← Quay lại trang sách

Chương 8 ALGARVE

Một người Tây Ban Nha là một người Bồ Đào Nha có đầu óc.

Một người Bồ Đào Nha là một người Tây Ban Nha có nghị lực.

Cả ở Tây Ban Nha lẫn Bồ Đào Nha, không có nhiều thứ làm bạn phấn khích một khi bạn đã được tham quan Disneyland và Knott’s Berry Farm.

Tạo hóa rất hiếm khi sai, còn tục lệ thì luôn luôn sai.

• Lady Mary Wortley Montagu

Nếu không có gương, và cũng không có cả trí nhớ, tôi sẽ tưởng mình mới mười lăm tuổi.

• Jane Digby ở tuổi 44, khi bà sắp kết hôn với một tộc trưởng người Ả rập

Cách tốt nhất để biến đổi xã hội là thay thế lần lượt từng người một.

Trẻ em mê thích trò chơi; tầng lớp thấp giải trí bằng các trận đấu bò; nhà quý tộc thì tiêu khiển bằng những cuộc đàm luận cao siêu.

Oui, c’est elle!

C’est la déesse plus charmante et plus belle!

Oui, c’est elle, c’est la déesse

Qui descend parmi nous!

Son voile se soulève

Et la foule est à genoux!

• Les Pêcheurs de Perles

Phải, chính là nàng!

Nữ thần duyên dáng xinh đẹp thay!

Phải, chính là nàng, chính nữ thần

Phất phơ, tấm mạng bay

Giữa chúng ta, giáng trần!

Dân chúng phủ phục dưới chân nàng!

• Thơ mò ngọc trai

Tôi cho rằng xã hội phải bảo vệ quyền tự do ngôn luận của giáo sư đại học, nhưng khi có ai đó tìm ra lý thuyết buộc tội cả một giống nòi - và đó chỉ là lý thuyết không có bằng chứng - thì tôi lại cho rằng giáo sư đó không được phép nấp sau tấm áo choàng tự do trừu tượng. Ông ta phải bị kéo thẳng xuống nơi họp chợ, và nếu lý thuyết của ông ta sai thì ông ta đáng bị đá cho gãy răng. Tất nhiên, tôi đang nói đến luận điểm của tiến sĩ Shillington cho rằng người Ý vốn kém về quy tắc đạo đức và mafia theo trực giác.

Đừng bao giờ từ chối bất cứ điều gì chàng yêu cầu. Giữ một mức độ dè dặt và duyên dáng nào đó trước mặt chàng. Hãy duy trì tính lãng mạn của tuần trăng mật dù là ở nhà hay trên sa mạc. Đồng thời đừng lo lắng này nọ ra vẻ đoan trang, như thế chỉ gây chán ghét và lại không phải sự thùy mị đích thực. Đừng bao giờ cho phép bất cứ ai nói năng bất kính về chàng trước mặt mình, và nếu có người làm vậy thì dù khó đến đâu cũng phải ra khỏi phòng. Đừng bao giờ cho phép bất cứ ai buôn chuyện về chàng, đặc biệt là về cách cư xử của chàng đối với những người đàn bà khác. Luôn giúp chàng giữ vững tinh thần mỗi khi chàng thất bại.

• Bản tự nhắc nhở của Isabel Arundel hôm trước ngày làm đám cưới với Richard Burton.

Hieronymus Bosch là kẻ tố giác. Ông ta đã vẽ Giới Quyền Uy đúng theo bản chất.

Một chàng trai độc thân là người mỗi ngày lại đến nơi làm việc theo một hướng khác nhau.

“Đêm qua ấm áp trên chiếc giường lông cừu,

Giữa biết bao lụa là gấm vóc;

Và giờ ta nằm trong kho thóc,

Kẻ cầu bơ cầu bất vây quanh.”

• Child 200

Mẹ tôi thường răn dạy: “Con trai, con không thể mua được hạnh phúc!”

Nhưng bà chẳng bao giờ nói tôi không thể thuê được hạnh phúc.

Hãy thận trọng. Nhìn nhận vấn đề theo quan điểm của cô ấy. Không người đàn ông nào có $500.000.000 lại bị coi là già thực sự.

Những người sống trong nhà cô thì không thể say ma túy được.

Khi ta cô đơn, em yêu trong trắng ơi,

Dù biển động hay đêm tối đen,

Ánh sáng tình yêu vẫn khiến chân ta

Tìm được con đường xưa về với em.

• Eriskay Love Lilt

Gà Con[80] nói quả không sai.

—★—

Hành trình từ Tây Ban Nha sang Bồ Đào Nha có ảnh hưởng quyết định tới hai người trong nhóm du khách.

Ngồi sau tay lái chiếc pop-top, lần đầu tiên Joe chứng kiến sự mạo phạm mà Tây Ban Nha đã xúc tiến dọc theo dải đường bờ biển trải dài về phía Tây từ Málaga tới Gibraltar. Trong khi len lỏi giữa dòng xe cộ dày đặc, anh buộc phải nhìn những gì đã xảy đến cho các thị trấn nhỏ từng khiến nơi này trở thành một trong những con đường đẹp nhất châu Âu.

Từ Torremolinos đến Fuengirola, một rừng bê tông đã mọc lên, thừa thãi những căn hộ cao tầng chen chúc dọc bờ biển, một mớ lều lán và quầy xúc xích mọc trong đất liền nơi người ta kiếm bộn tiền. Những khoảng đất trống ít ỏi còn sót lại mà anh thấy đều đang bị biến thành sân gôn.

Và cảnh tượng xấu xí, xấu trên tài xây dựng tùy tiện. Tưởng như Tây Ban Nha đã triệu tập những kiến trúc sư tồi nhất thế giới tới vùng đất Đông Nam này và giao cho họ nhiệm vụ: “Biến bãi biển này thành đỉnh cao về sự xấu.” Tiền thưởng sẽ phải chia đều, vì nếu các kiến trúc sư Đức tạo ra quái thai, người Tây Ban Nha còn làm nên những thứ xấu hơn. Mỉa mai thay - các chủ thầu cả đời sống ở Stockholm, từng được chiêm ngưỡng vẻ đẹp mà những kiến trúc sư phương Bắc tạo nên, vậy mà vừa đến Fuengirola là đã dựng lên những khu nhà ổ chuột, chẳng đẹp đẽ mà cũng chẳng hài hòa.

“Thật ảm đạm,” Joe nói khi họ đang trên đường đến Marbella và nhìn thấy những khách sạn tổ ong đang xây dở; những công trình đó là của người Mỹ, được bê nguyên xi từ khu thương mại Los Angeles - tức là khu vực nghèo khổ hơn.

Điều làm anh thất vọng là các khu chợ ngoài trời, từng khiến cho những thành phố này hấp dẫn, tạo cho chúng một quang cảnh buôn bán sầm uất nhờ ngư dân đến kiếm sống, thì nay nhồi nhét bê tông: những cửa hàng, hiệu đồ cũ và chung cư chẳng bao giờ hấp dẫn được ai. Nhịp sống từng đặc trưng cho vùng tiền hải giờ đã bị tàn phá vô phương cứu chữa.

“Tây Ban Nha đâu rồi?” Joe kinh hãi thốt lên khi nhìn chằm chằm những căn hộ xấu xí mọc lên dọc con đường từng một thời quang đãng chạy từ Marbella tới Estepona, và bằng thắc mắc này anh đã chạm được vào nét đặc trưng tồi tệ nhất của sự xâm hại này: các công trình phá hỏng phong cảnh này được xây dựng không phải dành cho người Tây Ban Nha mà cho người Bỉ, người Đức và người Thụy Điển, những người đã dựng tại thành phố quê hương mình những ngôi nhà đẹp đẽ. Khi nào dải bê tông được hoàn thành, nó sẽ không trở thành nơi định cư cho dân Tây Ban Nha mưu sinh bằng nghề đi biển, mà dành cho những người phương Bắc giàu có, chỉ dùng chỗ này làm nơi nghỉ ngơi. Chẳng có mấy gia đình sinh sống trong khung cảnh xấu xí này và nếu có thì họ cũng sẽ không nói tiếng Tây Ban Nha.

