Chương 4 TRƯƠNG BÂN
Hai năm học tiến sĩ nhanh chóng trôi qua. Trong hai năm này, tôi đã lần đầu tự xây dựng mô hình toán học của sét hòn.
Cao Ba là một giáo viên hướng dẫn xuất sắc, ông rất giỏi khơi dậy khả năng sáng tạo của học trò. Nỗi ám ảnh của ông về lý thuyết cũng cực đoan y như sự coi nhẹ thực nghiệm, trong trường hợp này, mô hình toán học của tôi trở thành một thứ phù phiếm hoàn toàn không có cơ sở thực nghiệm. Nhưng buổi bảo vệ luận văn vẫn suôn sẻ trôi qua, với ý kiến nhận xét: Lập luận mới lạ, thể hiện nền tảng toán học sâu sắc và kỹ năng thuần thục. Khuyết điểm lớn nhất của mô hình ở phương diện thực nghiệm cũng dẫn tới rất nhiều tranh cãi. Buổi bảo vệ kết thúc, một thầy giáo đã nhận xét thô lỗ, “Câu hỏi cuối cùng: Có bao nhiêu thiên sứ có thể đứng trên một đầu mũi kim?”, khiến cả hội trường cười rộ lên.
Trương Bân là một thành viên trong ban hội đồng, ông chỉ hỏi một câu hỏi phụ bâng quơ, không bày tỏ nhiều ý kiến. Hai năm này, tôi chưa dám hỏi ông về câu chuyện ở Thái Sơn, bản thân tôi cũng không rõ tại sao, chỉ là tôi có thể đoán trước được rằng điều đó sẽ bắt ông phải nói ra bí mật đã khiến ông tổn thương sâu sắc. Nhưng lúc này, tôi sắp ra trường rồi, cuối cùng không nhịn được mà vẫn muốn hỏi rõ câu chuyện.
Tôi tới nhà Trương Bân, kể cho ông nghe câu chuyện mà tôi đã nghe được ở Thái Sơn. Sau khi nghe xong, ông không nói gì cả, chỉ im lặng hút thuốc rồi nhìn chằm chằm xuống sàn nhà, hút hết điếu thuốc đó, ông nặng nề đứng lên rồi nói với tôi: “Em tới đây.” Sau đó, ông dẫn tôi qua một cánh cửa đang đóng chặt.
Trương Bân sống một mình trong căn nhà hai phòng ngủ. Cuộc sống hằng ngày của ông chỉ gói gọn trong một căn phòng, cánh cửa của căn phòng còn lại luôn được đóng chặt. Triệu Vũ kể với tôi rằng có lần, bạn học cũ từ tỉnh khác tới thăm, anh liền nghĩ đến nhà của thầy Trương nên hỏi ông xem có thể cho người bạn học của mình ở tạm một đêm không. Trương Bân nói không có chỗ. Ngày thường, tuy các mối quan hệ xã giao của ông cũng chẳng nhiều nhặn gì nhưng ông không phải kiểu người không thân thiện, vậy nên tôi và Triệu Vũ đều thấy căn phòng đóng chặt đó có gì đó khá thần bí.
Trương Bân mở cửa ra, thứ đầu tiên đập vào mắt tôi là một dãy thùng giấy chất cao ngất, đằng sau chúng vẫn còn mấy thùng giấy nữa, ngoài ra trong phòng không còn gì to hơn. Trên bức tường đối diện treo một bức ảnh đen trắng chụp một người phụ nữ đeo kính, người phụ nữ ấy có mái tóc ngắn hợp mốt thời đó và đôi mắt sau tròng kính rất có hồn.
“Người tôi yêu mất năm 1971.” Trương Bân chỉ vào bức ảnh và nói.
Tôi nhận thấy một điều rất lạ: Chủ nhân của căn phòng này rất chăm chút cho những bức ảnh xung quanh được giữ sạch sẽ, mấy thùng giấy kia cũng cách bức ảnh một khoảng cách nhất định, tạo thành một khoảng trống hình bán nguyệt trước nó. Nhưng ngay bên cạnh bức ảnh, có một cái đinh được đóng trên tường đang treo một cái áo mưa, loại áo mưa kiểu cũ phủ vải nhựa cao su, màu xanh thẫm, trông không hài hòa lắm.
