Chương 3 TỪ PHỨC TẠP ĐẾN PHỨC HỢP
Năm 1882, ở nơi cách Taylor và các công xưởng của ông nửa vòng trái đất, chính quyền Ottoman tại thành phố Damacus quyết định tiến hành cải tổ nền giáo dục. Tarek, một chàng trai nghèo khó, sùng đạo Hồi đã quyết tâm chống lại chương trình cải cách. Anh tiến đến khu quảng trường của thành phố, leo lên bục và bắt đầu bài phát biểu chống đối chính quyền gây rúng động. Liệu chính quyền có cần phải lo lắng về nhân vật này hay không? Có thể. Những người đứng đầu Đế quốc Ottoman hầu như không có thông tin gì về chàng trai này, bởi vì anh ta không có nhiều mối quan hệ và cũng chẳng liên minh với bất kỳ tổ chức đối địch nào của Đế quốc Ottoman.
Mặc dù không có nhiều thông tin về anh chàng Tarek, nhà cầm quyền có thể nhìn thấy trước: Số người đến nghe anh ta diễn thuyết rất ít ỏi, chỉ những người dân ngày thường có việc phải đi lại quanh khu vực anh ta đứng mới để ý tới màn biểu tình chống đối này. Hơn nữa, khu quảng trường nằm trong tầm kiểm soát của chính quyền. Nếu mọi việc trở nên khó kiểm soát hơn, họ có thể dừng mọi hoạt động ngay lập tức. Có thể họ sẽ bắt giữ anh ta, hoặc cứ để anh ta nói nốt những gì anh ta muốn nói rồi bỏ đi. Dù thế nào, họ cũng không hề nhìn thấy ở anh ta mảy may đe dọa nào đối với an ninh quốc gia.
Tua nhanh đến năm 2010 và bây giờ Tarek đang đứng trên phố Sidi Bouzid, Tusinia. Anh ta gào hét muốn vỡ phổi về tình trạng tham nhũng của cảnh sát địa phương. Nhưng chính quyền Tusinia ở thế kỷ XXI hiểu rất rõ về nhân vật Tarek này. Họ có thể truy cập và dò tìm theo những dấu vết mà Tarek đã để lại: Anh ta mua sắm ở đâu, thích mua mặt hàng nào, anh ta thường xem các trang web nào khi sử dụng Internet tại quán cà phê, anh ta kết bạn với ai trên Facebook, có theo tôn giáo hay quan điểm chính trị nào không? Chỉ với một cuộc điều tra đơn giản cùng chiếc máy vi tính gọn nhẹ, chính quyền Tusinia sẽ có được kết luận về Tarek rõ ràng hơn rất nhiều so với chính quyền Ottoman vào năm 1882. Nhưng vào thời điểm năm 2010, hành động của Tarek có ảnh hưởng lớn hơn rất nhiều so với những gì chính quyền cùng thời dự đoán, bởi vì anh ta đang sống trong một thế giới có tính phức hợp lớn hơn rất nhiều.
Nhân vật Tarek đầu tiên (thời Ottoman) chỉ là giả tưởng. Nhưng anh chàng bán hoa quả ở Tusinia mang tên Tarek al-Tayeb Mohamed Bouazizi là nhân vật có thật. Khi anh ta dùng xăng để tự thiêu, sự kiện đã lan nhanh ngoài tầm kiểm soát với tốc độ chóng mặt. Nhiều người biểu tình phản đối cái chết của anh và chính anh họ của Tarek đã dùng iPhone để ghi lại cảnh tượng tự thiêu. Chỉ trong vòng hai ngày đoạn ghi hình đã xuất hiện trên YouTube, cùng với hình ảnh Tarek đang chết dần trong ngọn lửa. Những cuộc biểu tình bùng phát. Hình ảnh của những người biểu tình tràn ngập trên Facebook. Người Ả rập ở khắp nơi nhìn thấy những người anh em Tunisia của mình diễu hành trên phố.