“Tôi thấy như một vụ bán tống bán tháo,” Joe lẩm bẩm và nhấn ga chiếc pop-top hướng về Gibraltar, trong đầu hiện lên những mảnh phong cảnh anh vẫn còn nhớ sau hành trình xuyên nước Mỹ, và anh bắt đầu xác định một quan điểm về vấn đề nên sử dụng trái đất ra sao. Anh chưa có được hiểu biết gì đáng kể, song trong cơn bão tuyết quay cuồng từng làm anh choáng ngợp giữa ngã tư đường ở Wyoming, anh đã thấy hiện ra những hình mẫu rõ nét về đất đai thoáng đãng, những công trình thích hợp với đất đai như vậy, một sự cộng sinh phì nhiêu giữa nhu cầu và vẻ đẹp, và trên hết là nghĩa vụ giúp người dân di chuyển và tập trung một cách sáng suốt.

Anh nói với Gretchen đang ngồi ghế bên cạnh, “Nếu một số người châu Âu... phá hoại vùng này, ý anh là... ừm, nếu họ hủy hoại được cả một khu vực.” Anh dừng lại, tập trung lái xe, rồi kết luận, “Thử tưởng tượng xem nếu thực sự chủ tâm thì chúng ta sẽ có khả năng tàn phá những gì ở nước Mỹ.”

Đó là một suy nghĩ u ám và anh không thấy khuây khỏa bởi ý kiến của Gretchen: “Biết đâu đến lúc đó thế giới sẽ có ý thức hơn thì sao.” Anh lắc đầu nói với cô, “Em đừng có mà tin điều đó.”

Anh vẫn giữ tâm trạng nặng nề suốt đoạn đường dẫn đến các lối vào Gibraltar. Hành khách của anh muốn thăm The Rock, nhưng một tranh chấp vô nghĩa nào đó giữa chính phủ Tây Ban Nha và chính phủ Anh đã không cho phép họ làm vậy, vì thế họ đỗ xe trước hàng rào chắn đường và xuống xe để chiêm ngưỡng pháo đài hùng vĩ, nằm cách đó có mấy trăm thước.

“Tại sao chúng ta không được tham quan?” Cato thắc mắc.

“Chính phủ,” Monica đáp. “Bất cứ lúc nào ta gặp chuyện vô cùng ngớ ngẩn, câu trả lời nhất định là ‘tại chính phủ’.”

“Chính phủ nước nào?” Cato hỏi.

“Nước em,” Monica cáu kỉnh. “Phải công nhận nước Anh cũng có điểm tốt. Họ không thiên vị. Nếu đã làm cho Vwarda và Gibraltar rối tung lên, sau đó họ cũng phải làm cho xứ Wales và Ireland rối tung lên nốt.”

Trong tâm trạng có phần bực bội, họ quay về xe và bắt đầu quãng đường dài dọc bờ biển tới Cadiz. Về phương diện nào đó còn ảm đạm hơn nhiều, vì con đường này đã rời khu vực mà người Đức và người Thụy Điển ở để vắt ngang những công trình thuần Tây Ban Nha, và sự khác nhau rất dễ nhận thấy, bởi vì suốt một dải vừa hoàn thành, người phương Bắc tạo ra sự xấu xí bằng nguồn tài chính đầy đủ, và có trong các tòa nhà cao tầng giống như những tòa nhà người Hy Lạp đã xây ở Torremolinos phần nào tính chuyên nghiệp, còn ở phía bên kia của Gibraltar, ngoại tệ chưa được rót vào, nên các nhà thầu Tây Ban Nha đang cố gắng thực hiện những dự án rẻ tiền không đủ kinh phí.

“Những khu ổ chuột tạm bợ,” Joe chua chát nói trong khi quan sát từng khu nhà tồi tàn một.

Chợt nhớ đến các công trình đẹp đẽ ở Grosse Pointe và Haifa, Yigal nói, “Hình như cứ đến gần đại dương là kiến trúc sư Tây Ban Nha lại phát rồ.”

“Chẳng phải đây vẫn là Địa Trung Hải sao?” Cato hỏi.

“Đại Tây Dương rồi,” Yigal đáp. Anh vẫn luôn lấy làm lạ không hiểu sao người Mỹ được coi là điều khiển thế giới lại hiểu biết về thế giới ít ỏi như vậy.

“Các bạn hãy tưởng tượng,” Joe nói một cách chán nản, “có người thổi còi và thét lên, ‘Nếu phải làm, hãy làm cho thật tốt vào.’”

“Ai mà thèm nghe chứ?” Monica hỏi, và suốt đoạn đường còn lại của ngày hôm đó không ai đả động đến việc Tây Ban Nha phá hoại vẻ đẹp tự nhiên nữa.

Nhưng, vì lúc nào cũng phải nhìn thấy cảnh đó trước mắt trong lúc lái xe, Joe bị hút vào việc tìm cách phân biệt cái hay và cái dở, và cái dở chiếm ưu thế đến nỗi mỗi khi phát hiện ra một công trình nào đó cho thấy con người giải quyết những vấn đề của con người, anh đều ghi nhớ với tình cảm yêu mến.

Đêm đó, khi họ dừng lại bên con sông Guadalquivir rộng lớn đục ngầu để chuyển chiếc pop-top thành phòng ngủ tập thể, Joe hỏi Yigal, “Ở Israel người ta có làm ăn tệ hại như thế này không?” và chàng trai Do Thái đáp, “Chúng tôi có quá ít đất nên phải coi trọng.”

Một lúc lâu sau - trong khi côn trùng vo ve quanh rèm và bay tán loạn mỗi lần Monica vừa xịt thuốc diệt côn trùng vào chúng vừa rủa, “Cút đi, lũ mọi đen lít nhít!” khiến Cato lầu bầu, “Ăn nói cẩn thận đấy, cô gái!” - Joe vẫn ngẫm nghĩ về những gì Yigal nói. Khi anh có ít đất đai, anh phải biết quý trọng từng tấc. Nhưng trên thực tế, như Joe nhận thấy rõ ràng ngay từ đầu, mỗi người chỉ có một ít đất đai, mà không ai buồn quan tâm đến nó.

Nằm mãi không sao ngủ được, anh bèn bỏ ra ngoài và đi xuống bờ sông, một lúc sau Gretchen đến nhập hội, vậy là hai người nói về Tây Ban Nha và cảnh tiêu điều anh đã thấy ngày hôm đó, cô nói, “Ở trường, chúng em có một số buổi thuyết trình về lịch sử Tây Ban Nha, và luận điểm chính là Tây Ban Nha có truyền thống tàn phá đất đai... chuyện gì đó về chăn nuôi cừu và không coi trọng nông nghiệp. Em nhớ hình như là di sản từ thời người Moor. Vùng cao Tây Ban Nha đã bị tàn phá cách đây bốn trăm năm. Bây giờ bọn phá hoại lại chuyển xuống bờ biển.” “Chúng ta không làm như thế chứ... ý anh là ở Mỹ ấy?”

“Như Monica nói đấy, ‘Nếu có thể phạm sai lầm thì nhất định chính quyền sẽ phạm.’”

“Nhưng chúng ta có truyền thống ngược lại,” Joe nói. Anh nhớ lại thành phố quê anh đã vận động như thế nào để đưa đất rừng vào diện bảo tồn quốc gia. Những người lãnh đạo cộng đồng đã bay đi Washington. Rồi anh nói tiếp, vẻ giễu cợt, “Trong khi ở bên này rừng chúng ta đấu tranh để cứu nó, phía bên kia các chủ trại lại đấu tranh để tàn phá nó.”

“Ở Tây Ban Nha thì chủ trại luôn thắng,” cô nói.

Sáng hôm sau, họ tới Sevilla thăm ngôi nhà thờ nổi tiếng ở đó. Đến đêm họ cắm trại trong cánh đồng nho và sáng ra lại chậm rãi lái xe đến La Rábida ngắm bãi biển nơi Christophe Colombus đã giong buồm ra đi khám phá châu Mỹ. Tất cả những người khác đều ngạc nhiên nhận thấy chính Britta là người có vẻ xúc động sâu sắc nhất; cô nấn ná trên bãi biển, nhìn đăm đăm về phía Tây. Bình minh ngày hôm sau, Joe lái pop-top xuống bờ sông Río Guadiana ngăn cách Tây Ban Nha với Bồ Đào Nha, và các cô gái nín thở khi anh cho xe nhích dần lên một cái phà mục nát dường như sắp chìm ngay cả khi trống trơn. “Ave Maria, gratia plena,” Monica ngâm nga khi đặt chân lên cái phà mỏng mảnh.

