Chương 7 TORREMOLINOS
Ngày tháng ở Torremolinos rất tươi đẹp - nhưng đã bao giờ chúng không tươi đẹp?
Trụy lạc ư? Phải. Thoái hóa biến chất ư? Không. Tôi nghĩ anh không thể gọi một người đàn ông thích cả con trai lẫn con gái là thoái hóa biến chất được.
Sau cả một đời nay đây mai đó, ông đã đến sinh cơ lập nghiệp ở vùng Costa del Sol này và dạy chúng tôi năm quy tắc du lịch thành công. Không bao giờ dùng bữa ở bất cứ hiệu ăn nào có tên là Quán của Mẹ. Không bao giờ chơi bài poker với bất cứ ai có tên là Đốc tờ. Mang quần áo đi giặt bất cứ lúc nào có dịp. Không bao giờ từ chối tình dục. Và hãy gọi bất cứ món gì nấu với gạo dại.
Chúa rất vĩ đại nhưng cần sa thì dễ chơi hơn nhiều.
Hắn mở quán bar tuyệt vời này ngay gần bãi biển, nhưng hắn đã phạm một sai lầm đáng tiếc. Hắn đã bán sáu mươi phần trăm cổ phần của quán lần lượt cho bảy người khác nhau rồi ôm bọc tiền chuồn ngay đi Tangier. Sai lầm của hắn là đã quay về.
Anh ấy sống năm năm ở Torremolinos, vừa quản lý một quán bar vừa viết cuốn tiểu thuyết đặc sắc về Tây Ban Nha. Anh ấy đưa cho tôi đọc thử hai chương, và tôi nhận thấy đầu óc anh ấy hơi lộn xộn khi phát hiện ra anh ấy gọi nhân vật đấu bò tót người Andalusia là Leopold Kuferberg.
“Anh đến thăm mười sáu nước trong mười bảy ngày nhưng anh bay thật thấp trên tám nước khác.”
Margaret giám sát Justin thật nghiêm ngặt, làm đủ mọi cách để giữ anh tránh xa chai rượu đến nỗi thời gian duy nhất anh có cơ hội thực sự được uống căng bụng là những đêm chị để cho anh ra khỏi nhà đi dự Hội Người nghiện rượu Ẩn danh ở Torremolinos.
Nếu trong tâm hồn người già không có một người trẻ thì đó chỉ là một trong những thiên thần của quỷ.
• Thoreau
Lang thang khắp Torremolinos về đêm giống như đi dạo chơi ống cống trong một con tàu có đáy bằng thủy tinh.
Chính tai tôi nghe thấy. Bà ta bảo đám người Thụy Điển, “Tôi cóc cần biết các anh làm gì miễn là các anh không làm cho đàn ngựa sợ hãi.”
Bảy mươi tuổi trẻ đôi khi còn vui hơn và đầy hứa hẹn hơn bốn mươi tuổi già.
• Oliver Wendell Holmes
Người có một cô vợ đẹp hay một tòa lâu đài ở biên giới thì phải chuẩn bị cho chiến tranh.
Người hướng dẫn thông báo với mẹ tôi rằng thăm viện bảo tàng Prado phải mất ít nhất một giờ, nhưng bà nói mọi người còn phải đến Escorial và bà sẽ cho anh ta thêm hai đô la nữa nếu anh ta gói gọn thời gian thăm Prado trong nửa giờ.
Torremolinos... nơi mà chỉ những người không đi du ngoạn mới là khách du lịch.
Hàng năm, ngay trước lễ Phục sinh, cảnh sát Tây Ban Nha lại làm một đợt càn quét tất cả các quán bar, các ổ ăn chơi và tống khứ tất cả những kẻ lang bạt trông giống Đức Chúa Jesus. Ông sẽ kinh ngạc khi biết họ tìm ra bao nhiêu người trông giống Chúa.
Thụy Sĩ rất nên thơ, nhưng tôi vẫn buồn nhớ quê hương California. Tôi muốn được nhìn thấy bầu không khí mà tôi hít thở.
—★—Ngay các ông trùm tư bản hàng hải Hy Lạp cũng có lúc cạn tiền.
Một vài lần tôi đã nhắc đến cụm nhà chọc trời mọc san sát tại khu vực phía Đông cuối thành phố Torremolinos như một ngôi làng da đỏ khổng lồ nào đó đã được dời sang Địa Trung Hải. Tổ hợp kiến trúc được một côngxoocxiom các chủ tàu Hy Lạp thai nghén và khởi công xây dựng theo đúng phong cách rầm rộ khoa trương của họ. Nếu hoàn tất, tổ hợp này sẽ gồm ba mươi mốt tòa nhà độc lập, mỗi tòa mười bảy tầng, tổng cộng lên tới 527 tầng hay 3.162 căn hộ. Và vì mỗi căn hộ sẽ có bốn giường cá nhân cho nên người Hy Lạp đang từ con số không mà xây dựng nên một thành phố với dân số 12.648 người.
Không may là mùa hè năm 1968, sau khi đã hoàn thành mười tám tòa nhà và mười ba tòa đang ở các giai đoạn xây dựng khác nhau, từ những tòa nhà mới chỉ đào xong móng đến những tòa chỉ còn thiếu mái, họ lại cạn tiền và chỉ còn cách hoặc bỏ cả dự án hoặc tìm kiếm đó đây quanh châu Âu để gọi thêm vốn. Cuộc tìm kiếm đã ném họ vào quỹ đạo của World Mutual, vì vậy tôi phải ở Torremolinos suốt tháng Năm, Sáu, Bảy năm 1968 để xem xét khả năng cứu họ thoát khỏi khó khăn tài chính, nhưng làm ăn với họ rất khó, và cho dù tôi xem xét cẩn thận đến mức nào về tình thế hiểm nghèo của họ và giải thích rõ ràng đến đâu về mức độ kiểm soát mà World Mutual sẽ kiên quyết yêu cầu nếu chúng tôi cung cấp số tiền còn thiếu - tôi tính toán vào khoảng hai mươi sáu triệu đô la, nếu gộp cả trang bị đồ đạc và làm đẹp phong cảnh - họ vẫn chấm dứt thảo luận khi nhìn thấy khả năng phải từ bỏ dù chỉ một chút quyền hành, tất cả những gì họ muốn là tiền với lãi suất thấp, và do khó khăn đó mà cuộc thương lượng của chúng tôi không đi đến kết quả.
Họ vật lộn suốt những tháng cuối năm 1968, lúc nào cũng trong tình trạng thiếu vốn và bất lực, nhưng đến đầu năm 1969, họ đã thấy rõ là hoặc phải xoay được tiền ngay hoặc mất cả dự án. Lần này họ đến Geneva xin chúng tôi cứu giúp với bất kỳ điều kiện nào chúng tôi đưa ra được. Thật không may, họ đến đúng thời điểm chúng tôi dấn quá sâu vào Úc, Philadelphia, Vwarda và đang phải đương đầu với nhiều nhu cầu đột xuất cho các dự án dài hạn ở Bồ Đào Nha đến nỗi chưa thể trả lời họ ngay được. Tất nhiên, việc chậm trễ này có lợi cho chúng tôi vì tình hình Torremolinos xấu đi rất nhanh và người Hy Lạp đã nghi ngờ chúng tôi trì hoãn chỉ nhằm làm khó dễ họ.
Dù thế nào đi nữa, năm 1968 chúng tôi đã cung cấp cho họ tiền mặt với những điều kiện rất thuận lợi; bây giờ chúng tôi phải trì hoãn, nhưng đến giữa tháng Tư, khi vị trí của công ty đã được củng cố, ban giám đốc bảo tôi, “Hãy xuống Torremolinos mua hết cổ phần của người Hy Lạp đi. Tống khứ họ đi. Hãy đưa ra điều kiện của chính ông.”
Vậy là ngày mồng năm tháng Năm, tôi bay tới Málaga rồi nhảy lên một chiếc Rolls-Royce nơi những người Hy Lạp không gợn chút nghi ngờ đã chờ sẵn, và khi đến gần Torremolinos, chúng tôi có thể nhìn thấy mười tám tòa tháp đã hoàn thành cùng những công trình giai đoạn đầu lởm chởm đất đá đã dừng thi công gần hai năm nay.
