bỉ của Raleigh nhắc các thính giả trẻ nhớ đến cái thế giới bất công mà họ phải đương đầu, và khi đêm dần trôi, với các nhóm chuyên nghiệp tiếp tục hát các ca khúc thịnh hành thời đó, tôi ngồi một mình suy ngẫm đến việc mình hiểu biết ít ỏi như thế nào về thứ âm nhạc trong mấy cái đĩa hát tôi tặng Monica và Yigal và nó có ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhường nào tới thế hệ này.
Thật mỉa mai: con cái các gia đình khá giả ngồi trong những căn hầm ở Haifa hoặc nhà gỗ ở Vwarda lắng nghe ca khúc ai oán về bọn sát nhân, cướp ngân hàng, bọn vô công rồi nghề, các nhà cách mạng, các chàng Robin Hood cưỡi xe máy, tất cả đều do các thanh niên râu ria không cạo mặc đồ bằng vải bông thô kiếm mỗi năm một triệu đô la thể hiện. Các ca khúc tôi nghe ở Boston mùa đông năm ấy toàn lời kêu gọi nổi loạn, và lần đầu tiên tôi nhận ra, nếu những thanh niên ưu tú như Gretchen được nuôi dưỡng bằng những bài ca kiểu ấy trong suốt mười năm qua - những năm ảnh hưởng lớn nhất đến sự hình thành tính cách của cuộc đời họ - thì mọi sự trong thế giới người trưởng thành sẽ buộc phải thay đổi.
Đối với tôi, khám phá đó mới mẻ đến nỗi một đêm tôi không nghe nhạc nữa mà chỉ chú tâm đến các ca từ mà một ca sĩ solo nổi tiếng đang trình bày; trong một chùm ca khúc bốn bài, anh ta cổ vũ cho một cuộc trốn tù, đánh bom ngân hàng, dụ dỗ hai cô bé mười bốn tuổi, và một bữa tiệc ma túy kéo dài. Đó là thứ rượu bia nồng độ mạnh do các ca sĩ kiểu ấy pha chế, và tôi có thể hiểu được tại sao Gretchen, vốn đã được luyện cho quen với những quan điểm như vậy cộng thêm các khúc ballad cổ thuật lại những chuyện tương tự trong thời của chúng, lại quyết định rằng mình phải ủng hộ những kẻ trốn lính và đào ngũ.
Vì vậy tôi nhẹ cả người khi cô lên sân khấu hát một bản tình ca giản dị: Child 84. Nó kể về nàng Barbara Allan, người có trái tim băng giá đã từ chối tình yêu của một chàng trai:
Chàng bèn sai người đi khắp thành,
Tìm đến ngôi nhà nàng đang sống:
“Xin nàng mau tới thăm chủ nhân của tôi,
Nếu quả nàng là Barbara Allan.”
Nàng bật dậy, vội vội vàng vàng,
Tìm đến giường bệnh chàng nằm,
Và khi nàng kéo rèm sang bên,
“Chàng trai, ta tưởng chàng đang hấp hối.”
Tôi bật cười vì tính phi lý của câu cuối, nhưng đám khán giả trẻ ngồi nghiêm trang xung quanh quay sang nhìn tôi chằm chằm như thể tôi đã phạm tội báng bổ thần linh, vì vậy tôi phải lấy tay che miệng và lắng nghe.
Khi cô kết thúc khúc ca ai oán ấy, tôi chợt nghĩ mình chưa bao giờ thấy Gretchen đi cùng bạn trai, ngoại trừ trong một nhóm, và tôi tự hỏi vì sao một cô gái hấp dẫn, đa tài như thế lại không có một chàng trai cho riêng mình. Gần giống như cô là nhân vật nữ chính của một trong các khúc ballad của cô; nàng Barbara Allan trái tim băng giá hay có thể là cô gái phải lòng con quỷ.
Tôi đang ngẫm nghĩ về những vấn đề này thì Gretchen đến ngồi cùng, và trong lúc chúng tôi uống nốt cốc nước của mình - cô dùng nước gừng có ga - thì một giáo sư trường Harvard dừng lại bên bàn chúng tôi để nói với cô, “Gret, cảm ơn cô đã giúp hai cậu đó. Trước khi lên phương Bắc, họ đã kể mọi chuyện với tôi.” Cô gật đầu, và trong một thời gian khá dài đó là điều cuối cùng tôi biết về cô hay những vấn đề của cô vì hôm sau tôi nhận được bức điện của Sir Charles Braham ở Vwarda nhờ tìm cho con gái ông một ngôi trường bên Anh. Tôi liền bay đi để thực hiện nhiệm vụ thú vị ấy.