“Trời!” Cato kêu thất thanh. “Nhìn kìa!” Thì ra một chiếc xe tải lớn chở ống nước đang ì ạch bò xuống con đường dẫn lên phà.

“Các ông cho cả xe tải lên ư?” Britta hỏi người chở phà bằng tiếng Tây Ban Nha.

“Tại sao không?” Anh ta ra hiệu cho tài xế thận trọng tiến lên, và khi bánh trước vừa lăn được lên phà, chiếc tàu liền chìm xuống khoảng hai foot, nước bắn tung tóe, song chiếc xe vẫn tiến tới cho đến khi bánh sau lọt lên sàn, lúc đó mép phà chỉ còn cách mặt nước một vài phân.

“Vừa đẹp!” người chở phà vui vẻ reo.

“Anh ta nói gì thế?” Yigal hỏi, Britta dịch xong tin tức tốt lành đó, Monica liền thốt lên, “Ái chà,” rồi làm dấu thánh giá.

Hành trình mạo hiểm vượt qua dòng sông đục ngầu trên chiếc phà cũ nát đó là một màn làm quen đầy hứng thú với Bồ Đào Nha. Bên kia sông phía Bồ Đào Nha là một bầu không khí bối rối vui vẻ, tất cả mọi người đều dừng tay làm việc trong khi nhóm nhân viên hải quan tập trung quanh chiếc pop-top để kiểm tra. Viên chỉ huy trèo lên xe đề nghị Gretchen cho biết sáu người bố trí chỗ ngủ như thế nào.

Một thanh niên Bồ Đào Nha đầu tiên chỉ tay vào Joe và Gretchen sau đó chỉ vào chiếc giường, ra ý hỏi có phải hai người ngủ chung không, chưa ai kịp trả lời thì viên chỉ huy đã khiển trách anh ta. Britta bắt lời với viên chỉ huy bằng tiếng Tây Ban Nha, nhưng ông ta nhìn cô nghiêm khắc và trả lời bằng tiếng Pháp: “Chúng tôi không bao giờ nói tiếng Tây Ban Nha ở đây. Chúng tôi nói được, nhưng không nói.” Ông ta tìm thấy một tấm bản đồ bèn đưa cho Gretchen với vẻ ga lăng đậm chất nông thôn. Ngón tay trỏ ngắn ngủn mập mạp của ông ta chỉ cô theo dấu những con đường Bồ Đào Nha, dừng lại ở một ngôi làng khuất nẻo nằm trên con đường cách xa đại dương. “Alte bốn quả núi. Alte con sông cuồn cuộn chảy qua. Các bạn là những thanh niên đứng đắn và tôi hy vọng các bạn sẽ giúp tôi một việc. Hãy lên thăm Alte. Bởi vì tôi muốn các bạn được thấy mặt tốt đẹp nhất của Bồ Đào Nha.”

Ông ta bắt tay lần lượt cả sáu người và chúc họ lưu trú vui vẻ trên đất nước ông. Một viên phụ tá trả giấy tờ xe cho Joe, dấu đóng cẩn thận hết cả, chiếc pop-top vừa rục rịch rời trạm hải quan, viên chỉ huy liền quay sang làm việc với người Tây Ban Nha lái chiếc xe tải, và Britta nghe thấy ông ta làu bàu bằng tiếng Tây Ban Nha, “Thế anh định làm cái quái gì với những cái ống kia?”

Quá trình làm quen với đất nước mới này là một khám phá. Vì Bồ Đào Nha tụt hậu rất xa so với Tây Ban Nha về bất cứ chỉ số xã hội hay kinh tế nào - đó thực sự là một mảnh đất thuộc thế kỷ mười tám - những hành động thái quá của thời hiện đại từng làm hỏng bờ biển Tây Ban Nha vẫn chưa thâm nhập vào đây, và người ta được thấy cảnh núi non có thể đẹp đẽ đến thế nào khi đổ thoai thoải xuống những bãi biển sạch sẽ, yên tĩnh. Các thành phố ở Bồ Đào Nha đều sạch sẽ, cổ kính và đậm chất phong kiến. Dọc bờ Đại Tây Dương không có tòa nhà chọc trời nào, các triệu phú nước ngoài lẻn vào vùng này xây dựng nhà cửa đều buộc phải tiến hành một cách kín đáo để du khách trên xa lộ quanh co uốn khúc không thể nhìn thấy những tòa nhà mới.

Nhưng chính đất đai là thứ quyến rũ Joe. Các quả đồi được che phủ bằng những hàng cây thấp đang kỳ sinh trưởng đẹp đến mức Joe phải dừng xe và thuyết phục Britta hỏi xem đó là cây gì. Cô thử dùng tiếng Tây Ban Nha, nhưng người đàn ông cô hỏi chuyện lại không chịu sử dụng ngôn ngữ ấy, dù cô ngờ là ông ta hiểu hết. “Cây hạnh,” ông ta trả lời bằng tiếng Pháp. “Cô nên đến đây vào tháng Giêng, khi chúng nở hoa. Cách xa hàng dặm, cô đã có thể ngửi thấy mùi thơm rồi.”

Trên đồi có cam, sồi cổ thụ và cây thường xuân, nhưng nhiều nhất vẫn là vẻ trù phú của các trang trại nhỏ, các cánh đồng được chia ranh giới bằng tường đá, nhà cửa đều xây thấp và trông như thể mọc thẳng từ lòng đất lên chứ không phải được xây trên đó. “Đất nước này khá đặc biệt đấy,” Joe nói, và càng ngắm nhìn vùng đất, nhìn những dấu hiệu rõ ràng cho thấy nó đã được chăm sóc và yêu quý qua bao thế kỷ, anh càng thích Bồ Đào Nha. “Tôi có cảm giác như trước kia mình đã tới đây rồi,” anh phát biểu. “Giống như đang về nhà vậy.”

Anh cho xe chạy chầm chậm xuyên qua vùng đất thần tiên với rừng, đồi và đại dương tên là Algarve ấy. Anh ngờ rằng đây là một trong những địa điểm tuyệt vời nhất thế giới, một nơi tự bản thân đã may mắn, lại còn nhận thêm phần may mắn vì bị lịch sử và sự phát triển bỏ qua. Tại đây không có sân bay Malaga mỗi ngày đưa đến hàng nghìn du khách thích tiêu tiền. Nếu muốn thăm Algarve, anh phải bỏ ra cả thời gian và trí lực, chứ không chỉ đơn thuần là tiền.

“Chúng ta hãy ăn trưa ở Albufeira,” anh nhìn bản đồ nói. “Nó ngay ngoài biển. Sau đó chúng ta có thể quay vào vùng đồi để xem Alte có gì hay không.” Những người khác đều tán thành, vậy là họ tiếp tục đi - nhiều lần dừng lại ngắm nhìn những bãi biển dài không một bóng người - về phía thị trấn lạ thường trong khu cảng đó, nơi phố xá uốn lượn vào vào ra ra các đường hầm đưa họ xuyên qua những quả đồi thấp. Phút trước họ còn ở trên đỉnh đồi... hai lần rẽ trái, thế là phút sau họ đã ở trong lòng đất ngay dưới chỗ lúc nãy. Thích thú với chất thần tiên của thị trấn, Monica reo lên, “Khác xa Torremolinos một cách tuyệt vời.” Song Joe nhận thấy, như sau này anh kể với tôi, đến giờ ăn, cô đã nhờ trực giác mà tìm ra được một quán bar đủ nhếch nhác để thích hợp với quang cảnh Torremolinos.

Bên trong quán, một người Anh tha hương gầy giơ xương, mặt mũi nhợt nhạt được biết đến dưới cái tên Churchill đang ngồi uể oải trong góc, và với khả năng thần giao cách cảm kỳ lạ, ông ta và Monica lập tức nhận ra nhau, không phải nhờ tên tuổi mà nhờ hoàn cảnh.

“Hullo,” ông ta lầm bầm như vẫn chưa tỉnh hẳn. “Chỉ nhìn cũng biết cô là người Anh.”