“Một dự án vĩ đại,” một người Hy Lạp nói với tôi, giọng say sưa hơi căng thẳng. Tôi không nói gì, họ đưa tôi tới dãy phòng sang trọng trên cảng chót của một trong những tòa nhà mười bảy tầng đó, và khi chiêm ngưỡng bức tranh toàn cảnh lộng lẫy này, phía Đông vươn xa quá thành phố Málaga còn phía Tây thì trải rộng gần đến Gibraltar, với những bãi biển đẹp lung linh trong nắng, tôi không thể ngăn mình há hốc miệng choáng váng, vì đây chắc chắn là một trong những cảnh tượng hấp dẫn nhất châu Âu, một giấc mộng về ngành du lịch mới khi những thành phố hơn mười hai nghìn dân được xây lên từ con số không để chiều lòng du khách từ Nam Mỹ, châu Phi, Úc và New Zealand.
Bảy người Hy Lạp căng thẳng chờ tôi lên tiếng, vì vậy tôi mỉm cười thầm điểm lại bản nghiên cứu mang theo trong cặp; bản này do các chuyên viên ở Geneva lập ra để hướng dẫn tôi:
Chúng tôi do đó đi đến kết luận là côngxoocxiom Hy Lạp đã tự sa lầy trong một khu liên hợp gồm 31 tòa nhà với tổng kinh phí phải vào khoảng $57.000.000, hoặc khoảng $18.000 một căn hộ. Họ đã chi hết khoảng $30.000.000, tức là còn cần thêm $27.000.000 nữa để hoàn thành dự án. Mối quan tâm duy nhất của chúng ta là mua hết cổ phần của họ. Chúng ta nên đưa ra giá khởi đầu là khoảng $17.000.000 để mua đứt toàn bộ quyền lợi của họ, nhưng cũng nên chuẩn bị tư tưởng nâng con số lên $25.000.000. Từ những mẫu hiện thời của chúng ta ở Congo và Rhodesia, chúng tôi tính toán ta có thể bán hạ giá 3.162 căn hộ với giá khoảng $30.000 một căn, tổng số tiền thu về khoảng $90.000.000. Nếu chúng ta có thể mua toàn bộ cổ phần của người Hy Lạp với giá khoảng $20.000.000 và đầu tư thêm không quá $26.000.000, vụ này sẽ mang lại lợi nhuận lớn.
“Các ông đã dựng nên một kiệt tác,” tôi thừa nhận, rồi nói tiếp luôn. “Và World Mutual đề nghị mua lại toàn bộ dự án - đất đai, nhà cửa, trang thiết bị - với giá mười bảy triệu đô la.” Có tiếng thở hổn hển, rồi một người hắng giọng, nhưng tôi nói tiếp luôn, “Còn về việc vay tiền, không có khả năng ấy đâu... hoàn toàn không.”
“Thế thì chúng tôi sẽ đến chỗ Gianni Agnelli,” một người hùng hổ.
“Phía Ý cũng không có khả năng đâu.”
Chúng tôi tranh luận khá gay gắt mà rốt cuộc người Hy Lạp phải chấp nhận thực tế là giờ không còn khả năng vay tiền nữa. Nếu không bán cho chúng tôi thì họ chỉ có thể đẩy dự án đến chỗ phá sản và thu hồi được một phần nhỏ của số tiền chúng tôi đề nghị. Đành từ bỏ hy vọng vay tiền, họ thì thầm bàn bạc rồi một người đại diện ngập ngừng hỏi, “Đề nghị mười bảy triệu đô la của ông...”
“Có thể thương lượng,” tôi nói rất thẳng thắn.
Họ đồng loạt thở dài. Qua bản nghiên cứu, tôi biết là với giá mười bảy triệu đô la họ sẽ lỗ đáng kể; bên chúng tôi không hề muốn dồn ép họ và đã sẵn sàng nâng lên đến con số nào đó thể hiện một sự công bằng hợp lý. Nhưng con số nào? Quyết định này đòi hỏi phải có thời gian và bước đi khôn khéo.
Thế là đám người của tập đoàn hàng hải để tôi lại một mình trong căn hộ sang trọng trên tầng chót, và trong lúc họ lui ra thang máy, tôi nhận ra cuộc điều đình sẽ kéo dài. Tôi đoán mình sẽ phải ở lại Tây Ban Nha ít nhất một tháng, và viễn cảnh này không làm tôi buồn phiền vì sau nhịp độ khẩn trương suốt một thời gian dài - Philadelphia, Vwarda và Afghanistan - có thể sẽ có ích cho tôi nếu được tắm nắng lâu lâu một chút.
Khi soạn đồ từ trong mấy cái túi du lịch ra, tôi thấy bốn hộp muesli Bircher khá lớn mà tôi đã mang theo. Chúng sẽ đủ dùng trong bốn tuần nếu tôi tự hạn định khẩu phần cẩn thận, và khi chế độ dinh dưỡng này kết thúc, tôi sẽ lấy lại sức vì trên thế giới không có đồ ăn sáng nào tốt hơn muesli. Dùng một đĩa muesli với sữa lạnh và vài lát cam Valencia mọng nước là cách khả dĩ nhất để bắt đầu một ngày; sau một đợt dài phải ăn những món Afghanistan béo ngậy hay món Mỹ lâu tiêu, tôi dùng muesli không những trong bữa sáng mà còn cả bữa trưa nữa. Còn bữa tối, tôi ăn khá ít, và không lâu sau tôi đã lấy lại được vóc dáng. Từ khi tôi chuyển đến Thụy Sĩ, trọng lượng tôi lúc nào cũng khoảng 170 pao, và phần lớn là nhờ có muesli.
Vậy nó là gì? Một thức ăn hỗn hợp gồm lúa mì nướng nguyên hạt và kê trộn với táo, mơ, nho, quả phỉ và hạnh nhân khô cắt nhỏ, thành phần chủ yếu là cốm yến mạch không xay. Cứ nhớ đến món này là tôi lại thấy đói và cảm ơn ông bác sĩ người Thụy Sĩ đã nghĩ ra nó. Trong căn hộ trên tầng chót ở Tây Ban Nha, tôi đổ một đĩa để ăn trưa rồi nằm xuống chợp mắt một lát.
Đúng như tôi dự đoán, cuộc thương lượng với người Hy Lạp cứ kéo dài mãi. Họ hiểu họ đang lâm vào tình thế không lối thoát nhưng vẫn không chịu nhượng bộ. Theo một cách hiểu nào đó thì đối với họ việc thu gom hai mươi bảy triệu còn thiếu không phải là khó; họ chỉ việc bán đi vài ba con tàu đã giúp họ khởi nghiệp, nhưng làm như vậy thì thật điên rồ. Mất tàu tức là mất đi sức sống, mà họ thì không phải lũ ngu dốt.
Nhưng điều mà họ vẫn không thể buộc mình đối mặt chính là sự sụp đổ của cái thành phố trong mơ bên bờ Địa Trung Hải đó, vì vậy, biết chắc là khi đọc bản báo cáo thiệt hại hàng tuần, họ sẽ phải chuẩn bị tâm lý để chấp nhận điều kiện của World Mutual, tôi cứ ung dung dạo chơi quanh thành phố và để họ có thời gian cân nhắc. Họ cần tiền để duy trì hoạt động của các công ty hàng hải, và cách kiếm tiền duy nhất là sang nhượng khu nhà cho World Mutual. Chúng tôi có thể chờ; còn họ thì không.
Với chế độ ăn kiêng muesli Bircher tự mình đề ra, tôi đã giảm cân, lấy lại sức, và cứ đến bốn giờ chiều là đã thấy đói cồn cào. Trong khi người Hy Lạp khổ sở tính toán xem nên chấp nhận con số nào cho các tòa nhà chọc trời thì tôi lại khổ sở không biết tối đó nên đến làm khách tại hiệu ăn nào ở Torremolinos. Do khách hàng thuộc đủ mọi nước trên thế giới nên thành phố có vô vàn quán ăn ngon: một quầy tự phục vụ khá phong phú, một nhà hàng Đức sang trọng trong khách sạn Brandenburger, một địa điểm có món ca ri Ấn Độ ngon hơn bất kỳ nơi nào ở New York, sáu bảy nhà hàng Trung Quốc hạng nhất, một hiệu ăn Pháp khá ngon đủ để ít nhất cũng phải được xếp hạng một sao trong quyển hướng dẫn Michelin, và một quán rượu Tây Ban Nha lâu đời cực kỳ hấp dẫn dĩ nhiên tên là El Caballo Blanco. Thật thú vị khi được ngắm các quán ăn này trong lúc đói bụng, và ở Torremolinos tôi được ăn ngon hơn bất kỳ nơi nào khác tôi từng đến công tác. Nhiều hôm, khi rời căn hộ trên tầng chót để đi ăn tối, tôi lại lẩm bẩm cầu nguyện: “Tạ ơn Chúa, con không phải ở Afghanistan hay Marrakech.”