“Em cũng biết rồi đấy, sau lần nhìn thấy sét hòn ở Thái Sơn, tôi đã bị ám ảnh; lúc đó, tôi vẫn còn là một sinh viên đại học, tâm trạng hoàn toàn giống em bây giờ nên cũng không cần kể nhiều nữa. Thời gian đầu, tôi tìm sét hòn trong mưa giông tự nhiên, đi tới rất nhiều nơi. Sau này tôi quen cô ấy, cũng chính sét hòn đã kết nối chúng tôi lại với nhau. Cô ấy là một nhà nghiên cứu đầy đam mê, chúng tôi gặp gỡ nhau trong một trận mưa giông lớn, sau đó cùng nhau tìm kiếm. Hồi ấy, điều kiện rất nghèo nàn, đa phần đều là đi bộ, buổi tối ở nhờ nhà dân địa phương, có khi còn phải tá túc trong những ngôi miếu đổ nát hay hang động qua đêm, thậm chí là ngủ ngoài trời. Tôi vẫn nhớ một lần, vì để quan sát một trận mưa giông mùa thu mà sau đó cả hai người chúng tôi cùng bị viêm phổi. Nơi đó hẻo lánh xa xôi, thiếu thốn y tế, cô ấy lâm bệnh nặng, suýt chút nữa đã mất mạng. Chúng tôi gặp sói, bị rắn độc cắn, bụng dạ lúc nào cũng đói meo là chuyện thường như ở huyện. Sét đánh sát sạt chúng tôi không chỉ một lần. Lần quan sát thực địa đó kéo dài mười năm; mười năm đó, chúng tôi đi qua không ít con đường, chịu khổ chịu rét, đối mặt với rất nhiều hiểm nguy, đếm cũng không đếm nổi nữa rồi. Và vì sự nghiệp của mình, chúng tôi quyết định không sinh con.
Chúng tôi ở ngoài hầu hết thời gian, nhưng vào những ngày cô ấy bận việc dạy hoặc nghiên cứu khoa học thì cũng có lúc tôi đi một mình. Có lần, tôi tới phương Nam, bị lạc vào căn cứ quân sự, thời ấy Cách mạng Văn hóa đang lên đến đỉnh điểm, bố mẹ tôi cũng từng đi du học ở Liên Xô, mọi người thấy tôi có máy ảnh và các dụng cụ quan trắc liền nghi ngờ tôi là gián điệp tình báo cho kẻ địch, giữ tôi lại hai năm. Hai năm ấy, cô ấy vẫn không ngừng ra ngoài tìm kiếm và quan trắc.
Tôi được nghe kể về lần cô ấy gặp nạn từ một người dân địa phương. Trong một trận mưa giông lớn, cô ấy đã gặp được sét hòn, cô chạy theo nó, lúc nhìn thấy nó sắp bay qua khe nước chảy xiết, trong lúc khẩn cấp, cô giơ dụng cụ thu sét của máy nam châm vĩnh cửu lên để chặn quả cầu. Sau chuyện đó, mọi người đều nói làm thế là vô nghĩa. Nhưng họ sao mà hiểu được, khi đó, cô ấy đã tìm được sét hòn sau mười năm ròng, vậy mà chỉ trong chớp mắt cơ hội quan sát đo đạc nó lại vụt mất đi. Cảm xúc của cô ấy lúc đó không ai hiểu được.”
“Tôi hiểu,” tôi nói.
“Theo lời của những nhân chứng từ xa, quả cầu lửa ấy đã biến mất sau khi bị hút vào dụng cụ thu sét, nó men theo dây dẫn xuyên qua máy nam châm vĩnh cửu rồi lại chui ra từ đầu khác. Cho đến thời điểm đó, cô ấy vẫn không sao cả, nhưng cuối cùng vẫn không thoát được: Quả cầu lửa ấy bay xung quanh rồi nổ tung trên đỉnh đầu cô ấy. Sau khi luồng chớp nổ, cô ấy biến mất. Những người đứng sau cô ấy chỉ nhìn thấy một chiếc áo mưa lành lặn rơi trên đất, dưới lớp áo mưa là một đống tro bụi màu trắng, sau đó, lớp bụi ấy cũng bị nước mưa rửa trôi. Xung quanh áo mưa là những dòng nước nhỏ màu trắng…”
Tôi quan sát chiếc áo mưa đó, tưởng tượng linh hồn trẻ trung nhưng cố chấp đang được bao bọc bên trong, nói với giọng trầm trầm: “Cô ấy như vậy cũng giống như một hoa tiêu chết trên biển lớn, một phi hành gia chết giữa không gian, cũng xem như một cái chết có ý nghĩa.”