—★—Tháng Ba, Gretchen cùng nhóm sinh viên lái xe sang miền Tây để giúp Thượng nghị sĩ McCarthy trong hội nghị tuyển lựa ứng cử viên tổng thống ở bang Wisconsin, và chính trong thời gian làm việc tại đại bản doanh Milwaukee, cô đã nghe thấy một phụ nữ lớn tuổi hơn nói với một nhóm tình nguyện viên, “Nếu Thượng nghị sĩ được chỉ định là ứng cử viên, ông ấy nên bổ nhiệm một người như Gretchen Cole lãnh đạo ủy ban toàn quốc Những người Cộng hòa trẻ ủng hộ McCarthy,” và một sinh viên trong nhóm đó nói lại, “Ủy ban là thế nào, cô ấy nên tham gia chính phủ mới đúng,” thế rồi người phụ nữ kia giải thích, “Bây giờ lãnh đạo ủy ban là cách để sau này tham gia chính phủ.”
Dù sao đi nữa, mọi người ở Wisconsin đều coi trọng cô, và vào buổi tối tổng thống Johnson tuyên bố rút lui khỏi cuộc chạy đua giành ghế tổng thống, đám thanh niên liền tổ chức ăn mừng vui vẻ, vì họ cảm nhận được một cách đúng đắn rằng cuối cùng họ đã tác động đến đời sống chính trị nước nhà. “Johnson biết ông ta đang làm gì,” đám thanh niên hăng hái phát biểu. “Chúng ta sẽ làm ông ta bẽ mặt trong hội nghị tuyển lựa ứng cử viên này... cả ở Oregon và California nữa.” Gần sáng, khi đám đông đã vãn, hai sinh viên trường Berkeley kéo Gretchen ra một chỗ và cảnh báo, “Thử thách thực sự là ở California. Bobby Kennedy sẽ muốn làm một cuộc phô trương thanh thế ra trò cho mà xem, khi bây giờ Gene đã buộc Johnson rút lui rồi. Nhà Kennedy sẽ rót tiền như rót nước vào bang chúng ta.”
“Các bạn có cho rằng Gene nhất định phải thắng ở California thì mới tiếp tục được không?” cô hỏi.
“Dứt khoát rồi. Tốt hơn hết bạn nên đưa cả nhóm đi... và nhanh chân lên. Bạn có gom được khoản tiền lớn nào không?”
“Không, nhưng tôi có thể tìm được người sẽ làm được việc này.”
“Nhớ có mặt ở đó nhé.”
Vậy là cuối tháng Tư, Gretchen cùng mười lăm cô gái từ các trường đại học uy tín ở miền Đông thu xếp được mấy chiếc xe và lái xuyên đất nước đến Sacramento, tại đó họ phối hợp với những người bạn California đang ủng hộ McCarthy, nhưng trong chiến dịch này họ phải đối phó với một yếu tố mới. Bobby Kennedy là một người đàn ông trẻ trung vô cùng quyến rũ, mang trong mình những tư tưởng mà họ có thể tán thành, và trong khi họ dễ dàng phản đối tổng thống Johnson khi coi ông ta là người McCarthy phải đánh bại thì họ lại không dứt khoát được như thế khi Kennedy là đối thủ. Trên thực tế, hai cô trong nhóm đã đột ngột chuyển sang trung thành với Kennedy khi được tiếp xúc với sức thu hút của ông.
Hậu quả là, nhiều bạn trẻ quanh Gretchen đã trải qua những cảm xúc mâu thuẫn khi Kennedy đánh bại McCarthy ở California. Họ bắt đầu ngờ rằng McCarthy có thể không đủ khả năng đi hết chặng đường, rằng rốt cuộc các lực lượng hùng mạnh sẽ hiệp lực để phản đối việc chỉ định ông ta, và họ đã chuẩn bị sẵn tư tưởng rồi sẽ có một chính trị gia tầm thường mờ nhạt nào đó phỗng tay trên. Vì thế họ thấy nhẹ cả người khi Kennedy lờ mờ xuất hiện như một khả năng chọn lựa khác. “Tôi có thể chấp nhận Kennedy được,” nhiều thanh niên tuyên bố, sớm tự an ủi mình về những gì báo trước sẽ là một thất bại hoàn toàn của McCarthy.