Tuy nhiên, cảnh rỗi rãi bắt buộc đã bắt đầu khiến tôi phát chán, vì cuộc đàm phán với người Hy Lạp chỉ chiếm của tôi vài phút mỗi ngày: “Vâng, chúng tôi sẽ xem xét việc tăng lên thêm ba triệu nữa... thậm chí bốn triệu cũng có thể cân nhắc... sáu thì dứt khoát không.” Khi thời gian lưu lại dự kiến sẽ kéo dài hơn, tôi bắt đầu tìm quanh xem có thú vui gì không; một người chỉ có thể đọc truyện của Simenon nhiều lắm vài giờ mỗi ngày và cả trăm hộp đêm quán bar có lẻ thì cũng dần trở nên mệt mỏi khi đã ngoại sáu mươi. Trong tâm trạng như vậy, một đêm, khoảng mười giờ, tôi vô tình rẽ vào một con hẻm và nhìn thấy một tấm biển hiệu ngớ ngẩn treo cao quá đầu tôi: một khẩu súng lục khổng lồ bằng gỗ, chạm thô kệch, dọc theo nòng là dòng chữ THE ALAMO. Tiếng ồn từ trong quán vọng ra, thỉnh thoảng lại được nhấn mạnh bởi vài câu tục tĩu khàn khàn giọng Brooklyn, tôi nghĩ vào đó xem người Mỹ đang làm gì chắc sẽ rất vui. Cánh cửa đã mở sẵn, tôi bước vào một căn phòng rất nhỏ có ba chiếc bàn và một cái ghế sofa tồi tàn kê sát một bên. Tường quán trang trí những bức tranh thế kỷ mười chín với cảnh miền Tây cũ, nay đã lốm đốm vết cứt ruồi và góc rách tả tơi. Quầy phục vụ đã ngắn, đầu bên tay trái lại có một cái máy quay đĩa cùng chồng đĩa hát cao ngất; còn đâu bên phải là những thùng nước cam sánh vàng.
Và còn gì đây nữa! Một thiếu nữ Scandinavia độ mười bảy mười tám đứng sau quầy, nét mặt xinh đẹp và ngay thẳng đến nỗi tôi phải ngừng quan sát xung quanh để mà ngẩn ngơ ngắm mái tóc vàng óng và nước da mịn màng tuyệt mỹ của cô. Cô bắt gặp ánh mắt tôi bèn mỉm cười, duyên dáng nghiêng đầu để lộ hàm răng trắng đều đặn. Cô ra hiệu hỏi tôi có uống bia không, thấy tôi gật đầu, cô bèn rót một cốc rồi rời quầy mang đến cho tôi. Lúc đó, tôi mới có cơ hội thấy được chiếc váy ngắn cùng đôi chân thon dài cân đối, tôi bất giác lên tiếng hỏi, “Thụy Điển?”
“Na Uy,” cô đáp một cách giản dị, và vì một lý do mà tôi không thể tự lý giải được gì ngoài việc cô là người có vẻ quyến rũ lồ lộ đến thế, tôi dẫn ra đoạn trích từ một khúc ballad cổ nổi tiếng thường được hát trong quán rượu:
“Mười nghìn chàng Thụy Điển
Chạy trốn qua rừng sâu
Một cô nàng Na Uy quyết chí đuổi theo sau.”
“Suỵtttttt!” cô kêu lên, đặt một ngón tay lên môi ra vẻ khiếp sợ. “Cứ thế thì làm gì mà chẳng xảy ra đánh lộn. Ông học được bài đó ở đâu?
“‘Cuộc vây hãm Copenhagen.’ Ai mà chẳng biết:
“Chúng ta thèm thuốc hít
Mà đâu đủ say tít
Trong cuộc vây hãm Copenhagen.”
“Ông mà đọc câu này cho một người Thụy Điển yêu nước nghe thì anh ta sẽ nện cho ông một trận đấy,” cô đùa.
“Tôi có đọc cho người Thụy Điển nghe đâu.”
Cô ngồi xuống nói chuyện với tôi vài phút rồi dợm đứng lên định quay về quầy rượu, nhưng lại đổi ý ngồi nán thêm chút nữa khi một thanh niên Mỹ cao lớn râu rậm đến làm thay. Chúng tôi nói đủ chuyện trên đời vì cô quả là một thiếu nữ hứng thú tìm hiểu thế giới bậc nhất. Đặc biệt cô hỏi tôi đã đến thăm Ceylon chưa. Tôi nói chưa, và cô liền ngân nga một khúc nhạc mà tôi thuộc từ thời thơ ấu. Trong lúc cô đệm nhạc, tôi hát phần lời tiếng Anh:
“Ta lắng nghe như trong mơ
Bồng bềnh giữa muôn vàn hoa lá
Giọng hát nàng dịu dàng êm ái
Như tiếng hót ríu rít chim muông.”
“Ông cũng biết bài này!” cô vui sướng kêu lên. “Cháu cuộc là hồi còn nhỏ, thể nào ông cũng có một đĩa hát của Caruso...” Cô đột ngột ngừng lời, chăm chú quan sát tôi rồi nói, “Ông rất giống cha cháu. Khổ thân ông. Cháu thấy thương ông quá.” Cô nắm lấy bàn tay phải tôi nâng lên môi hôn rồi chạy biến, nhưng tôi còn kịp thấy cô như sắp bật khóc.
Khuya hôm đó, cô quay lại và chúng tôi bắt đầu cuộc nói chuyện đầu tiên trong số những cuộc chuyện trò tìm hiểu giữa hai bên. Ngày hôm ấy, và ngay cả bây giờ mỗi khi nhớ đến cô, tôi luôn có ấn tượng sâu sắc cô là một trong những người giàu sức sống nhất mà tôi từng gặp. Dường như tất cả các giác quan của cô đều hoạt động quá thời gian, dồn vào não cô những thông tin thu thập được để cô cân nhắc, đánh giá và xếp lại. Khi đánh giá về bản thân, cô rất khắt khe: “Ông Fairbanks, nếu cháu có một bộ óc hàng đầu, ông có nghĩ cháu sẽ bỏ học ở tuổi mười bảy không? Đáng lẽ cháu phải học tiếp để trở thành bác sĩ... hoặc...” cô ngập ngừng cố tìm từ chính xác rồi kết thúc câu với một ý tưởng mà tôi không ngờ nhất, “hoặc một triết gia.”
“Cô có thể quay về,” tôi nói. “Ở tuổi mười tám việc học hành của cô chỉ mới bắt đầu thôi.”
“Vâng, nhưng cái cháu còn thiếu là trí tưởng tượng hạng nhất. Cháu không có sự độc đáo... Cháu không phải nghệ sĩ.”
“Tại sao cô không thể chỉ là một người có học?”
“Cháu cũng muốn đóng góp... một việc gì đó có tính xây dựng.”
Lẽ ra không nên nói câu này nhưng tôi đã hỏi, “Cô định đóng góp tại một quán bar ở Torremolinos?”
Cô không nao núng. “Cháu cũng giống như tất cả những người đứng đắn ở đây thôi. Cháu đang thực sự cố gắng tìm được bản thân.”
“Và cho đến nay thì sao?”
“Cháu hài lòng vì đã rút ra được một kết luận. Cháu không muốn sống thiếu ánh mặt trời. Cháu làm việc ở đây cho đến bốn giờ sáng... hết đêm này sang đêm khác. Khách hàng không làm phiền cháu. Mấy anh lính Mỹ thích nắm chân nắm tay cháu nhưng không sao, công việc là phải thế. Nhưng đến trưa hôm sau, khi mặt trời lên cao, cháu lại được ra bãi biển. Một giờ tắm nắng, thế là cháu đã được tân trang. Cháu đã hiểu ra điều này.”
“Và sau đó thì sao?”
“Cháu sẽ giữ nhan sắc cho đến ba mươi tuổi.”
“Sau ba mươi nhiều chứ,” tôi quả quyết.