Không chỉ tờ Al Jazeera, cả tờ The New York Times và tờ The Guardian đều cử phóng viên tìm đến thị trấn Sidi Bouzid bé nhỏ. Chỉ trong vòng ba tháng, đế chế kéo dài suốt ba thập kỷ của Hosni Mubarak kết thúc ở nơi cách Thủ đô Cairo khoảng 2.253km, Muammar Gaddafi mất quyền kiểm soát đối với Libya sau bốn thập niên cầm quyền và toàn bộ đất nước Syria rơi vào cuộc nội chiến không thể kiểm soát.
Mặc dù có nhiều dữ liệu xã hội của các Tiểu vương quốc Ả rập và những cá thể như Tarek hơn bất kỳ thời đại nào trong lịch sử, nhưng không một chính phủ, công cụ tìm kiếm hay một nền tảng truyền thông xã hội nào có thể nhìn thấy trước hành động tự kết liễu bản thân của Tarek hay tầm ảnh hưởng do chính sự kiện ấy gây ra.
Hai câu chuyện về hai “phiên bản” Tarek minh họa cho sự mâu thuẫn giữa một bên là những tiến bộ công nghệ nhảy vọt diễn ra trong thế kỷ XX và một bên là khả năng dự đoán tương lai của con người về những điều sắp xảy ra dường như đang dần suy yếu. Mặc dù chúng ta biết nhiều hơn về nội hàm của thế giới, nhưng thế giới ấy, nhìn từ nhiều góc độ, đã trở nên khó lường hơn rất nhiều.
Nhưng sự thật là: Thế giới trở nên khó lường không phải vì công nghệ chưa đủ khả năng cho phép chúng ta dự đoán, mà chính vì công nghệ phát triển, thế giới mới trở nên khó đoán định như vậy. Sự phát triển về công nghệ trong những thập niên gần đây có rất nhiều khác biệt cơ bản so với những thay đổi trong thời đại của Taylor.
Chúng ta thường cho rằng nhờ có khả năng theo dõi, đánh giá và liên lạc với những người như Tarek ngày một tốt hơn, con người có thể cải thiện phương thức quản lý kiểu “bộ máy đồng hồ”. Thực tế hoàn toàn ngược lại: Chính những đổi thay về công nghệ đã sản sinh ra một môi trường về cơ bản là hoàn toàn khác biệt – một môi trường phức tạp, khó đoán định và làm suy yếu tính hiệu quả của những tổ chức vận hành theo cách thức của Taylor. Chính bởi những thay đổi này, “cỗ máy kỳ diệu” của Lực lượng Đặc nhiệm – đã từng đáp ứng mọi chỉ số thành công chuẩn mực của thế kỷ XX – nay đã chấp nhận thất bại.
Nếu hiểu được một cách chính xác điều gì đã thay đổi, vì sao những sự thay đổi đó lại làm giảm tính khả đoán, và chúng gây ảnh hưởng tới công tác quản lý như thế nào, chúng tôi sẽ cải thiện được một cách đáng kể năng lực giải quyết vấn đề. Và chúng tôi không phải là trường hợp duy nhất. Trong quá trình phân tích về sau này, chúng tôi nhận ra những hiện tượng mà mình từng chứng kiến trên chiến trận tại Iraq cũng có thể quan sát thấy trong rất nhiều lĩnh vực khác, từ khoa học nông nghiệp cho tới kinh tế.
SAO CHỔI VÀ FRÔNG LẠNH 16
[16] Frông lạnh được định nghĩa như là rìa phía trước của khối khí lạnh và khô hơn, đang chuyển động và thay thế dần (ở mức mặt đất) cho khối khí nóng hơn phía trước nó. Trên bản đồ thời tiết, frông lạnh được thể hiện bằng đường màu xanh lam với các tam giác có đỉnh hướng về phía di chuyển của frông. (Nguồn: Wikipedia) (BTV)
Để giải quyết vấn đề của hai “phiên bản” Tarek, chúng ta phải bắt đầu bằng câu chuyện về một nhà toán học và khí tượng học theo chủ nghĩa chiết trung công tác tại MIT vào năm 1961.