“Tên tôi là Monica. Thức ăn ở đây thế nào?”

“Dở kinh khủng.”

“Còn bia?”

“Tạm được, nếu cô đãi.”

“Được, tôi đãi, nếu ông cho chúng tôi biết vài nét về nơi này.” Monica chỉ đạo Cato ghép mấy bàn lại và bảo Churchill, “Mời ông ngồi cùng chúng tôi.”

Ông ta bảo là chưa thấy đói nhưng vẫn đến ngồi cùng, và vừa uống bia vừa nhận xét về Algarve. “Đây coi như một thuộc địa của Anh. Người Anh chúng tôi khôn lắm. Chúng tôi biết chỗ nào làm ăn được.” Giơ một ngón tay xương xẩu lên, ông ta chỉ vào đám khách du lịch đang băng qua quảng trường. “Hai người kia là dân Anh. Cả ba người kia cũng thế. Chết tiệt, họ đều là người Anh cả. Dở kinh khủng.”

Khi người bồi bàn mang hai tờ thực đơn nhờn mỡ đến, Churchill quăng ngay xuống đất và bảo anh ta bằng tiếng Bồ Đào Nha lưu loát, “Cậu sang bên kia đường lấy cho chúng tôi sáu suất caldeirada de peixe.”

“Ông gọi món gì đấy?” Britta hỏi.

“Gọi gì thì ăn đó,” ông ta thô lỗ đáp lại. Ông ta khoảng bốn mươi tuổi, người gầy đét, râu tóc không cắt, mặt khoằm khoặm như chim ưng, quần áo luộm thuộm, đôi giầy quần vợt bẩn thỉu, và có vẻ chán cuộc sống tha hương đến độ không muốn tỏ ra dí dỏm hay thực sự châm biếm nữa. Nhưng ông ta là người hiểu biết, và khi Joe nói, “Chúng tôi định ngó qua Alte một chút,” ông ta liền siết chặt hai bàn tay lông lá vào cái cằm râu mọc tua tủa mà nói, “Chắc chắn Chúa đã cho các bạn mượn chiếc la bàn của Người. Tôi xin chúc mừng các bạn đã chọn được nơi tuyệt nhất Algarve.”

Trong lúc ông ta kể về vùng này và nhấm nháp bia đen Bồ Đào Nha, anh bồi bàn bưng về một chiếc khay trên có ba cái liễn to và đặt trước mặt mỗi cô gái một liễn. “Món gì thế này?” Britta hỏi. Churchill lấy thìa của cô mò xuống tận đáy liễn và vớt lên mấy con sò cùng một con bạch tuộc con. Ông ta giơ chúng lên cao trong không khí rồi lại thả tõm xuống liễn. “Hải sản thượng hảo hạng đấy,” ông ta lầm bầm.

Không hề bối rối trước hành động của ông ta, Britta mỉm cười ôn hòa và hỏi, “Ông có dùng một vài con không?” vậy là ông ta đáp, “Xin các bạn một hai miếng thôi,” rồi nhúng thìa vào liễn, vớt một con bạch tuộc nhỏ, giơ lên thật cao và thả cho nó rơi tọt vào miệng, một cái xúc tu trượt xuống cằm. Ông ta bèn hút cái xúc tu lạc lõng ấy nghe đánh chụt một cái, nhai chóp chép, nuốt ực và nói, “Món ngon nhất ở Bồ Đào Nha đấy.” Ông ta lại thọc thìa vào liễn của Monica, rồi của Gretchen, lấy ở mỗi liễn một con bạch tuộc.

Bữa trưa là một bước làm quen Bồ Đào Nha khá thú vị: bánh mì tỏi nóng giòn, rượu vang xanh, rất nhiều hành và khoai tây trong món caldeirada. Britta đánh giá các loại hải sản trong suất ăn của mình: cá chình, sò, ốc, tôm, cua, cá rôi, cá mòi, mực ống và ngon nhất là bạch tuộc con, vừa ngọt vừa giòn lại đậm đà vị biển. “Món này ngon thật,” cô nói với Churchill, và ông ta lại lầm bầm, “Chất lượng thượng hảo hạng mà lại. Tôi đã bảo là ngon mà.”

Khi nhóm bạn rời Albufeira thì trời đã xế chiều. Họ đi khá sâu vào trong đồi mới tìm được đường dẫn đến thị trấn Alte. Sau mấy dặm lên dốc với tốc độ vừa phải, họ đến một chỗ rẽ trông xuống một ngôi làng nhà cửa san sát đến mức chỉ cần liếc mắt đã bao quát được toàn bộ quang cảnh. Nằm cheo leo bên cạnh một thác nước đổ xuống hẻm núi hẹp, Alte được bốn quả đồi bao bọc; ấy là một ngôi làng búp bê đẹp chưa từng thấy.

Trời đã nhá nhem tối, lái ngựa đã lùa bầy ngựa từ trên đồi xuống.

“Tôi sẽ mê nơi này mất thôi,” Joe nói.

—★—

Người thứ hai mà cuộc đời bị ảnh hưởng bởi chuyến đi Bồ Đào Nha là Britta, vì đêm đầu tiên rời khỏi Torremolinos, khi đến lúc sắp xếp chỗ ngủ trên chiếc pop-top, cô phải đối diện với một việc đã khiến cô đau đầu suốt mấy tuần qua. Chiếc pop-top sau khi được sửa sang có sáu chỗ ngủ, và việc phân chỗ trở thành vấn đề quan trọng. Nhà máy đã thiết kế bốn chỗ ngủ: một chiếc giường đôi dọc khoang xe, rộng rãi và thoải mái; một chiếc kê vừa khít dọc theo ghế trước, êm ái nhưng nhỏ; và một cái võng mắc trên trần xe, vừa không dễ chịu vừa không rộng rãi lắm. Còn hai chỗ bổ sung do Yigal và Cato nghĩ ra là hai cái giường tách biệt gá vào hai bên thành xe; chúng khá rộng nhưng không được êm lắm.

Vì vậy ngủ nghỉ trở thành vấn đề yêu cầu sự khéo léo tương tự những gì một người lần đầu tiên đóng hộp cá trích phải đương đầu: ai nằm cạnh ai. Cách sắp xếp phải bắt đầu với chiếc giường đôi, vì việc đó mà xong thì mới xác định được phần còn lại, và Gretchen, trên cương vị chủ xe, đã giải quyết một cách dứt khoát với thái độ không chấp nhận tranh cãi.

“Joe phải lái xe nên anh ấy cần được nghỉ ngon giấc. Anh ấy sẽ ngủ trên giường đôi. Cato cao nên sẽ nằm cùng Joe. Monica nhỏ bé nhất đám nên sẽ nhận chiếc giường nghiêng ở phía trước, còn Yigal không cao lắm nên nằm võng sẽ vừa vặn. Còn lại hai chiếc giường mới thì dành cho Britta và em.” Monica định nói nhưng Gretchen đã cắt ngang: “Và ai cần tình tự thì có thể mượn tạm chiếc giường to vào buổi chiều.” Nói rồi cô khẽ hất đầu về phía Monica và Britta.

Chuyện đó đã buộc Britta phải đi đến một quyết định. Tính đến lúc này cô đã xa nhà được bốn tháng, và trong lúc bước qua người Joe để vụng về leo lên chiếc giường đã được phân, cô chợt nảy ra ý nghĩ những hạn chế của chiếc pop-top đúng là do ý trời. Thời gian gần đây, cô đã hiểu quan hệ của cô với Joe sắp đến lúc kết thúc rồi.

Cả hai đứa mình còn gì nữa đâu? Cô nằm trằn trọc suy nghĩ trên chiếc giường xa lạ. Anh ấy là người tốt... nhưng chuyện sẽ đi đến đâu?

Cô không quan tâm đến chuyện Joe không có tiền để giúp cô hay chuyện trước mắt anh chẳng có khả năng kiếm được gì. Cô cũng không lo lắng về việc chưa chắc anh đã cưới cô; cô thích thú quan hệ tình dục theo điều kiện của mình và cũng thích đàn ông đủ để có thể sống cùng họ với sự chủ động. Cô định một ngày nào đó sẽ xây dựng gia đình, nếu như, theo cách nói quen thuộc của các thiếu nữ cùng tuổi cô, “mọi sự như ý”. Như vậy có nghĩa là cô phải gặp người đàn ông thích hợp, trong hoàn cảnh thích hợp và với triển vọng thích hợp về một tương lai hữu ích. Nếu như, cũng theo lời thanh niên thường nói, “mọi sự không như ý”, cô sẽ không phản đối việc sống như bốn tháng vừa qua.