“Ông chưa biết cháu đâu,” cô nói chữa. “Trời ơi, cháu háu ăn lắm. Vì vậy nếu cháu giữ được sắc đẹp và tuổi trẻ đến ba mươi tuổi... ôi, như thế có nghĩa là cháu có những mười hai năm tươi đẹp để tìm kiếm. Tức là một trăm bốn mươi tư tháng. Cháu không phải kẻ ngốc. Trong một trăm bốn mươi tư tháng, cháu sẽ tìm thấy một cái gì đó.” Cô ngừng lời, quay ra đáp lại vài câu bông đùa của tốp lính, rồi nói tiếp, “Nhưng trong những năm tháng sắp tới, không điều gì cháu tìm ra lại lớn lao hơn điều cháu đã khám phá được. Tức là cháu phải sống dưới ánh mặt trời. Nếu người ta cử một phái đoàn từ Oslo đến bảo cháu, ‘Cô Britta Bjørndahl, cô được bầu làm thủ tướng Na Uy,’ cháu sẽ nói với họ, ‘Hãy chuyển thủ đô tới Málaga rồi tôi sẽ nhận lời.’ Vì họ sẽ không bao giờ làm điều đó cho nên cháu từ bỏ hy vọng làm thủ tướng rồi.”
“Thế còn hôn nhân?”
“Một câu hỏi ngắn gọn rõ ràng,” cô suy nghĩ một lúc rồi nói, “Cháu thích đàn ông. Cháu không như mấy cô gái cứ không có đàn ông bên cạnh là khổ sở. Nhưng cháu thích họ. Tuy nhiên, nếu không có duyên phận tìm được... cháu vẫn có thể sống không có đàn ông... tức là không có xét trên cơ sở lâu dài ấy.”
“Cô đã tìm được ai ở đây chưa?”
Cô hất mái đầu vàng óng về phía anh thanh niên cao lớn đứng phía sau quầy rượu. Cử chỉ của cô không có vẻ đánh giá thấp, nhưng mặt khác cũng không biểu lộ niềm say mê. Tôi đã hỏi cô có người đàn ông nào của riêng mình không, và thực ra mà nói cô đã trả lời, “Ồ, có thể nói là có. Anh ấy kia.”
Chính trong hoàn cảnh đó mà lần đầu tiên tôi chủ tâm quan sát người đàn ông trông quầy rượu. Anh có dáng người cao, thon chắc và tư thế đàng hoàng. Anh để kiểu tóc mà thế hệ trẻ hơn gọi là “phảng phất Chúa Jesus” hay “kiểu Kahlil Gibran” - tức là tóc dài gần đến vai và bộ râu lõa xõa che kín khuôn mặt. Anh mặc quần Levis xanh lơ bạc màu bó khít và đi giày ống Texas. Nói chung, anh là một nhân vật đáng nể, nói năng cư xử nhã nhặn, và anh điều hành một quán rượu làm ăn khấm khá. Britta nói với tôi anh là một người Mỹ trốn quân dịch, cũng như rất nhiều người khác mà tôi sẽ gặp ở Torremolinos.
Bằng trực giác, tôi thấy mến anh thanh niên trông quầy rượu, và đang định phát biểu nhận xét của mình thì Britta đột ngột nói tiếp, “Xin ông tha thứ cho tính đa cảm của cháu khi ông hát bài ấy. Ông nghĩ gì về Les Pêcheurs deperlesh[63]... như là một vở opera?”
“Tôi chỉ xem vở này có một lần. Nó cũng đại khái như Lakmé và Norma... Một nữ tư tế thổ dân vướng vào lưới tình, trong Lakmé là với một người châu Âu, trong Norma là với một người La Mã còn trong Pêcheurs thì đại loại là với một người da đỏ nào đó. Tất nhiên, có một đại tư tế hát giọng nam trầm và cuối cùng thì cô gái chết. Không hay mà cũng chẳng dở hơn các vở khác.”
“Cháu định hỏi về phần nhạc.”
“À... đó lại là vấn đề khác. Chắc chắn là Pêcheurs kém nhất trong ba vở đó. Nhưng cô phải nhớ là Bizet sáng tác vở đó khi mới hai mươi tư tuổi. Đó là một vở opera thú vị, trẻ trung, và ở tuổi cô thì chắc phải thích vở này.”
“Nhưng cháu đâu có thích,” cô nói. “Cháu thấy chán lắm. Cháu chỉ muốn biết ông nghĩ thế nào thôi.”
“Nhưng cô lại hát,” tôi nói, và thế là cô kể với tôi về những tháng năm lạnh giá mà cha cô đã phí hoài để mơ mộng về Ceylon và nỗi ám ảnh của ông đã ảnh hưởng đến cô như thế nào. “Cháu cũng thực sự muốn thấy nơi ấy,” cô nói. “Nếu có một anh chàng nào đó - và anh ta cũng chẳng cần phải trẻ lắm - nếu anh ta bước vào quán này nói là sắp đi Ceylon, cháu sẽ theo ngay ngày mai, không cần hỏi han gì cả.”
“Cô đã thực sự thoát ly rồi phải không?”
“Cháu sẽ không bao giờ quay về Na Uy nữa. Cháu đã để dành được mười bảy đô la, đó là tất cả tài sản của cháu trên thế giới này. Nhưng cháu sẽ đi Ceylon mà không cần đắn đo suy nghĩ... miễn là ở đó có nắng.” Chính qua những cuộc trao đổi như vậy, trong lúc ngồi nhâm nhi bia ở quán Alamo, tôi đã dần hiểu về thế hệ phụ nữ trẻ mới đang trôi dạt khắp châu Âu mà những đại diện hấp dẫn nhất lại tập trung cả ở Torremolinos. Họ thông minh; họ xinh đẹp; họ kiên quyết không bị cuốn trở lại nếp sống quen thuộc; và họ là thách thức đối với tất cả những ai gặp gỡ họ trên đường đời. Vì họ là một lực lượng mới trong lịch sử và một kinh nghiệm mới đối với tôi cho nên tôi thường suy nghĩ xem nên tả họ như thế nào thì chính xác nhất; không cách minh họa nào có thể hiệu quả hơn một mẫu rao vặt được ghim trên tấm bảng thông báo trong quán Alamo, và trong hàng trăm địa điểm khác khắp Torremolinos:
Con gái Thụy Điển mười chín tuổi muốn thăm miền Nam Ý. Lái xe được. Sẽ chia đều mọi chi phí. Đi theo nhóm hoặc đi riêng. Chi tiết xin hỏi anh trông quầy rượu.
Con gái Anh mười bảy tuổi, lái xe giỏi, nhất thiết phải đi Amsterdam. Có mười một đô la. Sẽ chấp nhận bất cứ đề nghị nào.
Con gái California mười tám tuổi có xe Peugeot mới. Đi Vienna. Sẽ nhận bạn đồng hành biết lái xe và trả phần chi phí cá nhân. Liên lạc qua anh trông quầy rượu.
Tôi chọn ba tờ rao vặt trên vì tôi đã tình cờ gặp từng cô được nhắc đến ở trên, và bất kỳ một thanh niên tỉnh táo nào cũng sẽ chu du lên tận cung trăng với bất kỳ cô nào trong số đó. Tình hình ở Torremolinos thú vị như vậy đấy.
—★—Trong những ngày đầu đó, khi Britta Bjørndahl kể cho tôi nghe về Tromsø, tất nhiên tôi vẫn chưa có cơ hội nói chuyện với Joe; tôi chỉ nhìn thấy anh sau quầy rượu, và tôi cũng không biết là bốn bạn trẻ khác mà trước kia tôi có quen cũng đang có mặt trong thành phố. Tôi cứ tưởng Gretchen Cole đang du lịch đâu đó tại miền Nam nước Pháp còn Cato Jackson vẫn đang lẩn trốn ở Newark hoặc Detroit. Tôi cũng không ngờ Yigal Zmora đã bỏ trường đại học của cha anh ở Haifa và đến thăm ông bà nội quốc tịch Anh ở Canterbury. Còn về Monica Braham, tin cuối cùng tôi được nghe là cô đã rời khỏi Vwarda trong buồng lái một chiếc máy bay hãng Lufthansa. Cô có thể ở bất cứ đâu; Buenos Aires hoặc Hồng Kông cũng có thể là khả năng hợp lý.