Trương Bân chậm rãi gật đầu: “Tôi cũng nghĩ vậy.”
“Vậy còn máy thu nam châm vĩnh cửu kia thì sao ạ?”
“Còn nguyên vẹn, được đưa tới phòng thí nghiệm kịp thời để đo độ từ dư.”
“Là bao nhiêu ạ?” Tôi căng thẳng, đây là phép đo định lượng đầu tiên duy nhất trong lịch sử nghiên cứu sét hòn.
“0.”
“Gì cơ?”
“Không có từ dư.”
“Điều đó có nghĩa là không có dòng điện chạy qua dây dẫn thu sét, vậy thì nó được dẫn qua với hình dạng nào đây?”
Trương Bân xua tay: “Bí ẩn về sét hòn quá nhiều, tôi không muốn bàn sâu về nó ở đây. So với nhiều bí ẩn khác, đây chẳng được xem là gì cả. Bây giờ, tôi sẽ cho em xem một thứ khó tin hơn.” Nói đoạn, ông lấy ra một cuốn sổ bọc nhựa từ trong túi áo mưa, rồi lên tiếng: “Đây là thứ mà cô ấy đã để trong túi áo mưa khi qua đời.” Sau đó, ông cực kỳ cẩn thận đặt cuốn sổ tay lên trên thùng giấy, như thể nó là vật dễ vỡ. “Lúc lật thì nhớ nhẹ tay một chút.” Đó là một cuốn sổ rất đỗi bình thường, trên bìa là hình ảnh Thiên An Môn bị sờn và mờ đi một chút. Tôi nhẹ nhàng mở trang bìa ra, nhìn thấy dòng chữ duyên dáng ở trang tiêu đề đã ố vàng:
[Lối vào của khoa học cũng chính là lối vào của địa ngục. – Marx]
Tôi ngẩng đầu lên nhìn Trương Bân, ông ra hiệu cho tôi lật tiếp trang sau. Đây chính là lý do tại sao ông bảo tôi lật thật nhẹ nhàng: Trang này đã bị cháy đen hết cả, một phần đã biến thành tro rồi tứ tán mất. Tôi lật qua trang giấy đã cháy này, trang tiếp theo còn nguyên, ghi chép số liệu dày kín mít vẫn còn rất rõ ràng, giống như mới viết ngày hôm qua.
“Lật tiếp đi,” Trương Bân nói.
Trang thứ ba cháy đen thui.
Trang thứ tư còn nguyên vẹn.
Trang thứ năm cháy đen thui.
Trang thứ sáu còn nguyên vẹn.
Trang thứ bảy cháy đen thui.
Trang thứ tám còn nguyên vẹn.
…
Tôi lật từng trang, không có hai trang liên tiếp nào bị cháy và cũng không có hai trang liên tiếp nào còn nguyên vẹn. Những trang bị cháy chỉ sót lại một phần nhỏ dính sát vào gáy sổ, nhưng trang nguyên vẹn ngay sau trang bị cháy ấy thì không nhìn thấy bất cứ dấu vết bị đốt cháy nào. Tôi ngẩng đầu lên, ngây người nhìn Trương Bân.
Ông nói: “Em có thể tin được không? Tôi chưa từng đem cuốn sổ này cho bất kỳ ai khác xem, vì chắc chắn người ta sẽ cho đó là ngụy tạo.”
“Không đâu, thầy Trương, em tin mà!” Tôi vội vàng nói.
Tiếp đó, tôi kể về đêm sinh nhật đó của tôi cho người thứ hai.
Nghe xong, Trương Bân nói: “Trước kia, tôi đoán em cũng đã trải qua chuyện này, chỉ là không ngờ rằng nó kinh khủng đến thế. Em đã chứng kiến tất cả, lẽ ra em nên biết nghiên cứu sét hòn là một điều ngu ngốc đến cỡ nào.”
“Em không hiểu, tại sao vậy thầy?”