Nhưng Gretchen Cole thì không. Cô có lòng tận tụy chuyên tâm bẩm sinh mà người ta thường gặp ở New England, đặc biệt ở giới phụ nữ có học. Qua quá trình lao tâm khổ tứ, cô đã rút ra kết luận từ một năm trước, lúc những người khác chỉ mới nghe nói đến McCarthy, rằng ông là người điềm đạm có thể mang ổn định đến cho tình trạng hết sức rối loạn của thời đại này, và với sự chuyên tâm hiếm hoi, cô đã giữ vững quan điểm đó; khi McCarthy giành thắng lợi ở New Hampshire và Wisconsin, cô càng cảm thấy tin tưởng vào phán đoán trước đây của mình, và cô phấn khởi đến mức giờ đây có thể chấp nhận thất bại tạm thời ở California. Bobby Kennedy gây cho cô ấn tượng về một thượng nghị sĩ tài giỏi, nhưng cô chưa bao giờ coi ông là người ngang tầm với Eugene McCarthy về mặt đạo đức.
Sau thất bại, cô ở lại California làm việc với một vài nhóm ủng hộ McCarthy, chuẩn bị cho cuộc tấn công lớn tại hội nghị Chicago, và sáng sớm ngày thứ Tư, khi cô đang ở đại bản doanh Los Angeles yên tĩnh và gần như vắng tanh vắng ngắt thì một người Ả rập đầu óc không tỉnh táo nảy ra ý nghĩ rằng anh ta có thể giải quyết những vấn đề của vùng mình bằng cách bắn một trong những người được cho là có khả năng tháo gỡ chúng nhất. Gretchen đang ngồi lập danh sách bên bàn làm việc thì nam sinh viên trường Brigham Young lao vào phòng, kêu lên, “Chúng bắn Kennedy rồi!”
Những người khác từ ngoài phố ùa vào trụ sở, và cho đến quá nửa đêm cảnh tình vẫn vô cùng hỗn loạn khi hết tin đồn này đến tin đồn khác dồn dập truyền khắp phòng. Chiếc radio xách tay được đem ra và bắt đầu một đêm thức trắng. Một nhân vật biết rõ Kennedy và đồng thời cũng có mặt tại hiện trường vụ mưu sát xuất hiện trên truyền hình để trấn an mọi người: “Bobby Kennedy sẽ lại chơi được bóng bầu dục thôi,” và những người ủng hộ McCarthy reo hò ầm ĩ, nhưng trong bản tin thời sự tối thứ Tư, một chuyên gia não ở New York, người chẩn đoán ca này từ cách xa ba nghìn dặm, đã lên tiếng cảnh báo, “Với kiểu chấn thương não mà Los Angeles thông báo thì ông ấy sống sót cũng chỉ có thể thành người thực vật thôi,” và sự kinh hãi trước tình hình này càng trở nên sâu sắc.
Hai giờ sáng thứ Năm thì tin buồn đến: Thượng Nghị sĩ Kennedy đã từ trần.
Một cảm giác tuyệt vọng khủng khiếp bao trùm phe McCarthy, vì điều phi lý họ hằng nỗ lực chống lại đã lần nữa chiến thắng, mang theo điềm báo mơ hồ về sự suy sụp trên mọi mặt trận. Người thay thế xứng đáng, nếu McCarthy phải thất bại, đã bị loại trừ. Gretchen ngồi lại bên bàn, cúi đầu trên chồng thẻ địa chỉ, như thể một cái gì đó vô cùng cần thiết cho sự sống đã bị hút cạn khỏi người cô, cái gì đó liên quan tới chủ nghĩa lý tưởng và hy vọng về một thế giới lành mạnh hơn.
Cô ở lại California, theo dõi lễ cầu hồn tại nhà thờ St. Patrick ở New York được tường thuật trên truyền hình, và đêm đó các tình nguyện viên ủng hộ McCarthy tụ họp với một số sinh viên từng làm việc cho Kennedy. Họ đến một quán bia nằm tại ngoại vi Los Angeles, nơi họ sẽ không bị làm phiền, xem xét lại tình hình trong tâm trạng đau đớn trống trải. Cậu thanh niên trường Brigham Young nói với vẻ đoán trước được tình hình, “Tôi thấy dường như người của Kennedy sẽ không tập hợp lại sau McCarthy đâu, vì vậy tất cả sẽ tiêu tan hết,” nhưng một anh chàng khôn ngoan từ trường đại học Virginia tranh luận, “Việc chúng ta cần làm là ngay bây giờ tất cả mọi người phải ủng hộ Teddy Kennedy. Nghe tôi đi, có ông ấy, chúng ta có thể thúc đẩy việc bổ nhiệm ở Chicago. Và ông ấy có thể tiếp tục chiến thắng.”