Edward Lorenz đã sử dụng những chiếc máy tính hàng đầu lúc bấy giờ để nghiên cứu thời tiết trong thời gian gần một năm. Thời tiết là một chủ thể “khó nhằn”. Chúng ta có thể tính toán một cách chính xác, trước hàng thập kỷ, về việc khi nào sao chổi Halley trở lại. Cũng đã từ rất lâu, khoa học tính toán được lịch thủy triều và nhật thực. Nhưng, thời tiết luôn là vấn đề khó nắm bắt. Lorenz hy vọng với công nghệ mới, ông có thể rút ra kết luận về khí hậu của Trái đất với độ chính xác cao. Ông mã hóa một phương trình trên máy tính để tạo ra các đồ họa thô sơ, minh họa cho các xu hướng mà dữ liệu thể hiện. Từ đó, ông hy vọng có thể rút ra một vài nguyên tắc nhất định.
Một hôm, Lorenz quyết định đi tắt một bước khi kiểm tra lại một phép mô phỏng. Thay vì cho máy tính chạy toàn bộ dữ liệu lại từ đầu (tốc độ máy vi tính vào thời đó chậm hơn bây giờ rất nhiều), ông chỉ giao cho nó làm một nửa nhiệm vụ. Ông tự nhập số liệu thủ công, sử dụng bản dữ liệu do chính ông in ra trước đó, để đảm bảo các điều kiện ban đầu là hoàn toàn chính xác. Sau đó, ông đi lấy cà phê trong khi chờ máy tính thực hiện tính toán để đưa ra dự đoán mới.
Theo lý thuyết, kết quả của lần chạy dữ liệu mới phải là kết quả sao chép chính xác bản dữ liệu trước, vì Lorenz không hề thay đổi bất kỳ dữ liệu nào và đã đích thân kiểm tra hai lần tất cả các thông số đầu vào. Nhưng khi nhìn lại kết quả của bản in lần hai, ông vô cùng sửng sốt: Có sự khác biệt rất lớn so với kết quả lần chạy trước; khi đặt hai bản in kết quả cạnh nhau, chúng giống như “hai kiểu thời tiết trong một chiếc mũ”.
Lorenz rà lại các kết quả, cố gắng tìm kiếm sai sót đâu đó trong cách đánh mã số hoặc lỗi từ máy vi tính. Sau hàng tuần trời phân tích, ông đã tìm ra thủ phạm. Không phải do máy móc hay do cách mã hóa mà chính là dữ liệu. Hai phép mô phỏng “giống hệt” nhau mà ông đã chạy trên máy tính thật ra có sự khác biệt rất nhỏ. Dãy số đầu tiên là kết quả chạy phương trình trên máy tính. Bộ nhớ của máy tính lưu lại sáu chữ số ở phần thập phân với bất kỳ giá trị nào, nhưng khi Lorenz nhập dãy số lần thứ hai, ông đã sử dụng dữ liệu từ bản in của lần chạy máy đầu tiên, và bản in này chỉ thể hiện ba chữ số ở phần thập phân. Ông không nhìn thấy trước vấn đề khi tự nhập dãy số gồm kết quả làm tròn của lần chạy phương trình đầu tiên, và đinh ninh rằng sự khác biệt giữa 0,506127 và 0,056 là không đáng kể.
Trong một thế giới mà mọi thứ đều vận hành chính xác như bộ máy đồng hồ, sẽ không tồn tại sự khác biệt đáng kể giữa hai kết quả nói trên. Những phép toán được sử dụng để dự đoán thành công các hiện tượng nhật thực, thủy triều và sao chổi có phương thức hoạt động rất rõ ràng; nếu tồn tại một lỗi sai nhỏ trong thông tin đầu vào, hệ quả cũng chỉ là một chút sai lệch trong kết quả dự đoán – họ có thể ước tính thời gian nhật thực xảy ra sớm hoặc trễ hơn vài phút.