Trong hai lần đầu đến quán Alamo, tôi chưa tình cờ gặp bất cứ ai trong bốn người đó. Sau này tôi mới biết Cato, Monica và Yigal đã mượn xe lên núi để tham quan ba thành phố lịch sử Ronda, Antequera và Granada. Còn Gretchen thì tất nhiên vẫn ru rú một mình trong chiếc pop-top.
Nhưng lần thứ ba đến quán, tôi được gặp Joe. Thực ra là tôi đưa Britta và Joe đến một quán ăn Tàu và chúng tôi đã chuyện trò trong hai giờ liền. Lúc đầu tôi rất khó chịu về kiểu tóc của anh và việc anh tự nhận là kẻ trốn quân dịch; tôi từng phục vụ trong hải quân hồi Chiến tranh Thế giới II và chưa bao giờ giao lưu với một kẻ trốn lính, vì vậy tôi cảm thấy ngồi cùng một người như vậy không được thoải mái lắm.
“Không thể so sánh hai trường hợp được,” Joe nói khi tôi nêu vấn đề. “Cuộc chiến của ông... ông có một kẻ thù rõ ràng... ai cũng nhận ra được...”
Tôi ngạc nhiên thấy anh nói năng lưu loát và kiệm lời đến thế, và đêm càng về khuya, tôi càng chú ý nghe anh đưa ra hết lý lẽ sắc bén này đến lý lẽ sắc bén khác. “Cậu đã thành kẻ nổi loạn như thế nào?” cuối cùng tôi hỏi anh.
Anh đưa mấy ngón tay thon dài lên đánh rối bộ râu và đáp, “Chuyện này đâu có biến tôi thành kẻ nổi loạn. Việc tôi không thể thỏa hiệp với một chế độ quân dịch lố lăng không làm cho tôi thành nhà cách mạng. Điều tôi mong muốn nhất là... quay về trường... có được tấm bằng trong tay.”
“Để làm gì?”
Câu hỏi khiến anh bối rối. Anh nhay nhay môi dưới một lúc, rồi ngồi thẳng lên và từ tốn nói, “Tôi không biết. Tôi thực sự không biết.”
“Điều gì đang giày vò cậu vậy?”
“À, khi ông chưa làm được gì - thậm chí kiếm tấm bằng đại học cũng không - mà cứ bô bô các ý tưởng lớn lao về những gì mình định thực hiện thì có tự phụ lắm không?’
“Nhưng cậu đã có sẵn ý tưởng... trong đầu rồi chứ?”
“Tôi có rồi.”
“Như thế nào?”
Anh nhận thấy tôi đang mè nheo bắt anh phải phát biểu những điều chưa suy nghĩ chín chắn, nhưng anh không bực vì cũng nhận thấy tôi vui lòng nói chuyện về những vấn đề quan trọng, vì vậy anh ngước mắt lên trần nói, “Đêm ngày mồng bốn tháng Giêng có một trận bão tuyết dữ dội ở Wyoming. Tôi bị mắc bão giữa đường.” Anh ngừng lời, nhìn tôi hỏi, “Ông đã bao giờ gặp bão tuyết chưa?”
“Ở Wyoming thì chưa.”
“Tôi đứng giữa đường... tất cả xe cộ đều bị mắc kẹt... và thế giới xung quanh hình như có hai bộ mặt. Thu hẹp và nhỏ bé hơn ông có thể tưởng tượng. Cả thế giới là một vòng tròn được bông tuyết vẽ lên xung quanh ông. Nhưng nó cũng rộng lớn hơn tôi tưởng nhiều, vươn ra khắp mọi phía xa đến nỗi lại vòng về chỗ cũ. Tôi cũng trải qua cảm giác như vậy khi lái xe từ Madrid xuống đây... qua những vùng đồng bằng hoang vu. Sự bao la của khoảng cách và sự chật chội ở nơi tình cờ ông đang đứng.”
“Những ý nghĩ đó dẫn đến đâu?” tôi hỏi.
“Suy đoán,” anh trả lời, nhưng rõ ràng anh định thôi không bàn về vấn đề đó nữa. Britta nói gì đó về việc cô đã gặp khá nhiều trận bão tuyết, những trận liên miên bất tận, nhưng Joe cứ nhìn chăm chăm vào mắt tôi. “Suy đoán,” anh đã nói như vậy, và dù không hiểu những suy đoán ấy sẽ đưa anh tới đâu nhưng tôi nghĩ rằng đây là một thanh niên đã tưởng tượng được hình ảnh của thế giới, và một khi người ta đạt tới khả năng đó thì tức là đã bắt đầu suy nghĩ có tính chất xây dựng. Sự kính trọng giữa chúng tôi đã bắt đầu từ lúc đó.
Những ngày tiếp theo, trong khi đám người Hy Lạp đứng ngồi không yên ấy nghiên cứu tổng quát về cái đế chế đang sụp đổ của họ và trì hoãn quyết định cuối cùng, tôi thường ngồi bên quầy rượu trong lúc Joe phục vụ đồ uống và trông cho máy quay đĩa chạy liên tục, và bằng những câu ngắt quãng mỗi lúc tạm rảnh tay, anh thuật lại chuyện trốn chạy của mình. Anh không tính đến chuyện quay về Hoa Kỳ vì không có ý làm người hùng và cũng chẳng muốn nếm trải cảnh tù đày. Anh còn phân vân không biết nên giải quyết chuyện học hành ra sao, vì anh đang để dành tiền ở Torremolinos và không biết ngoại ngữ để theo học ở các trường đại học châu Âu.
Càng nói chuyện nhiều hơn với anh về những vấn đề quan trọng, tôi càng cảm mến anh hơn; lần đầu tiên tôi mời anh ăn tối là vì anh gắn bó với Britta, nhưng bây giờ tôi lại mời Britta vì cô kết đôi với anh. Trong lúc chuyện trò, tôi có thử tìm hiểu về cha mẹ anh, nhưng anh đều chặn lại. Về mẹ, anh chỉ nói vắn tắt, “Kỳ cục,” về cha thì là “Đáng thương,” và không nói thêm gì nữa.
Anh là điển hình của lớp thanh niên có triển vọng nhưng lại là người cô độc bẩm sinh. Anh là người rộng rãi về mặt tiền bạc, mỗi khi để dành được một ít lại mời bằng được Britta và tôi đi ăn tối; anh luôn sẵn sàng giúp đỡ những kẻ lang bạt tuyệt vọng luẩn quẩn trong quán làm phiền anh để xin bố thí hoặc nhờ giới thiệu việc làm; và anh rất dịu dàng với phụ nữ, nhất là Britta; dứt khoát anh không phải hạng người hoang dại chả khác gì thú vật như người ta thường nghĩ về bọn để tóc dài mặc áo khoác da. Anh là người có sức lôi cuốn, bối rối vì xã hội mà anh đang sống và mối quan hệ của anh với nó, hoang mang ngơ ngác chưa biết phải làm gì tiếp theo. Nhưng trong tình trạng rối trí ấy anh đang bộc lộ tính cách, và tôi tin chắc bao giờ tìm được hướng đi ra khỏi thế tiến thoái lưỡng nan hiện tại, anh có thể thành một người có danh vọng.
Một sự kiện bất ngờ đang chờ tôi phía trước, vì một đêm, sau khi chúng tôi dùng bữa ở quầy tự phục vụ và tôi còn đang ngồi ngẩn ngơ như bị thôi miên bởi lượng thức ăn mà anh cùng Britta có thể tiêu thụ và chồng đĩa xếp cao gấp bốn lần, Joe bỗng đề nghị, “Tôi đang lo giấy tờ xác nhận cho một cô gái Mỹ đang tìm cách đổi séc cá nhân lấy tiền mặt. Tôi để quên ở căn hộ rồi. Ông có muốn xem chỗ chúng tôi ở không?” Chúng tôi rời trung tâm Torremolinos và thong thả cuốc bộ từ sườn đồi xuống ngôi làng đánh cá lâu đời, đi qua một dãy nhà thấp rồi dừng lại ở một ngôi nhà nhìn xuống biển. “Vị trí tuyệt đấy,” tôi nhận xét trong khi Joe đẩy cửa và bật đèn.