Lần đầu tiên leo lên giường Joe, Britta đã nhận thấy anh là người chu đáo, đúng mẫu đàn ông cô hằng mong đợi. Họ đã sống bên nhau rất vui vẻ, và nếu những mối quan hệ tương lai của cô cho thấy độ thỏa mãn bằng một nửa như vậy, cô sẽ không oán trách gì cả. “Hoàn toàn thành thực mà nói,” cô nhủ thầm trong lúc nằm trằn trọc ngay phía trên người đàn ông mà cô định gạt ra khỏi cuộc đời mình, “mình không cho là sẽ có đám cưới. Chỉ là một loạt Joe nối tiếp nhau mà thôi. Mình chỉ may mắn trong những việc nhỏ chứ việc lớn thì không. Được thôi, nó cũng chẳng đến nỗi không chịu nổi.”

Tại sao cô lại đi đến những kết luận bi quan như vậy? Tôi có thể tóm tắt lập luận của cô đêm hôm đó vì đến lần tiếp theo chúng tôi gặp nhau, cô đã xem xét lại tình hình của mình cùng tôi và nói, “Lúc ấy cháu đã quyết định là quan hệ giữa Joe và cháu sẽ không phát triển một cách tốt đẹp thực sự được. Chuyện chăn gối thì vui thú thật đấy nhưng chúng cháu có thực sự quan tâm đến nhau không? Chúng cháu sẽ không xây dựng được một tổ ấm, không sinh con đẻ cái hoặc phấn đấu vì một mục tiêu chung - vì vậy sống với nhau để làm gì cơ chứ?”

“Gia đình và con cái có phải mục tiêu của cô không?” tôi hơi ngạc nhiên hỏi lại.

“Không nhất thiết. Nhưng đúng là phải như vậy. Cháu muốn cuộc đời cháu...” Cô ngập ngừng, rồi bật cười vì thấy mình ăn nói có vẻ khoa trương quá. “Ông Fairbanks, nguyên nhân thực sự là nếu ở cùng Joe, chúng cháu sẽ không có khả năng đi Ceylon. Joe không thích mặt trời. Anh ấy không khác gì cha cháu. Anh ấy sẽ tìm một góc tối ở đâu đó và chiến đấu với thái độ ngoan cố âm ỉ.”

Tất nhiên cô còn nói với tôi nhiều điều nữa, và qua đó tôi nhìn thấy chân dung một thiếu nữ hướng nội, một nhân vật nữ chính trong kịch Ibsen từ đất nước phương Bắc, tự tin trong lòng nhưng lại hay bối rối trong quan hệ với người ngoài. Nếu lúc đó có một người đàn ông, cho dù năng lực ở mức tối thiểu, mời cô đi Ceylon hay Hồng Kông, cô sẽ bỏ chúng tôi lại sau sáu phút, thời gian đủ để sắp xếp hành lý. Tình dục và sự gắn bó về mặt tình cảm không đóng vai trò quan trọng trong cuộc đời cô, nhưng cô nhất quyết đòi hỏi cả hai phải có ý nghĩa trong một thời gian dài, và nếu sau khi người đàn ông đưa cô tới Ceylon mà cô nhận thấy hoặc nơi đó hoặc anh ta không được như mong đợi, cô sẽ bỏ rơi anh ta ngay lập tức rồi đến Lima hoặc Wellington, tùy xem thành phố nào hứa hẹn một cuộc sống vẹn toàn hơn.

Tôi chẳng bao giờ biết chắc được theo cô thì cuộc sống vẹn toàn gồm có những gì. Đó không phải tình dục, hay hôn nhân, hay một gia đình ổn định, không phải một nguồn thu nhập chắc chắn, hay bất cứ điều gì làm các cô gái xao xuyến thời tôi còn trẻ. Một buổi chiều, khi tôi đề nghị cô giải thích rõ, cô nói một cách đơn giản, “Từ đó là tươm tất. Cháu muốn mọi phần đời của cháu đều có thêm được gì đó tươm tất.”

Vậy là trong đêm đầu tiên đó, khi nằm trên võng giữa cánh đồng ô liu bên sông Guadalquivir, cô quyết định là việc thu xếp chỗ ngủ mà Gretchen đưa ra sẽ là cố định. Quan hệ với Joe đã kết thúc.

Sau chuyến thăm Sevilla, khi đang ngồi bên đống lửa trại sửa soạn cho chiếc pop-top để sáng hôm sau xuống con phà chở họ sang Bồ Đào Nha, Britta nói, “Em rất thích La Rábida. Em nghĩ được đứng tại nơi Colombus đã xuất phát là chuyện có ý nghĩa đối với một người Na Uy hơn là đối với mọi người khác trong các bạn.”

“Tại sao?” Gretchen hỏi.

“Nó chứng minh rất nhiều điểm trong lịch sử người Viking. Ai cũng biết chúng em đã phát hiện ra châu Mỹ hàng trăm năm trước Columbus. Nhưng việc đó không giúp chúng em làm được gì. Chúng em thừa dũng cảm nhưng lại thiếu ý tưởng. Em thường tự hỏi không biết khi trở về xứ sở, người Viking đã kể những gì cho dân của họ nghe. Em nghĩ họ đã tâu bày, ‘Ở đó có một vùng đất,’ và nhà vua chỉ hỏi, ‘Thế thì sao?’ và chỉ có vậy. Chúng em quên cả việc đã tới được châu Mỹ. Nhưng Columbus thì trở về với vô vàn ý tưởng... cuộc thám hiểm của ông đã đạt được một điều gì đó... không phải vì lòng dũng cảm mà vì những ý tưởng của ông.”

Không thấy ai phản ứng trước lập luận của mình, Britta ngả người ra phía sau, hướng mắt lên bầu trời. “Chắc nước Mỹ cũng thế thôi. Em nghĩ tháng sau người của các anh sẽ bay lên mặt trăng. Nhưng việc đó cũng chẳng có ý nghĩa lắm vì người Mỹ là người Viking của thời đại này. Dũng cảm nhưng ngốc nghếch. Người Mỹ các anh thiếu ý tưởng... và mặt trăng thì ở đó. Một trăm năm nữa, một ai đó như người Nhật sẽ đi tiếp con đường của các anh và mang theo một sức tưởng tượng phi thường, và chính họ mới là người thực sự khám phá ra mặt trăng.”

Một lần nữa lại không ai lên tiếng đáp, nhưng Britta làm tất cả ngạc nhiên khi bỗng nắm lấy tay Gretchen và Cato mà hôn. “Thật vinh dự biết bao vì được làm người Viking. Ngốc nghếch, tự cao tự đại, không có triết lý... nhưng rất dũng cảm. Cuối cùng chính người dũng cảm đứng ra dẫn đường chỉ lối.”

Cô đã vô tình động chạm vào một vấn đề đau đớn và giận dữ đến mức Cato đứng bật dậy quẳng đĩa thức ăn vào đống lửa, làm dao dĩa nảy thìa lia qua đống than hồng, “Mặt trăng quỷ tha ma bắt!” anh hét lên. “Tôi đã cố nói với các người nhưng các người có thèm nghe đâu. Cô kia, mẹ kiếp, chính cô đấy!” Và anh chỉ tay về phía Gretchen. “Hôm nay cô dám hỏi liệu tôi có nhạy cảm quá mức không? Cô tưởng cô là ai cơ chứ, một quý bà thượng lưu người Boston phán xét như một quan tòa, ‘Quá sướt mướt’ ư?”

“Anh đang nói gì thế?” Gretchen hỏi.

“Mặt trăng chết tiệt kia kìa! Tôi đang nói đến nó đấy. Và các anh em cùng màu da nữa.”

“Cato,” Gretchen cắt ngang, “anh đang nói vớ vẩn đấy.”