“Thực ra, tôi nhận ra điều này rất muộn. Hơn 30 năm nay, ngoài những lúc tìm sét hòn trong mưa giông, tôi dành rất nhiều tâm sức để nghiên cứu nó về mặt lý luận. Hơn 30 năm, tôi sẽ không kể quá trình, em tự mình xem đi.” Ông chỉ tay vào mấy thùng giấy xung quanh. Tôi mở một thùng giấy trong số đó, bên trong chất đầy những bản nháp tính toán.
Tôi rút ra hai bản, đọc các phương trình vi phân và ma trận nhằng nhịt, sau đó ngẩng lên nhìn hơn chục thùng giấy đang chất thành một bức tường thấp xung quanh. Khối lượng công việc mà ông làm trong hơn 30 năm khiến tôi há hốc miệng.
“Thầy đã làm gì trong phòng thí nghiệm chưa ạ?” Tôi hỏi.
“Không nhiều, bởi vì điều kiện hạn chế, dự án này cũng không nhận được nhiều kinh phí. Quan trọng hơn là trong những mô hình toán học này không có cái nào đáng để làm thí nghiệm cả! Chúng đều không thành công về mặt lý luận, luôn là tới bước cuối cùng em mới phát hiện mình đã sai ngay từ bước đầu tiên. Ngay cả khi làm ra được một mô hình toán học nhất quán về lý thuyết thì vẫn còn khuya mới tạo ra được sét hòn trong phòng thí nghiệm.”
“Thầy còn đang nghiên cứu dự án này không ạ?”
Trương Bân lắc đầu: “Đã dừng từ mấy năm trước rồi, thật trùng hợp đó chính là cái năm mà em lần đầu tới hỏi tôi về sét hòn. Đêm giao thừa năm ấy, tôi vẫn còn đang mắc kẹt trong những tính toán vô vọng, nghe thấy tiếng đồng hồ điểm năm mới vang lên, còn cả tiếng hoan hô của mấy cô cậu học trò, một nỗi buồn chưa từng có đã đè tôi xuống, chết chìm. Tôi lại tới đây, giống như những lần trước, lấy ra cuốn sổ đó từ túi áo mưa, cẩn thận lật từng trang một, và lúc ấy, tôi nhận ra một đạo lý.”
“Là gì vậy ạ?”
Ông cầm cuốn sổ lên, ôm vào ngực: “Nhìn cuốn sổ này, nhớ về đêm giông bão năm sinh nhật tuổi mười bốn của em, em thực sự cho rằng tất cả chuyện này đều nằm trong các định luật vật lý đang có sao?”
Tôi không nói thành lời.
“Chúng ta đều là những người bình thường. Mặc dù chúng ta đang vượt qua nỗ lực thông thường để tìm kiếm, nhưng cuối cùng vẫn là người thường mà thôi, chúng ta chỉ đang suy luận tiếp trong khuôn khổ do Newton, Einstein, Maxwell đặt ra, không đi ra nổi bãi mìn dù chỉ nửa bước. Nếu không thì sẽ giống như bước vào nơi hư ảo không có không khí. Nhưng từ khuôn khổ sẵn có, chúng ta cũng không thể suy luận ra được bất cứ thứ gì.”
Nghe xong những lời đó, tôi cảm thấy mình bị đánh gục như cái ngày đi trên con đường ở Thái Sơn.
Trương Bân nói tiếp: “Nhìn em, tôi thấy chính mình hồi còn trẻ, tôi đã dành nỗ lực lớn nhất để ngăn cản em đi trên con đường nguy hiểm này, nhưng biết là không có tác dụng gì. Em vẫn sẽ đi tiếp. Tôi chỉ muốn nói với em rằng tôi đã làm xong những gì tôi có thể rồi.” Nói xong, ông mệt mỏi ngồi lên một chiếc thùng.
“Thầy Trương, thầy cũng nên đánh giá chính xác về công việc của mình: Chúng ta ám ảnh một thứ gì đó, cố gắng hết sức mình, như vậy là đủ, đó cũng được gọi là thành công rồi,” tôi nói.
“Cảm ơn lời an ủi của em,” ông yếu đuối đáp lại.
“Em cũng tự nhủ với mình rằng khi bản thân tới tuổi của thầy thì cũng sẽ tự an ủi mình như vậy.”