Anh giải thích anh và Britta sử dụng nơi này trong khi chủ nhà đang ở Marốc thành lập một đường dây cung cấp cần sa thường xuyên, vì vậy tôi đã ít nhiều chuẩn bị tư tưởng cho những gì sẽ nhìn thấy: hai chiếc giường và đồ đạc lèo tèo, nhưng khi nhìn thấy cách trang trí tường, tôi bất giác phải bật cười. Trên đầu giường bên trái là một tấm áp phích rất lớn, in khá đẹp với hình Đức Giáo hoàng Paul nhân từ nhưng trông như sắp lên tiếng răn dạy, đôi mắt hiền hậu tươi cười và ngón tay trỏ lắc qua lắc lại. Ở dưới là dòng chữ in đậm nét: THUỐC NGỪA THAI LÀ ĐỒ CẤM.
Trên tường phía đầu chiếc giường nơi Joe và Britta quẳng đồ của họ lên có treo tấm áp phích nổi tiếng in hình diễn viên hài W.C. Fields đội mũ cao vành đen, mặc lễ phục và đi găng thợ nề màu trắng, cầm bộ bài poker, nhìn một tên du thủ du thực nào đó ở bên phải với ánh mắt ác hiểm. Lớp trẻ thế hệ ngày nay tồn tại giữa hai nhân vật đó, Đức Giáo hoàng và anh hề.
Tiếng cười của tôi làm hai người đang ngủ trên cái giường dưới bức ảnh Đức Giáo hoàng thức giấc, vẻ ngái ngủ, họ kéo chiếc chăn phủ kín người xuống, và thế là tôi nhìn thấy mặt họ - một rất trắng, một tương đối đen. “Chúa ơi!” tôi reo mừng. “Tôi quen họ!”
Họ ngồi dậy, hiển nhiên là không mặc gì nhưng giữ chặt mép chăn quấn quanh cổ. Nói ra thì kể cũng buồn cười, nhưng trông họ giống như hai thiên sứ trong một tấm thiệp Giáng sinh cực kỳ dễ thương. Ngay cả Britta và Joe cũng phải bật cười khi thấy tôi kinh ngạc đứng ngây ra đó.
Lúc đó Monica mới reo lên, vẻ mặt vẫn còn ngái ngủ, “Chú Georges,” và định chạy tới đón tôi, nhưng sực nhớ mình không mặc gì cả bèn gọi, “Ném cho tớ cái áo choàng với!” Britta làm theo và sau khi mặc vội áo vào, Monica chạy ngang qua phòng hôn tôi thắm thiết, “Làm thế nào chú đến đây được thế?” cô phấn khởi hỏi.
“Cháu biết cậu này bao lâu rồi?” tôi chỉ Cato lúc đó đang xỏ chân vào quần.
“Lâu lắm rồi... rất lâu rồi,” Monica nói. Cato bắt tay tôi, “Philadelphia có vẻ xa xôi quá.”
“Hai người quen nhau như thế nào?” tôi hỏi, vui mừng khi tình cờ gặp lại hai người mình thật lòng quan tâm.
“Ở quán,” Cato đáp. “Vũ trường Arc de Triomphe. Đây là một thành phố dành cho những người năng nổ mà.”
“Chúng ta ăn mừng nào!” Monica reo lên và mở một ngăn tủ, trong đó người chủ ngôi nhà này để lại một ít mặt hàng mà anh ta kinh doanh, và chỉ vài phút sau cô đã cuộn xong một điếu cần sa to tướng để Cato châm lửa giúp. Chúng tôi ngồi lên hai chiếc giường, điếu thuốc được chuyền dần từ tay người này sang tay người kia trong khi tất cả cùng ôn chuyện quá khứ. Tôi ngồi cạnh Britta, và lấy làm lạ khi thấy cô cũng hít một hơi rồi đưa cho tôi. Tôi chuyển ngay cho Cato.
“Thôi nào, chú George!” Monica phản đối. “Cứ thử một lần xem nào. Nó sẽ làm chú thấy mình trẻ lại hai mươi tuổi đấy.”
“Chú đã trẻ lại rồi,” tôi nói.
Chúng tôi ngồi như vậy mấy tiếng đồng hồ liền nói chuyện về Vwarda và Philadelphia. Tôi bảo Cato, “Cậu biết đấy, Monica không phải một cô gái bình thường đâu.”
“Thưa ngài, ngài đang nhắc đi nhắc lại một chuyện hai năm rõ mười đấy ạ,” anh đáp nghiêm chỉnh và véo chân Monica.
“Và cô ấy không xuất thân từ gia đình tầm thường. Nữ hoàng Anh đã phong Hiệp sĩ cho cha cô ấy với lời khen ngợi ‘Sir Charles Braham, kiến trúc sư thiết kế nền tự do của Vwarda.’ Ông ấy đúng là thế đấy.”
Tôi để ý thấy trong số bốn người hút cần sa, Monica giữ điếu thuốc lâu nhất và rít vào sâu nhất. Cô ít tham gia cuộc chuyện trò, và một lúc sau rõ ràng là cô đã phát chán. Cuối cùng cô cuộn một điếu rất dài cho riêng mình và rít thật sâu trong vài phút, sau đó nói một câu làm tất cả mọi người sửng sốt, “Khi anh thực sự say thuốc và quan hệ tình dục thì cuộc vui có thể kéo dài mãi mãi. Anh cảm thấy như thể Chúa đang cày xới một thửa ruộng. Đi nào, Cato, lên cực điểm thôi. Ở Granada anh chẳng đáng cái quái gì cả.”
Cato không tự ái, nhưng khi Monica ép anh nhận điếu thuốc, anh bèn đưa cho Joe. Monica chăm chú nhìn anh với vẻ khinh bỉ, và tôi e rằng sẽ xảy ra cãi lộn bèn tìm cửa ra vào, nhưng rồi cô lại đổi ý, ôm lấy cổ anh dỗ dành, “Nào, cậu bé, hút vài hơi đi. Em lên giường ngay đây, cả Britta nữa. Chú George, chú có thể đi được rồi. Chúng cháu có việc phải làm đây.”
Cô quẳng áo choàng, nhảy lên giường kêu lên, “Làm ơn tắt hộ cái đèn chết tiệt kia đi!” Tôi chưa kịp ra khỏi phòng, cô đã chìm vào giấc ngủ, và khi tiễn tôi ra cửa, Britta thì thầm, “Monica nói thì ghê gớm lắm nhưng chẳng làm được thế đâu.”
Vừa định bước ra, tôi chợt nhìn thấy dưới chân một cái túi ngủ kẻ ô vuông bèn hỏi, “Thế ai ngủ dưới này” thì Cato đáp, “Một anh chàng rất giỏi. Cậu ấy ở lại Granada thêm một ngày nữa. Ông sẽ gặp cậu ấy ở quán.”
—★—Với sự kiên trì khiến tôi ngưỡng mộ, đám người Hy Lạp vẫn tiếp tục xoay xở được những nguồn tiền không ngờ, hy vọng gom đủ kinh phí để có thể tiếp tục theo đuổi những tòa nhà chọc trời mà không cần chuyển quyền sở hữu cho World Mutual. Tôi vẫn thường xuyên được biết về cố gắng của họ qua báo cáo từ những trung tâm tiền tệ đã từ chối đề nghị của họ; một đêm, họ quay lại chỗ tôi và hỏi liệu tôi có thể cho họ vay mười một triệu với lãi suất cao không. Họ cố thuyết phục tôi rằng bằng cách này hay cách khác họ đã gom góp được mười sáu trong số hai mươi bảy triệu còn thiếu, nhưng tôi lãnh đạm trả lời rằng công ty tôi không quan tâm đến chuyện cho vay. Điều chúng tôi kiên quyết yêu cầu là quyền sở hữu dự án. Họ không tỏ ra bất bình. Họ can đảm tiếp nhận câu trả lời của tôi và rút lui để tìm cách vay mượn thêm. “Tuần sau chúng tôi sẽ gặp lại ông,” họ hẹn, thế là một lần nữa tôi lại bị để mặc tự xoay xở lấy mà không có việc gì làm. Tôi hay đi tản bộ khá xa, tắm nắng trong căn hộ trên tầng chót, đọc Thomas Mann và ghé vào quán chuyện trò với các bạn trẻ.