“Cô có nghe tôi nói đâu. Trong một thập kỷ nước Mỹ chứng kiến các thành phố của nó đi đời nhà ma - dân da đen thì sa đọa, trường học thì tan rã - việc duy nhất chúng ta làm tốt là xây đường quốc lộ. Thế thì lúc đó chúng ta làm gì? Chúng ta tuyên bố với các thành phố, với ngành đường sắt và người da đen, ‘Không có xu nào cho các anh đâu,’ nhưng chúng ta lại tiếp tục tiêu tốn - như một kẻ nghiện ma túy vào đêm thứ Sáu - hai mươi sáu tỷ đô la để đưa một người lên mặt trăng.”

“Bao giờ mà chẳng khó quyết định thứ tự ưu tiên,” Gretchen dè dặt nói.

“Tôi không nói chuyện ưu tiên,” Cato gắt. “Cô đã bao giờ xem các chương trình truyền hình về trung tâm vũ trụ chưa? Hay về công ty máy bay sản xuất phụ tùng? Hay về bất cứ vấn đề chết tiệt gì liên quan tới chương trình vũ trụ? Tổng thống mỉm cười tiến vào. Ông ta được một ủy ban mười sáu người mỉm cười đón chào. Và họ dẫn Tổng thống đi xem xét trang thiết bị... hàng nghìn bàn làm việc... mỗi bàn là một nhân viên cười tươi như hoa... và...”

Anh ngừng lại, và trong ánh lửa bập bùng, chăm chú quan sát từng người rồi kết luận, “không có đồ ngốc nào trong các bạn hiểu tôi định nói gì, phải không?”

“Điểm cốt yếu của cậu là gì?” Joe hỏi.

“Trong tất cả những bộ mặt đó, các bạn không thấy có ai là người da đen cả. Toàn bộ chương trình... hàng tỷ đô la... chi cho một việc mà người da đen bị loại trừ. Những người ngay lúc này cần được giúp đỡ hơn ai hết...” Giọng anh cất lên cao thành tiếng thét và có vẻ cô đơn lạc lõng trong cái tĩnh lặng của miền Nam Tây Ban Nha. Giận dữ đá vào đống lửa, anh nói tiếp, “Chẳng có gì tức cười khi nghĩ rằng Hoa Kỳ đã quyết tâm đổ tất cả tiền của vào chương trình chinh phục vũ trụ vì đó là việc duy nhất - trong số hàng nghìn việc cho họ tiêu tiền - người ta có thể cô lập không cho người da đen tham gia. Đâu có dễ mà mơ đến chuyện đưa người lên mặt trăng, nhưng tổng thống Kennedy đã làm được đấy thôi. Cũng như ông ta đã làm mọi việc khác để hạ thấp người da đen. Người bạn tồi tệ nhất chúng tôi từng có. Nixon còn tốt gấp đôi vì ta còn biết lập trường của ông ta.”

Britta là người phá tan bầu không khí im lặng chua xót. Cô phát biểu, “Người Viking chúng tôi lựa chọn sai lầm hết lần này đến lần khác và đã biến mất khỏi lịch sử mà chẳng lưu lại được gì. Nếu nước Mỹ của người da trắng làm như vậy thì cũng sẽ biến mất thôi.”

Cô nói một cách căng thẳng đến nỗi lúc tới giờ ngủ, Gretchen kéo cô ra một chỗ thầm thì, “Britt, nếu cậu muốn nằm chung với Joe thì chúng ta sẽ thu xếp bằng cách nào đó,” nhưng Britta nói, “Ồ không! Tớ đã quyết định không ngủ cùng giường với anh ấy nữa.”

“Anh ấy có biết không?”

“Làm sao anh ấy biết được? Tớ vừa mới quyết định mà.”

Nhưng khi Gretchen chuẩn bị leo lên giường mình, Joe chộp cổ tay cô kéo xuống cạnh anh trên chiếc giường đôi. Anh thì thầm, “Anh nghĩ em nên để Cato và Monica ngủ ở giường này. Trông hai người có vẻ khổ sở quá,” và Gretchen hỏi, “Thế còn anh và Britta?” thì Joe khẽ đáp, “Bọn anh ổn cả mà. Ý anh là em rất sáng suốt khi sắp xếp chỗ ngủ như thế này. Anh không nghĩ Britta và anh...” Anh bỏ dở câu nói, vậy là Gretchen thì thầm, “Nếu thế thì chúng ta cứ giữ vị trí như đã bàn nhé.” Và sáng hôm sau, họ vượt sang đất Bồ Đào Nha.

—★—

Cách trung tâm thị trấn Alte không xa có một công viên um tùm mà phía Đông giáp một thác nước cuồn cuộn. Đó là một quang cảnh đẹp đẽ lạ thường, vì vẻ đơn sơ mộc mạc, bục sân khấu bé tí và những con đường đi dạo viền gạch khiến nó giống một căn phòng ngoài trời rộng rãi hơn là một nơi công cộng, trong khi nước róc rách chảy qua lớp đá cuội tạo nên tiếng nhạc liên miên, dù dàn nhạc có mặt hay không.

Nổi bật trong công viên là bức tượng thô sơ tạc hình người con duy nhất của thị trấn quê hương từng đạt được chút tiếng tăm. Trên nét mặt đá cổ điển nổi bật bộ râu dài, Candido Guerreiro nhìn xuống công viên mà ông từng yêu quý; hồi ông còn sống, nó còn chưa được lát gạch. Tấm biển đặt ngay dưới bộ râu của ông có khắc:

A MEMORIA DO GRANDE POETA ALTENSE.

Bởi vì tôi sinh ra dưới chân bốn quả núi.

Nơi tiếng suối reo vui...

Người ta cho rằng đây là hai dòng mở đầu của bài thơ thi sĩ viết tặng Alte; một lần tôi đã được nghe người ta ngâm mấy câu này theo giai điệu thương tâm hơn cả bài cầu nguyện tang lễ, nên đi đến kết luận là nếu thi sĩ quá cố ấy có sống vui vẻ gần công viên này thì ông cũng không thể hiện được thực tế đó trong lời thơ của mình.

Chiếc pop-top không được phép đậu trong công viên. Một đường ống dốc từ trên một trong bốn quả núi được dẫn ngầm đến vòi đài phun nước bằng đá gắn vào chính bức tường đặt tượng nhà thơ, và tất cả đàn bà con gái thị trấn Alte phải đến chỗ đài phun nước này, kéo theo những bình đất sét nung rất lớn để hứng đầy nước. Vì vậy công viên này không chỉ là nơi vui chơi hội hè; nó còn là trung tâm thiết yếu của thị trấn, vì đây là nguồn cung cấp nước duy nhất.

Gretchen hỏi một viên cảnh sát xem họ có thể đậu xe ở đâu, và anh ta tìm cho họ một địa điểm có nhiều cây cối nằm sát thác nước, vì vậy họ ở ngay trong tầm tiếng nhạc của nó. Sau này, tại những thời điểm khác nhau, mỗi người trong sáu bạn trẻ đều kể với tôi, “Cho dù chúng cháu có đi đâu... cháu vẫn nhớ về Alte như phần thú vị nhất của cuộc hành trình.”

Một nguyên nhân khiến họ nhớ Alte với cảm tình như vậy chính là ban nhạc. Đêm thứ Sáu, thứ Bảy và Chủ nhật, các nhạc công mang theo những nhạc cụ mòn vẹt vì thời gian tập hợp ở bục để hòa tấu. Vì trong thị trấn không có truyền hình, không rạp chiếu phim và chỉ một vài cái đài cho nên các buổi hòa tấu này là nguồn tiêu khiển duy nhất, và những lúc như thế công viên chật ních người.

“Họ từ đâu ra thế nhỉ?” Gretchen thắc mắc, rồi cô bắt đầu đi tìm hiểu và được biết ít nhất một nửa số thính giả là người từ các vùng quê lân cận. “Không biết em có hiểu được hết lời họ nói hay không,” cô nói với các bạn vào một đêm khi cả nhóm đang nấu bữa tối bên thác nước, “nhưng em dám chắc họ kể một số phụ nữ phải cuốc bộ mười bốn, mười lăm dặm đấy.”

“Cả đi cả về ư?” Britta hỏi.

“Mười bốn dặm để đến đây, mười bốn dặm đi về.”