Trương Bân chỉ vào mấy thùng giấy xếp xung quanh. “Những thứ này, và cả mấy cái đĩa kia, em cầm đi, có hứng thú thì mở ra xem, không thích thì bỏ đi. Chúng vốn cũng không có ý nghĩa gì cả… Còn có cuốn sổ này, em cũng cầm nốt đi, nhìn thấy nó là tôi khiếp sợ.”
“Em cảm ơn thầy!” Tôi nói, cổ họng nghẹn lại, sau đó chỉ vào bức ảnh treo trên tường: “Em có thể sao chép bức ảnh này không ạ?”
“Được, nhưng để làm gì?”
“Có lẽ sẽ có một ngày, chúng ta có thể cho thế giới biết rằng cô ấy là người đầu tiên trực tiếp làm các phép đo về sét hòn.”
Trương Bân cẩn thận gỡ bức ảnh trên tường xuống đưa cho tôi: “Cô ấy tên Trịnh Mẫn, tốt nghiệp khóa 63 khoa Vật Lý của Đại học Bắc Kinh.”
Ngày hôm sau, tôi chuyển mấy thùng giấy từ nhà của Trương Bân tới ký túc xá, căn phòng giờ đây chẳng khác nào một nhà kho. Mấy ngày này, tôi dành cả ngày lẫn đêm ngấu nghiến mấy thứ đó. Tôi giống như một người leo núi thiếu kinh nghiệm, kiệt sức khi leo tới một độ cao chưa ai đạt tới, nhưng khi nhìn bốn bề xung quanh, tôi lại thấy những chiếc lều do người đi trước để lại và dấu chân của họ tiếp tục dẫn ngược lên trên. Tới giờ, tôi đã đọc xong ba mô hình toán học do Trương Bân xây dựng, tất cả đều rất tinh vi, trong đó có một mô hình có ý tưởng giống với luận văn tiến sĩ của tôi, chỉ có điều nó hoàn thành trước tôi mười năm. Và điều làm tôi toát mồ hôi hột hơn cả là mấy trang cuối cùng của bản thảo, ông đã chỉ ra những sai lầm của mô hình này, điều mà tôi, Cao Ba và các giáo viên khác trong hội đồng không nhìn ra được. Nhưng thứ mà tôi thấy nhiều nhất vẫn là những mô hình toán học chưa hoàn thiện, trong quá trình xây dựng, Trương Bân đã phát hiện ra sai sót.
Tối nay, trong lúc tôi đang vùi đầu vào đống giấy tờ thì thầy Cao Ba tới tìm tôi. Ông nhìn núi giấy tờ chất đống, lắc đầu.
“Nghe tôi nói này, em muốn cả đời giống như ông ta hả?”
Tôi cười với ông, đáp: “Thầy Cao…”
Ông xua tay: “Tôi không còn là thầy của cậu nữa, có khi sau này còn là đồng nghiệp.”
“Vậy thì em càng dễ nói chuyện hơn rồi. Thực lòng mà nói, em chưa từng thấy một người nào tài năng như thầy. Không hề nịnh bợ đâu ạ, nhưng thứ lỗi cho em nói thẳng, em thấy thầy làm việc luôn thiếu sự kiên trì, ví dụ như bản CAD hệ thống chống sét cho các kiến trúc lần trước, một dự án tốt như vậy chỉ cần bỏ ra thêm chút công sức là đã có thể hoàn thành, vậy mà thầy lại ghét phiền phức nên đem cho người khác.”
“Ha ha, kiên trì như em, cả đời làm một việc mãi mãi không hợp với xu thế thời đại, trong khi thời đại ngày nay, ngoại trừ khoa học cơ bản, các ngành nghiên cứu khác đều nên bị dao sắc chặt đay rối. Lần này, tôi tới đây để chứng minh cho em thấy tôi thiếu kiên trì như thế nào, em còn nhớ lời tôi nói không? Nếu như luận văn của em không được thông qua, tôi sẽ từ chức.”
“Nhưng nó được thông qua rồi ạ.”
“Tôi vẫn sẽ từ chức. Ha ha, em thấy rồi đó, lời hứa này có bao phần là cái bẫy.”
“Sau này thầy đi đâu ạ?”
“Sở nghiên cứu sấm sét của Viện nghiên cứu Khoa học Khí quyển đã mời tôi tới làm sở trưởng. Tôi đã chán ngấy môi trường đại học rồi. Còn em, em đã có dự định gì sau này chưa? Cùng tôi qua đó đi!”