Tôi vui mừng khi được gặp lại Cato và Monica vì họ chắc chắn là hai trong số những thành viên đáng chú ý nhất thuộc thế hệ trẻ. Trong chừng mực nào đấy, họ như những con thú non vì đã phản ứng một cách máy móc và hăng hái đến buồn cười trước bất cứ nhân tố kích thích nào ảnh hưởng tới mình. Khi nói chuyện với họ, tôi thấy sự tự định hướng của Monica mạnh hơn nhiều so với hồi ở Vwarda; cô thực sự không thèm quan tâm đến ý kiến của bất cứ ai ngoài bản thân. Cô là người phóng khoáng, thẳng thắn và sẵn sàng chấp nhận hậu quả của bất cứ việc gì mình làm. Mấy anh lính Mỹ quê ở miền Nam bị lôi cuốn mạnh mẽ bởi nhan sắc tinh khiết ngời ngời mà họ coi là nét độc quyền của những người đẹp phương Nam, tìm cách can ngăn cô không nên sống chung với Cato Jackson. Không những họ tỏ ý sẵn sàng thay thế mà còn cho cô biết rằng cả nhóm đồng hương Mỹ sẽ tán thành nếu cô bỏ Cato và chọn một người da trắng.
Cô đáp theo một cách mà cô biết sẽ làm họ tức điên: “Từ trước đến nay tôi đã có tổng cộng bốn người tình, hai da đen, hai da trắng, và nếu bất cứ ai trong số các quý ông đây cho rằng mình có thể mang lại những gì mà quý ông da đen đó đã làm được trên giường thì xin mời nộp đơn nói rõ khả năng của mình cho anh trông quầy rượu.”
Khi tôi hỏi thăm về Sir Charles, cô đáp, “Ông già yêu dấu ấy! Ông cho cảnh sát lần theo dấu vết cháu, nên cháu đã có một thời gian đến là khốn khổ. Cháu nghĩ ông ấy đang trồng hoa hồng ở Sussex.”
Một số thành viên thuộc khu kiều dân Anh ở Torremolinos từng quen biết Sir Charles Braham ở châu Phi đã tìm cách thiết lập quan hệ với con gái ông hòng giám sát. Nghe nói cô hay lui tới quán Mỹ, một buổi chiều hai trong số các bà đó đến Alamo mời Monica, nhưng khi thấy họ tới gần, cô bèn nhờ tôi đẩy họ đi, rồi lỉnh lên phòng rửa mặt trên gác. Nhưng tôi chưa nói được câu nào, Britta đã thật thà bảo họ, “Cô ấy đang ở trong phòng vệ sinh nhưng sẽ xuống ngay thôi,” vì vậy tôi bị bỏ lại để tiếp chuyện họ.
“Chúng tôi có một câu lạc bộ rất thú vị trên đồi,” hai bà trấn an tôi. “Monica sẽ thấy vui cho mà xem... vườn tược... các món ăn Anh ngon lành... gặp gỡ bạn bè cũ từ châu Phi và Ấn Độ... đó là những phần tử được chọn lọc khá kỹ càng, và thứ Sáu hàng tuần chúng tôi tổ chức một buổi họp mặt trang trọng, trong đó mọi người sẽ tranh luận rất sôi nổi.” Tôi nói tôi tin chắc Monica rất muốn biết việc này, và sau một lúc chờ đợi khá lâu tôi bảo Britta, “Cô nên lên tìm Monica thì hơn,” vậy là Monica miễn cưỡng đi xuống, bước chân nặng trình trịch, mắt nhìn tôi trừng trừng trong khi ngón tay cái làm bộ điệu cứa ngang cổ.
“Chúng tôi tới mời cô tham gia Câu lạc bộ Anh của chúng tôi,” một bà đon đả nói.
Trông vẻ mặt đe dọa của Monica, tôi đã tưởng cô sẽ cực kỳ khiếm nhã; thay vì như vậy, cô lại tỏ ra rất duyên dáng. “Các bà tử tế quá,” cô lễ phép nói như một nữ sinh. “Tất nhiên cháu rất nhớ thời gian các bà ở Rhodesia. Tất nhiên cháu không mong gì hơn là được gia nhập câu lạc bộ. Nhưng có một vấn đề khó xử.”
“Tôi tin chắc không có bất cứ vấn đề nào đâu,” một bà nhanh nhảu đỡ lời.
“Các bà chưa biết chồng cháu đấy thôi,” Monica vội đáp. “Anh ấy đúng là vấn đề lớn đấy ạ. Thực ra, anh ấy đang ngồi trên cái ghế cao cuối cùng cạnh quầy rượu đó.” Trong khi hai người đàn bà kinh ngạc nhìn về phía Cato đang ngồi ngất nghểu, một tay đỡ đầu còn khuỷu tay tì vào một thùng nước cam, Monica gọi, “Anh yêu, lại đây nào,” và Cato thong thả tiến lại gần.
Với cái kiểu láu cá vui nhộn mà tôi đã để ý hồi ở Philadelphia, Cato hiểu ngay tình hình và lại sa vào bắt chước điệu bộ đáng ghét nhất của Stepin Fetchit, “Tôi thật sự zui mừng được gặp các quý bà.” Nói đến đây anh khịt mũi hai hay ba lần như người dùng heroin, đầu giật mạnh thình lình hai cái, và nói tiếp, “Tui vẫn nói, bất cứ bạn nào của tiểu thư Monica cũng là bạn của tui.” Anh ngừng lại, làm ra vẻ một thằng ngốc trăm phần trăm và cười ngớ ngẩn với từng bà một. Anh khịt mũi vài lần nữa và bất ngờ phát mạnh vào mông Monica. “Tôi không muốn cô la cà suốt đêm ở quán này đâu đấy. Về nhà. Về mà làm việc đi.” Và đến đó thì anh lại lê chân quay về chiếc ghế đẩu cao.
“Chồng cháu là con một tộc trưởng,” Monica nói vẻ xấu hổ. “Cha anh ấy muốn anh ấy đến Oxford nhưng... ờ, các bà thấy rồi đấy.” Cô ngừng lại, ra vẻ bi thảm, rồi hạ giọng, “Việc này không được đâu. Nếu biết các bà là người Anh, anh ấy sẽ thao thao bất tuyệt về chủ nghĩa đế quốc cho mà xem.”
Hai bà vội vàng rút lui, và khi họ đã đi xa không nghe được nữa, tôi mới nói, “Lẽ ra ta phải quật cho cháu một trận,” và cô nói lại, “Cuộc đời ngắn ngủi lắm, chú ơi.”
Thời gian ở châu Âu đã mang lại cho Cato lợi ích về nhiều mặt. Anh đã đổi mới tủ quần áo nên ngoài màu da ra, rất khó phân biệt anh với những người Pháp hoặc Đức ăn diện. Anh để ý nghe ngóng nhận xét của người khác và đã tiếp thu được hiểu biết sâu sắc về các vấn đề của châu Âu và châu Phi; đáng kể nhất là anh đã lấy lòng được các nhân vật thuộc nhiều hạng người cách biệt nhau rất xa.
Trừ anh lính miền Nam thỉnh thoảng đến quán muốn giành lấy Monica, Cato khá thân thiện với những người Mỹ đến từ các tiểu bang miền Nam, lúc thì anh làm họ phẫn nộ với những lời tuyên bố thẳng thắn về tín ngưỡng, lúc lại làm họ vui thích với lời quả quyết là thế hệ sau sẽ có nhiều người da đen như anh, sẵn lòng đối thoại nghiêm túc, sẵn lòng nhượng bộ khi cần thiết để giữ cho tình thế được thuận lợi. Anh thích nói chuyện với những người châu Âu ham tìm hiểu nước Mỹ; với họ, anh thẳng thắn một cách tàn nhẫn, vừa khi trước làm tăng mối thù địch của họ lúc sau đã lại làm họ hoảng sợ với những lời thách thức. Tôi có cảm giác anh đang thử năng lực của mình để biết được anh có thể đi xa tới đâu và điều gì dẫn tới thành công trong cuộc tranh luận. Tôi không hiểu anh muốn gì, nhưng tôi dám chắc anh đang từ từ xây dựng hình ảnh của bản thân và quyết định xem mình có thể làm gì với hình ảnh ấy.
Lắm lúc anh cũng làm tôi bực tức. Thời gian này anh vớ đâu được khoảng sáu kiểu phát âm: giọng hạ lưu Philadelphia, tiếng lóng của người da đen ở mấy tiểu bang miền Nam nước Mỹ, cách nói của xã hội thượng lưu ở đại học Pennsylvania, tiếng Pháp tao nhã, tiếng Tây Ban Nha quý tộc, và giọng điệu mà người ta chỉ có thể gọi là kịch cọt - cách nói khôi hài hoa mỹ và làm người ta khó chịu mà anh dùng để trêu chọc bất cứ ai hay hỏi những câu thăm dò quá sâu vào ý thức về người da đen của anh. Anh thực sự có thể khiến người ta giận điên lên.