Yigal huýt sáo. Rồi đến tối thứ Bảy, họ đã hiểu ra. Khi tới công viên để xem dàn nhạc địa phương trình diễn, họ thấy những chiếc ghế mà dân thị trấn mang theo đã được xếp vòng tròn, để lại một khoảng trống lát gạch ở giữa. Ban nhạc bắt đầu chơi một khúc rộn ràng, nam nữ thanh niên nông thôn liền kéo nhau ra nhảy, và chẳng mấy chốc công viên đã biến thành một màn trình diễn đẹp mắt của chuyển động, những bộ quần áo dân dã đu đưa xoay tròn và cái gật gù của những bộ mặt nhăn nheo sạm nắng khi người già quan sát với vẻ tán thưởng.

Các bước nhảy khá phức tạp nhưng không khó, và sau vài phút nhóm bạn đứng ngoài theo dõi, Yigal nắm tay Gretchen kéo vào vòng. Anh đã học nhiều điệu nhảy dân gian ở Israel, và màn trình diễn của anh được dân Bồ Đào Nha vỗ tay khen ngợi nhiệt liệt, trong khi Gretchen, vốn có sẵn tình yêu âm nhạc, nhanh chóng nắm bắt được nhịp điệu và cố gắng theo bước nhảy khá chuẩn. Khi tiết mục tiếp theo bắt đầu, Cato mời Britta nhảy, họ thành một đôi ấn tượng vì cô biết nhiều điệu nhảy Na Uy cổ điển và dễ dàng chỉnh sửa cho chúng thích nghi với phong cách Alte, còn Cato nhảy điệu swing - đám người Bồ Đào Nha tán thưởng ầm ĩ.

Đến điệu thứ ba, viên pháp quan của thị trấn đến mời Gretchen nhảy cùng ông, và bằng cách đó bước làm quen thuận lợi của sáu bạn trẻ với cuộc sống địa phương đã bắt đầu. Họ thật trẻ trung, cách cư xử thẳng thắn có sức lôi cuốn đến mức dân lao động của thị trấn chấp nhận họ ngay. Họ được mời tới dự những bữa ăn đơn giản đến khắc khổ và phong phú đến thừa mứa. Họ đến nhà thờ cùng dân thị trấn, đi thăm bệnh cùng ông bác sĩ địa phương, tổ chức picnic trên đồi, và ngày nào cũng leo lên nơi có thể phóng tầm mắt thấy toàn bộ thị trấn như một hình ảnh thu nhỏ của một thế giới đã biến mất từ lâu. Trong mấy tuần lễ ấy, họ đã sống như người ta từng sống ở châu Âu năm trăm năm trước, và để đáp lại lòng hiếu khách của thị trấn, nhóm bạn đứng ra biểu diễn vào những tối ban nhạc không chơi.

Gretchen mang theo cây guitar, rồi, ngồi trên một cái ghế dài kê giữa đài phun nước và nhà thờ, cô chơi những khúc ballad cổ mà có lẽ mỗi bài đều bắt nguồn từ cuộc sống hàng ngày của chính những người dân kia. Thực tế này được Gretchen nhận thấy rõ vào đêm thứ Năm đầu tiên khi cô đang hát, vì cô nhìn thấy một phụ nữ nông thôn gầy khẳng khiu, mặt mũi hốc hác, có lẽ phải ngoài bảy mươi đứng bên rìa, đáng chú ý là bà ta đi cùng người con gái rất xinh khoảng mười sáu mười bảy tuổi. Cả hai đều đi chân đất và đứng tách xa đám đông, lắng nghe bản nhạc với niềm thích thú lộ rõ trên nét mặt. Người đàn bà còn vỗ tay đánh nhịp và lúc nào cũng có vẻ như sắp bật lời hát theo.

Gretchen đang băn khoăn không biết hai người mới đến ấy là ai thì một phụ nữ đứng gần đó xích lại gần nói, “Có một người tôi nói chuyện với cô rồi. Bà ta đã đi bộ mười bốn dặm đấy.” Vì vậy lúc nghỉ giải lao, cô đến bắt tay người đàn bà và kinh ngạc nhận ra bà ta chỉ khoảng trên bốn mươi. Gretchen cũng nói chuyện với cô con gái - bằng tiếng Pháp nhưng cô bé không hiểu - vì vậy họ đành đứng thế một lúc cho đến khi có người đến phiên dịch giúp.

“Vâng, tôi và con gái sống trên núi...”

“Vâng, chúng tôi đi bộ mười bốn dặm...”

“Có chứ, chúng tôi có giày dép nhưng phải để dành đến lúc nhảy...”

“Có, tôi có chồng nhưng nhà tôi làm việc vất vả quá nên chẳng thể nghĩ gì đến âm nhạc.”

“Vâng, trên núi mọi người đều biết các anh chị đang ở đây.”

Hai mẹ con cũng tham dự buổi hòa nhạc thứ Sáu, và tối thứ Bảy cô gái xuất hiện trong bộ váy quê rất dễ thương, đi bít tất có sọc nổi và giày cao gót. Hiển nhiên cô là người xinh đẹp nhất trong đám nông dân, một thực tế khiến bà mẹ hãnh diện ra mặt. Nhiều thanh niên Bồ Đào Nha đến mời cô nhảy, và đến giữa buổi tối Yigal tiến lại gần cô, cúi chào và đưa tay ra. Cô liếc nhìn mẹ thấy bà chau mày, nhưng Yigal đã đưa cô vào vòng nhảy rồi.

Họ tạo thành một cặp ăn ý, mặc dù cô cao hơn anh một chút, và lúc này Joe đã xin được nhảy cùng cô, rồi đến lượt Cato. Cô nói với họ tên cô là Maria Concepcião, và sau đó Gretchen phát hiện ra cô không biết đọc biết viết.

Đêm Chủ nhật, khi ban nhạc biểu diễn xong bài cuối cùng, Maria và mẹ cô cẩn thận gói ghém giày và váy áo đẹp định đi chân không lên núi, nhưng Gretchen đã vội ngăn lại, nói cô sẽ đưa họ về nhà. Ý kiến này quá bất ngờ khiến Maria và bà mẹ ngơ ngác không hiểu được cho đến khi Joe lái chiếc pop-top tới. Cato và Monica ở lại ân ái trong rừng, còn bốn người kia leo lên xe cùng hai người phụ nữ Bồ Đào Nha và bắt đầu men theo những con đường núi ngoằn ngoèo.

Khi cả đoàn về tới nhà Maria Concepcião thì đêm đã khuya, và sự choáng váng mà cha cô phải trải qua khi thấy vợ con về nhà trên một chiếc xe tư nhân chỉ thua mỗi cảm giác kinh ngạc của các bạn trẻ khi thấy những người Bồ Đào Nha này sống như thế nào. Họ chỉ có một túp lều một gian xây bằng đá, nền nhà đất, một cửa sổ và một lò sưởi tỏa khói khắp phòng. Giường của họ là một tấm nệm rơm đặt trên những tấm ván cách mặt đất vài phân; Gretchen và Britta thấy hình như cô gái phải ngủ cùng cha mẹ ở đó.

Căn phòng khá tuềnh toàng, chỉ có một cái bàn ọp ẹp và một cái tủ nhỏ, hiển nhiên là chỗ ba người cất quần áo, xoong nồi bát đĩa và bất kể của nả nào mà họ cóp nhặt được. Đáng chú ý là trong hoàn cảnh thiếu thốn, gần như không có tiện nghi gì như vậy, Maria Concepcião lại có thể ăn mặc đẹp đẽ đến thế ở vũ hội. Gretchen quan sát cô bé cẩn thận cất bộ váy áo quý giá vào tủ, còn Britta, vốn đã quá quen với cảnh nghèo khổ, lại quay mặt đi vì nước mắt cô đã rân rấn.

Maria và cha mẹ cô dốc hết sức bày tỏ lòng mến khách. Nhà không có ghế, họ ra hiệu chỉ chiếc giường thấp tè mời khách ngồi. Không có trà, họ rót một chút xíu loại rượu đồ nguyên chất nhất thế giới. Không có bánh ngọt, họ mang ra vài mẩu bánh mì nhỏ và pho mát cứng. Không có ngôn ngữ chung, họ nói chuyện như mọi người vẫn làm trong hoàn cảnh tương tự, bằng cử chỉ, nụ cười và cách lắc gật đầu, nhưng Gretchen vẫn làm cho hai người phụ nữ hiểu được là thứ Năm tới cô và Joe sẽ đưa xe lên đón họ xuống thị trấn. Ba người Bồ Đào Nha gật gù một cách thụ động, như thể đó là một việc vượt ngoài khả năng hiểu biết hay làm chủ của họ.