Tôi hứa với thầy rằng mình sẽ suy nghĩ về điều đó. Hai ngày sau, tôi đồng ý với thầy Cao Ba. Tôi không biết nhiều về nơi đó, nhưng trên tất cả, đó là cơ quan nghiên cứu sấm sét lớn nhất cả nước.
Hai đêm trước khi rời trường, khi tôi vẫn đang đọc những bản thảo tính toán đó thì nghe thấy có tiếng người gọi cửa. Đứng trước cửa là thầy Trương.
“Em chuẩn bị rời đi à?” Ông nhìn hành lý của tôi và hỏi.
“Vâng, hôm sau em sẽ đi. Nghe nói thầy đã về hưu ạ!”
Ông gật đầu: “Hôm qua, vừa làm xong thủ tục. Tôi cũng già rồi, chỉ muốn nghỉ ngơi thôi, sống đời này đã mệt lắm rồi.”
Ông ngồi xuống, tôi châm thuốc cho ông, ông im lặng một lúc rồi lên tiếng: “Tôi tới để nói với em một chuyện. Chuyện này chắc chỉ có em mới hiểu được. Em biết điều đau đớn nhất đời tôi là gì không?”
“Em hiểu, thưa thầy, muốn giải thoát khỏi mối tơ vò này quả thực rất khó, đã ba mươi năm rồi. Nhưng ba mươi năm của thầy không chỉ làm mỗi việc đó. Chưa kể, hơn trăm năm qua, những người dùng cả đời để nghiên cứu sét hòn cũng không ít, không ai trong số họ may mắn hơn thầy cả.”
Trương Bân lắc đầu cười: “Em hiểu sai rồi. Tôi đã trải qua nhiều việc hơn em rất nhiều, hiểu biết về khoa học và cuộc sống cũng sâu sắc hơn em, tôi không hề nuối tiếc ba mươi năm nghiên cứu, càng không cảm thấy đau khổ, đúng như em nói, tôi đã dành hết sức mình thì tại sao lại nghĩ không thông cho được?”
Vậy thì là gì? Tôi nghĩ tới những năm tháng ông sống một mình sau khi vợ mất…
Ông có vẻ nhìn ra suy nghĩ của tôi: “Cái chết của Trịnh Mẫn đã giáng một đòn chí tử lên tôi. Tôi nghĩ em cũng hiểu rằng những người như chúng ta, một khi tâm tư bị thứ gì đó chiếm đóng toàn bộ trong một thời gian dài rồi trở thành một phần trong cuộc sống, thì những việc khác trong cuộc sống sẽ chỉ chiếm vị trí thứ hai mà thôi.”
“Vậy còn có thể là gì nữa ạ?” Tôi không giải thích nổi.
Trương Bân cười gượng, lắc đầu: “Thật khó để mở miệng.” Ông rít một hơi thuốc dài. Tôi vẫn chưa hiểu gì cả, còn có việc nào khó nói ở đây nữa ư? Vì tôi và ông có mục tiêu chung, có chung suy nghĩ, nên tôi bất chợt nhận ra.
“Thầy từng nói rằng hơn ba mươi năm nay thầy vẫn không ngừng tìm kiếm sét hòn đúng không ạ?” Tôi hỏi.
Ông thở ra một làn khói dài: “Đúng vậy, sau khi Trịnh Mẫn chết, sức khỏe tôi ngày càng đi xuống, tật ở chân cũng trầm trọng hơn, ngày càng ít ra ngoài, nhưng vẫn không ngừng tìm kiếm, ít nhất chưa từng bỏ qua trận giông bão nào ở khu vực xung quanh.”
“Vậy là…” Tôi dừng lại, trong chốc lát, tôi cảm nhận được toàn bộ nỗi đau của ông.
“Đúng vậy, em đoán đúng rồi đấy, hơn ba mươi năm nay, tôi chưa từng thấy sét hòn.”
So với các hiện tượng tự nhiên bí ẩn khác, sét hòn không phải là quá hiếm, theo điều tra cho thấy, cứ 100 người thì có 1 người khẳng định đã nhìn thấy nó. Nhưng sự xuất hiện của nó không theo bất kỳ quy luật nào, rất ngẫu nhiên và tình cờ, hơn ba mươi năm miệt mài tìm kiếm trong giông bão nhưng chưa thấy thì đúng là chỉ có thể trách số phận quá nghiệt ngã.