“Tôi không muốn Teddy Kennedy,” Gretchen tuyên bố.
“Vì sao lại không?” Anh chàng Virginia hỏi.
“Vì tôi biết ông ấy, và vì ông ấy còn quá trẻ. Năm 1972 hoặc 1976 thì tôi sẽ ủng hộ ông ấy - 1968 thì không.”
Họ xem xét hết khả năng thất bại này đến khả năng thất bại khác, cảm nhận thường trực một nỗi u sầu càng lúc càng sâu, cuối cùng một người ủng hộ Kennedy nói, “Gretchen, bạn khóc kìa!” Cô cúi đầu xuống. Bị mọi người gạn hỏi mãi, cô khẽ nói, “Chúng ta đã mất một người ưu tú. Ông ấy không phải người tôi ủng hộ nhưng ông ấy là một niềm hy vọng. Và khi chuyện ấy xảy ra thì nước mắt cũng tự nhiên rơi.” Không ai lên tiếng vì cô đã nói lên cảm nghĩ của tất cả mọi người. Anh bạn Virginia hỉ mũi, rồi bật ngón tay vui vẻ hỏi, “Có người nói với tôi bạn là ca sĩ, phải không Gretchen?”
“Cô ấy tuyệt lắm,” một người trong nhóm McCarthy nói. “Chỉ hát ballad.”
“Thề có Chúa,” anh chàng Virginia reo lên, “đây đúng là đêm dành cho ballad. Những cánh đồng hoang bị ma ám và những đôi tình nhân trên lưng ngựa. Bắt đầu nào.”
Gretchen giải thích nếu không có guitar thì cô không thể hát được, vậy là mọi người đổ xô đi tìm một cây đàn nhưng không có. Cô mỉm cười, nhún vai nói, “Thế thì không được rồi,” nhưng một người trong nhóm McCarthy động viên, “Tôi thấy điều này rất quan trọng, Gretchen. Bạn không cần guitar đâu.”
Mọi người thu xếp chỗ biểu diễn, và cô nhìn vào từng khuôn mặt trong nhóm ủng hộ Kennedy không còn thủ lĩnh, từng khuôn mặt trong nhóm ủng hộ McCarthy đã cảm thấy thất bại, và cô nói, thật dịu dàng, “Child 181.”
“Thế thì còn gì bằng,” một cô gái ở Wisconsin nói.
Với giọng trong vắt và điềm tĩnh, Gretchen bắt đầu khúc bi ca dành cho bá tước Murray. Đó là một trong những ca khúc về cái chết có sức tác động mạnh mẽ, ngang tầm “Khúc bi ca của McCrimmon” hay phần nhạc chậm trong bản giao hưởng Eroica hoặc đám tang của chàng Siegfried rồng rắn xuyên qua khu rừng, chỉ khác ở chỗ nó dữ dội và chân thực đến nỗi dường như nói về một người có thật mà cái chết là không thể tránh khỏi, trong khi các khúc ca khác chỉ hát về cái chết trừu tượng.
“Mi Highlands, và mi Lawlands,
Ôi hai mi đang ở phương nào?
Chúng đã giết bá tước Murray,
Và đặt chàng trên thảm cỏ xanh.”
“Hào hoa phong nhã và kiêu hãnh,
Chàng phi tuấn mã giữa vòng đua;
Và bá tước Murray dũng mãnh,
Ôi chàng thật xứng ngôi vua!”
“Hào hoa phong nhã và kiêu hãnh,
Chàng chơi bóng đá lối Scotland;
Và bá tước Murray dũng mãnh
Tinh hoa rực rỡ giữa muôn người.”
“Ôi người yêu dấu sẽ đợi chờ,
Ngước lên lâu đài Down nàng ngóng,
Chàng bá tước Murray
Đang phóng ngựa xuyên qua thành phố!”