Tối thứ Năm, Gretchen lái xe lên núi đón Maria Concepcião, và tất nhiên Yigal cũng đi theo. Trong buổi diễn không chính thức, khi Gretchen chơi nhạc, Yigal và Maria ngồi cạnh nhau. Họ cũng làm vậy trong buổi hòa tấu của ban nhạc vào tối thứ Sáu, và trong vũ hội thứ Bảy, họ là đôi đầu tiên ra giữa sàn nhảy. Trên đoạn đường dài trở về nhà, Yigal ngồi cạnh Maria, và mặc dù không trao đổi được lời nào, họ vẫn nắm tay nhau và chia sẻ cả một thế giới ý nghĩ. Khi xe về đến túp lều, Gretchen và Britta lấy ra vài chai rượu vang và mấy giỏ đồ ăn thức uống nhỏ đem tặng, món quà được ông bố và bà mẹ đón nhận với thái độ khiêm nhường và biết ơn.

“Một trong những bữa ăn ngon nhất của cháu,” sau này Gretchen kể với tôi, “là ở trong túp lều đó. Suốt quãng đời còn lại, cháu sẽ thích rượu vang và pho mát.” Dấu hiệu cho thấy đó là lần cuối cùng họ được đến thăm túp lều đã xuất hiện khi Gretchen tình cờ nhìn thấy ông bố cau mày, liền nghĩ: Ông ấy không giận dữ. Ông ấy chỉ không vui thôi. Nhưng khi ngoảnh nhìn phía sau, cô thấy Yigal đang hôn Maria.

Hai ngày sau, vị linh mục của làng ghé thăm chiếc pop-top trong lúc nhóm bạn đang quây quần ăn trưa. Rõ ràng ông muốn nói với họ chuyện gì đó, nhưng đầu tiên ông ngồi xuống cùng họ ăn qua loa một chút. Một lúc sau, ông mới nói bằng tiếng Pháp, “Maria Concepcião và cha mẹ cô ấy đề nghị các con đừng lái xe lên núi nữa.”

“Sao lại không ạ?” Gretchen hỏi. “Họ không đến vũ hội nữa ạ?”

“Họ có đến,” vị linh mục ngập ngừng nói. “Có, họ có đến.” Ông nhai nốt miếng thịt bò muối rồi nói tiếp, “Nhưng họ muốn đi bộ đến.” Ông lại do dự rồi nói thêm, “Và lúc về cũng vậy.”

“Có phải con đã làm gì sai không?” Yigal hỏi thẳng.”

“Con là người đã hôn cô ấy phải không? Không, con chẳng làm gì sai cả... mặc dù ta cho rằng thực sự tại con.”

Mọi người ngơ ngác không hiểu gì, và Britta nói lưu loát bằng tiếng Tây Ban Nha, “Thưa Cha, chúng con không hiểu.”

“Chính ta cũng không hiểu,” ông thừa nhận. “Mà ta đã học đại học rồi đấy.”

Câu này càng khó hiểu hơn, vì vậy Gretchen đề nghị, “Thưa Cha, Cha cứ nói theo cách hiểu của Cha ạ. Gia đình Maria Concepcião không muốn đi xe cùng chúng con nữa. Tại sao ạ?”

“Đó là mấu chốt của vấn đề đấy.” Ông linh mục cầm tay Yigal nói, “Rõ ràng họ quý các con. Các con đã giúp đỡ họ... rất hào phóng. Rõ ràng Maria có cảm tình với con, anh bạn trẻ. Cô bé thích được hôn, và thế cũng là lẽ tự nhiên thôi. Nhưng ở vùng núi Bồ Đào Nha này, một gia đình và một cô gái chỉ có một cơ hội trong đời. Nếu họ phạm phải cho dù một sai lầm nhỏ nhất, như đi vũ hội trên một chiếc xe đắt tiền...” Ông ngắm nghía chiếc pop-top và nói với Gretchen, “Dân thị trấn nói với ta là tất cả các con cùng ngủ trong chiếc xe nhỏ này.” Khi thấy Gretchen gật đầu, ông nhìn tay trái cô, rồi tay Britta, “Và các con vẫn chưa kết hôn. Vậy đấy, ta chắc là không có gì tệ hại cả, nhưng các con được phép làm những việc như vậy. Một cô gái vùng núi thì không được.”

“Cô ấy không làm gì sai cả, chưa bao giờ...” Yigal phản đối.

“Nhưng đáng lẽ phải cuốc bộ, cô ấy lại đi đi về về bằng xe hơi. Cô ấy đã đến tuổi phải tìm lấy một tấm chồng, hoặc ở một mình suốt quãng đời còn lại. Chỉ một sai lầm nhỏ thôi... bất cứ sai lầm nào như tỏ vẻ kiêu kỳ quá chẳng hạn...” Ông nhìn lần lượt từng người trước mặt rồi gật đầu mệt mỏi. “Đó là từ chính xác nhất ta nghĩ ra được... kiêu kỳ. Nếu người ta nói về cô ấy, ‘Cô ta là hạng người phải có một chiếc xe hơi...’ Vậy đấy, nó có thể làm tiêu tan cơ hội kiếm chồng của cô ấy. Nó có thể kinh khủng và tàn nhẫn... ảnh hưởng mà cô bé phải hứng chịu ấy.”

Ông nhìn Britta, người đã gây được ấn tượng tốt với ông, và nói, “Con là người Thụy Điển. Con sẽ hiểu những gì ta nói.”

Gretchen hỏi bằng tiếng Pháp, “Thế thì không phải tại Yigal phải không ạ? Nó là tại con?”

“Nó là tại con.” Linh mục gật đầu. “Con đại diện cho một cách sống xa hoa. Con làm người ta e ngại, và nếu thanh niên vùng này nảy ra ý nghĩ Maria sẽ thành người như con... thôi được, nói một cách đơn giản là Maria sẽ không lấy được chồng.” Ông ngừng lời, thấm mồ hôi trên trán và nói tiếp với vẻ áy náy, “Các con không hiểu đâu. Nhưng ở chỗ chúng tôi mỗi cô gái chỉ có một cơ hội thôi.”

Gretchen không nén được cơn giận. “Cơ hội?” cô nhắc lại. “Cha định nói nếu cô ấy là một cô gái ngoan, đi chân không mười bốn dặm và chỉ có một bộ váy... cha định nói là may ra cô ấy sẽ được quyền sống như súc vật trong một căn phòng không có đồ đạc... cho đến hết đời sao?”

“Tôi định nói đúng như vậy đấy,” vị linh mục đáp.

“Sẽ tốt hơn nếu cô ấy lên xe đi cùng chúng con tới Lisboa, rồi để mọi sự muốn ra sao thì ra.”

“Tốt hơn đối với con, và với cô gái này,” nói đến đây linh mục đặt tay lên cánh tay Britta, “nhưng không tốt với Maria Concepcião. Cuộc sống của cô bé phải được định đoạt tại đây.”

Không ai lên tiếng, và một lúc sau linh mục đứng lên bắt tay từ biệt từng người. Ông nói với Gretchen đêm hôm nọ ông đã nghe cô chơi guitar và cô chơi rất hay, rồi ông thêm, “Nhưng tuần này, khi mẹ con Maria Concepcião đến, cứ để họ đứng yên trong bóng tối. Còn trong buổi khiêu vũ, chàng trai, con đừng bao giờ nhảy với cô ấy nữa, vì nếu làm thế, con sẽ làm cuộc đời cô ấy thay đổi không sao cứu vãn được.” Ông cúi chào rồi rời khỏi đó.

Đột nhiên xảy ra một việc không ai đoán trước được. Yigal chộp lấy họng Joe và nói một cách cay đắng, “Đồ lắm mồm.” Thế đấy, nếu có kiểu người nào mà Joe không phải thì đó chính là kẻ lắm mồm, vậy nên không ai hiểu ý Yigal,