Trương Bân kể tiếp: “Hồi còn nhỏ, tôi đã từng đọc một cuốn tiểu thuyết của Nga, kể về một ông chủ của một trang viên trù phú, có thủ vui duy nhất trong cuộc sống là rượu ngon. Một lần nọ, ông mua được một chai rượu ngon vớt từ con thuyền bị đắm cổ xưa của một lữ khách. Trong chai sót lại chút rượu, và sau khi ông ta uống nốt chỗ rượu đó thì thân tâm đều chìm đắm say mê. Lữ khách nói với ông rằng anh ta chỉ vớt được hai chai rượu như vậy trong con thuyền đắm đó, chai còn lại không biết đã trôi dạt tới phương nào. Ông chủ trang viên ban đầu không quan tâm, nhưng dư vị của chai rượu đó khiến ông thao thức ngày đêm, thậm chí ông còn bán cả trang trại và toàn bộ tài sản, chu du khắp đất trời để tìm kiếm chai rượu còn lại. Ông trải qua trăm ngàn đắng cay, đi khắp thế giới, từ ngày trẻ tới khi về già, cuối cùng cũng tìm thấy. Lúc này, ông chỉ còn là tay khất cái bệnh tật, ông uống cạn chai rượu rồi chết trong hạnh phúc.”
“Ông ấy thật may mắn,” tôi nói.
“Ở một khía cạnh nào đó, Trịnh Mẫn cũng là người may mắn.”
Tôi gật đầu, chìm đắm trong suy nghĩ.
Một lúc sau, Trương Bân nói: “Thế nào, đối với sự đau khổ mà tôi vừa nói, em vẫn còn giữ thái độ xa lánh đó sao?”
Tôi đứng dậy, đi đến cửa sổ trông ra khuôn viên bên ngoài tối om: “Không, thầy Trương, em không thể đứng xa ra được, cảm giác đó của thầy đối với em không phải đau khổ, mà là sợ hãi! Nếu thầy muốn em nhìn thấy con đường chúng ta đi có bao nhiêu nguy hiểm thì thầy đã làm được rồi.”
Đúng vậy, ông ấy đã làm được. Tôi có thể chịu đựng được tâm sức cả đời không vì thành tựu gì cả, tôi có thể chịu đựng để vứt bỏ tất cả, cô độc cả đời, thậm chí tôi có thể hy sinh cả tính mạng nếu cần, nhưng tôi không thể chịu nổi việc cả đời này không thể gặp lại nó! Chính lần đầu nhìn thấy nó đã định nghĩa lại cuộc đời tôi, chúng tôi không thể chịu đựng nổi nếu không gặp lại nó! Điều này có thể sẽ khiến người khác khó hiểu nhưng bạn có thể tưởng tượng rằng thủy thủ có thể chịu được việc cả đời không nhìn thấy biển không? Dân leo núi có thể chịu được việc cả đời không nhìn thấy núi tuyết không? Phi công có thể chịu được việc cả đời không thấy bầu trời xanh không?
“Có lẽ,” Trương Bân đứng dậy và nói. “Em có thể khiến chúng ta gặp lại nó lần nữa.”
Tôi mông lung nhìn ra ngoài cửa sổ: “Thầy Trương, em không biết nữa.”
“Nhưng đây là hy vọng cuối cùng trong đời tôi rồi. Tôi nên đi thôi, bức ảnh đó em sao lại xong chưa?”
Tôi sực tỉnh: “Vâng, xong rồi ạ, lẽ ra em đã trả lại sớm cho thầy, nhưng khi tháo ra em đã làm gãy khung nên em muốn mua một cái khung mới lắp vào, nhưng mấy ngày nay em không có thời gian để ra ngoài.”
“Không cần đâu, khung cũ là được rồi.” Ông cầm lấy bức ảnh, đoạn nói: “Mấy hôm nay, tôi luôn cảm thấy trong nhà thiếu đi thứ gì đó.”
Tôi quay lại trước cửa sổ, nhìn bóng dáng thầy hướng dẫn của mình biến mất vào màn đêm, đôi chân của ông khập khiễng hơn bình thường, mỗi bước đi đều rất khó khăn.