Nhưng cho dù tôi có thấy khó chịu với Cato đến thế nào và anh có thể khiến người ta tức giận đến đâu chăng nữa thì trong cách cư xử của anh vẫn có một khía cạnh đáng được tôi nể trọng: trong quan hệ với Monica, bao giờ anh cũng hết sức tử tế. Nhiều thanh niên khi quan hệ yêu đương với con gái có địa vị cao hơn thường cảm thấy buộc phải bù đắp bằng cách hành hạ người tình cho hả giận; Cato thì không. Hoặc một người đàn ông khi đi lại với cô gái giàu có hơn mình thường thấy cần phải khẳng định nam tính của mình bằng cách đối xử keo kiệt với cô ta; Cato thì không. Chuyện Monica là con gái một quý tộc Anh không khiến anh làm nhục cô, việc cô là người da trắng cũng không làm anh thấy cần thiết phải công khai xúc phạm cô. Anh vẫn là một thanh niên bình thường, hòa nhã, ham mê tình dục, và tôi thấy rất vui khi ở bên anh và người yêu của anh.
Chẳng hạn như tối nọ, một nhà báo Mỹ nghe tin anh chàng đã nổ súng tại nhà thờ Llanfair đang có mặt trong thành phố bèn lùng tìm đến quán Alamo phỏng vấn Cato, và trong khi các khách quen thán phục ngồi thành vòng tròn xung quanh, anh đã tai quái đóng vai một người da đen ẻo lả say mê tiếng Pháp. Các câu trả lời của anh rất thú vị và chúng tôi phải tự kiềm chế để không làm anh bị lộ tẩy.
Anh phóng viên trang nghiêm hỏi, “Anh có cho rằng cuộc cách mạng của người da đen đang lan nhanh khắp mọi miền nước Mỹ không?”
Vô cùng rõ ràng, Cato đáp, “Cho đến nay, tôi mới chỉ được phép thăm Philadelphia, New York và một dịp ghé thăm anh em ở Newark, nhưng tin tức từ các tỉnh đến tai tôi liên tục, và ráp lại những gì mà chúng cho tôi biết...” Anh nhún vai ra vẻ hy vọng đã tiêu tan và nói tiếp, “California bị mất hẳn rồi... mất rồi... mất thật rồi. Bọn Mexico bẩn thỉu với thứ nho chết tiệt của chúng đã cướp mất cuộc chơi của chúng tôi rồi. Anh có thể cho bảy tấn TNT nổ ngay giữa thành phố Watts mà việc này cũng chẳng thành vấn đề lớn lắm.” Anh bật ngón tay. “Cái bọn Mexico khốn kiếp ấy đang xía vào việc của chúng tôi.”
Khi anh phóng viên thử tập trung hỏa lực vào vấn đề cách mạng đang cố gắng thực hiện điều gì, Cato ngắt lời: “Những gì tôi vừa nói về California cũng vận sang cả New York nữa, tôi e là còn nghiêm trọng hơn nhiều.” Khi nghe nói đến từ “tôi e,” một anh lính suýt bật cười, nhưng bị các bạn bắt phải im miệng. “Ở New York thì có bọn Puerto Rico khốn kiếp. Bọn chúng đã giành hết cuộc chơi của chúng tôi rồi. Nếu anh là người Puerto Rico, anh sẽ được giật tít. Còn nếu anh là da đen, ai thèm quan tâm? Nhưng ở những nơi như Birmingham và Tupelo, chúng tôi cầm trịch. Vì vậy theo bạn bè tôi kể lại thì người da đen chúng tôi đã bỏ California và New York. Cứ để cho bọn Mỹ Latinh chiếm đi. Nhưng ông có thể cho độc giả da trắng của ông biết điều này. Một khi đã ra tay thì chúng tôi sẽ làm ra trò đấy.”
Lúc này chúng tôi có thể nhận thấy anh phóng viên đã hiểu ra mình đang vướng phải một trò lừa đảo, nhưng anh ta cứ bám Cato, rõ ràng hy vọng moi được vài trích dẫn hữu ích liên quan đến suy nghĩ của người da đen về những người nói tiếng Tây Ban Nha. Cato lại ngắt lời, “Từ mọi đen mà người da trắng thường dùng nghĩa là gì? Ai là mọi đen? Tôi không phải mọi đen. Đó chỉ là một từ bẩn thỉu của bọn đế quốc do đám da trắng sính Kinh Thánh bịa ra và được báo giới bị chi phối phổ biến rộng rãi. Đáng lẽ ông phải thấy xấu hổ khi dùng một từ như vậy trong cuộc phỏng vấn mà tôi tưởng là thiện chí!” Anh quát tháo om sòm bằng giọng Pháp và làm anh phóng viên rối trí đến nỗi cuộc phỏng vấn thất bại hẳn.
Cuối cùng, anh phóng viên kéo riêng Monica ra một chỗ hỏi, “Lúc nào anh ta cũng đùa giỡn thế sao?” và cô thổ lộ, “Không. Bình thường anh ấy vẫn nói năng mạch lạc nhưng vợ anh ấy sắp sinh con.”
“Tôi không biết anh ấy đã có vợ,” anh nhà báo nói. “Có chứ, anh ấy lấy một cô gái Tây Ban Nha rất xinh. Gia đình cô ta tưởng anh ấy là người Marốc... da rất đen. Bây giờ họ đã biết sự thật. Họ đang gây sức ép kinh khủng với cô gái khốn khổ ấy, và ông Jackson đang lo cô ta sẽ bị sảy thai.” Anh phóng viên do dự, xem sổ tay và nói, “Chờ một chút! Ba tháng trước đây anh ta ở Philadelphia. Còn chưa đến Tây Ban Nha cơ mà.” “Tôi biết,” Monica khẽ rít lên. “Đó chính là tấn bi kịch thực sự trong vụ này. Cha của đứa bé là một thương gia Phần Lan. Ông Jackson cưới cô ta là để giữ tiếng tăm cho cô ta.” Anh phóng viên làm ra vẻ tin, trước khi bỏ đi còn nói với Cato, “Tôi hy vọng vợ anh được mẹ tròn con vuông,” và Cato, nghi ngay là Monica vừa dựng lên một chuyện bậy bạ gì đó, trả lời gần như ngay lập tức, “Ơn Chúa, hồi này đã có truyền máu rồi.” Đó là cách kết thúc độc nhất vô nhị cuộc phỏng vấn một nhà cách mạng.
Nhân dịp này Cato cũng có một bất ngờ dành cho tôi, vì khi tay phóng viên đi khỏi, anh và Monica đến ngồi cùng bàn với tôi, anh nói, “Ông thử đoán xem nửa đêm hôm nay ai sẽ đi qua cánh cửa kia.”
Khi tôi bảo họ phải cho tôi manh mối nào đó, Monica lấp lửng, “Anh bạn đang sử dụng cái túi ngủ ấy. Người mà chúng cháu bảo là đang ở Granada.”
“Khi cậu ấy nói với chúng tôi là có biết ông,” Cato nói, “ai cũng thấy thật là tình huống thú vị thực sự.”
Ngay trước nửa đêm, cánh cửa bật mở và Yigal Zmora đứng ngay trên ngưỡng cửa trong bộ soóc yếm, áo sợi xanh và mũ Israel ngộ nghĩnh. “Shalom!” anh reo lên trong lúc lại gần chào tôi. Dang rộng hai cánh tay chỉ khắp cả quán lẫn khách, anh nói, “Đây chính là cách học nghề kỹ sư!” Hiển nhiên là đám lính Mỹ kính trọng anh với tư cách “cậu bé ở Qarash”.
Khi tôi hỏi anh gặp các bạn khác như thế nào thì Cato trả lời thay, “Cũng như tôi thôi. Tình cờ lạc vào cái quán này để uống một cốc nước, thoáng nhìn thấy Britta và mê cô ấy luôn.”
Đúng lúc Cato nói đùa câu ấy thì tôi vô tình nhìn Yigal, và khi thấy vẻ mặt tự dưng đỏ ửng khiến anh bối rối – đỏ lên đến tận mang tai - tôi hiểu ngay là Cato đã nói đùa một câu mà đối với Yigal không có gì là buồn cười cả, và sẽ mãi mãi không bao g