Khi giọng cô nhỏ dần chỉ còn tiếng thì thầm, đám thanh niên ngồi lặng đi; hơn bất kỳ điều gì xảy ra sau vụ ám sát, khúc bi ca vượt thời gian dành cho một con người ưu tú đáng lẽ có thể trở thành vua đã thâu tóm nỗi buồn của họ. Một điều tốt đẹp và có tác động mạnh mẽ nào đó đã bị tước đoạt khỏi cuộc sống người dân Mỹ, và sự mất mát đó để lại một khoảng trống đau lòng.
—★—Khi Gretchen trở về Boston, thái độ của cô còn trở nên nghiêm nghị hơn cả trước kia, và cha mẹ cô vô cùng lo lắng thấy cô tỏ ra chua xót đến thế trước vụ ám sát Kennedy em. Cô không muốn bàn luận chuyện đó với cha mẹ, nhưng một ngày, khi cả nhà đang ăn tối, cô nói, “Điều cấp bách bây giờ là chúng ta phải đề cử McCarthy ra tranh ghế tổng thống. Con sẽ đi Chicago, và chúng con sẽ cần toàn bộ số tiền xoay xở được.” Đoạn cô bình tĩnh nhìn cha cho đến khi ông phải lên tiếng, “Con có đề nghị gì?” Cô nói, “Sang năm, con tròn hai mươi mốt tuổi, con mới được nhận phần thừa kế của ông. Cha có thể...”
“Ứng trước cho con chứ gì? Không! Một trong những điều trái đạo đức nhất trên đời là ứng trước tiền thừa kế.” Ông ném khăn ăn xuống, một cử chỉ được giới chủ nhà băng Boston coi như dấu hiệu cho thấy một yêu cầu đặc biệt đã bị từ chối dứt khoát.
“Cha!” Cô cầu xin, nhưng ông đã nói tiếp, “Chỉ kẻ ngu ngốc và người vô trách nhiệm mới vay mượn dựa vào của thừa kế. Cha chắc là ở Boston có những tên vô lại sẽ sẵn sàng cho khách hàng tương lai vay tiền lãi suất hai mươi lăm phần trăm nhưng chúng ta không bảo trợ cho những kẻ đó. Không phải trong gia đình này.”
Cô hiểu rằng khả năng này không còn nữa. Vào sinh nhật thứ hai mươi mốt, cô sẽ có quyền kiểm soát khoản trợ cấp này; còn từ giờ đến lúc đó cô vẫn là vị thành niên, vẫn được đặt dưới sự giám sát của cha, và mọi người trong gia đình đều cho là cô sẽ chấp nhận việc này. “Thôi được,” cô nói, “cha sẽ cho con năm trăm đô la chứ?”
“Được,” ông Cole đáp. Bản thân ông ủng hộ Nixon và không ưa thượng nghị sĩ McCarthy cũng ngang với không thích thống đốc Rockefeller, nhưng như các bậc cha mẹ khác, ông cảm nhận được những ích lợi có thể đạt được từ sự tận tụy với lý tưởng của con gái, dù lúc này lý tưởng ấy có thể bị nhầm đường lạc lối. Ông đưa tiền cho con gái, và với số tiền này, Gretchen đi Chicago cùng nhóm bạn nhiệt tình.
Những gì cô trải qua ở Chicago cũng tương tự kinh nghiệm mà Dante[59] đã rút ra trong những năm cuối đời khi suy ngẫm về mấy chuyến du hành ngoài địa phận Florence. Cô dùng tiền riêng thuê mấy căn phòng tại khách sạn Hilton, ngay tầng trên đại bản doanh của McCarthy, dùng nơi này làm chỗ ngủ cho các sinh viên từng làm việc với cô ở New Hampshire, Wisconsin và California. Họ là những người hấp dẫn, hình thức đẹp và tận tuy. Với việc quả bóng Teddy Kennedy[60] phe Dân chủ bị xì hơi và Richard Nixon được chỉ định làm ứng cử viên của đảng Cộng hòa, đội ngũ ủng hộ McCarthy thấy dường như rất rõ rằng người của họ phải được chỉ định nhằm cung cấp cho cử tri một sự lựa chọn, rằng những thanh niên như Gretchen phải tin tưởng McCarthy có cơ hội rất lớn được chỉ định ra tranh cử, và sau đó giành chức tổng thống.
“Hãy nhìn thẳng vào vấn đề,” một sinh viên luật đại học Duke lập luận. Gretchen thích anh hơn người khác vì anh không những có đầu óc sắc sảo mà còn có một cây guitar vẫn thường dùng để chơi những bản phóng tác Kentuck