Nhưng thời tiết là một phạm trù hoàn toàn khác. Lỗi “làm tròn” nho nhỏ của Lorenz xảy ra trong một môi trường mà các yếu tố bên trong nó phụ thuộc lẫn nhau và dễ biến đổi – hoàn toàn khác với môi trường chân không của sao chổi Halley. Những xoáy lốc không khí nhỏ xíu cũng có thể bị ảnh hưởng bởi những sự kiện nhỏ tới mức hầu như không thể đo lường được – ví dụ như cú đập cánh của một chú bướm – và những xoáy lốc đó sẽ tiếp tục tác động tới những dòng chuyển động lớn hơn – rồi đến phiên những chủ thể này lại tiếp tục làm thay đổi ranh giới nóng và lạnh của các khối không khí. Cứ như vậy, một chuỗi các sự kiện luân phiên nhau tiếp tục phóng đại những xáo trộn ban đầu theo cấp số nhân, và đánh bại tất cả những nỗ lực nhằm đưa ra dự đoán đáng tin cậy. Chương trình trên máy tính của Lorenz đã cho ra kết quả đúng.
Một vài năm sau, Lorenz có bài trình bày về phát hiện này của ông, với tựa đề “Liệu một chú bướm đập cánh ở Brazil có thể gây ra hiện tượng lốc xoáy ở Texas?” Cụm từ “hiệu ứng cánh bướm” xuất hiện từ đó 17 .
[17] Mọi người vẫn cho rằng thuật ngữ “hiệu ứng cánh bướm” xuất hiện lần đầu trong truyện ngắn A Sound of Thunder (Sấm rền) của Ray Bradbury xuất bản năm 1982. Sự thật không phải như vậy. Tuy nhiên, truyện ngắn này kể về một hiện tượng tương tự như hiệu ứng cánh bướm. Trong truyện, con người trong một tương lai gần đã sử dụng cỗ máy thời gian, trở về quá khứ hàng nghìn năm trước để săn khủng long. Nhưng cánh thợ săn không được mang con mồi trở về thế kỷ XX, thậm chí họ cũng không được phép giẫm chân trên nền đất của thời tiền sử trong cuộc săn (thay vào đó, họ phải dựng một lối đi nổi), bởi vì mọi sự va chạm với quá khứ, dù là rất nhẹ, cũng sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới hiện tại. Nhưng một thợ săn đã đi sai nhịp và trượt chân. Anh ta bước chệch ra khỏi lối đi do đoàn dựng nên, và giẫm nát một chú bướm, trước khi quay trở lại được lối đi nổi. Khi anh thợ săn và người dẫn đường trở về thời điểm hiện tại, “đã có một sự việc xảy ra trong không gian, một sự chuyển biến hóa học rất mong manh, rất nhẹ, đến nỗi người thợ săn chỉ có thể nhận ra sự thay đổi nhờ vào một sự rung động đến từ tiềm thức của chính anh.” Xã hội đã sử dụng một thứ ngôn ngữ khác, tổng thống cũng là một người khác. Cái chết của một chú bướm, được sắp xếp lại và phóng đại bởi các phân tử thay đổi tồn tại trong hệ sinh thái, dẫn tới những đổi thay to lớn trong xã hội. (TG)
Hiệu ứng cánh bướm của Lorenz là một sự diễn giải vật lý về “tính phức hợp”, nhưng không phải theo nghĩa mà chúng ta vẫn hay dùng trong cuộc sống thường ngày để miêu tả những thứ không đơn giản hay dễ hiểu. Thay vào đó, chúng ta phải hiểu khái niệm “phức hợp” theo nghĩa hẹp, nặng tính kỹ thuật và khó nắm bắt hơn rất nhiều. Tính “phức hợp” rất khó định nghĩa; những người nghiên cứu về tính phức hợp thường dựa vào bình luận của vị chánh án Tòa án Tối cao – Potter Steward – khi ông này nhận xét về yếu tố khiêu dâm: “Tôi biết khi tôi nhìn thấy nó.” Những chủ thể phức hợp – bao gồm các cơ thể sống, toàn bộ hệ sinh thái, các nền kinh tế quốc gia – tất thảy đều chứa đựng một hệ thống các yếu tố đa dạng, có mối liên kết và thường xuyên tương tác với nhau. Chính bởi các mối liên kết dày đặc này, các hệ thống phức hợp có thể biến động cực mạnh và khó dự đoán.
Trong trường hợp chủ thể là thời tiết, một rối loạn nhỏ xảy ra tại một điểm có thể gây ra một loạt phản ứng dây chuyền, dẫn tới những hệ quả nghiêm trọng khôn lường xảy ra ở một địa điểm khác, bởi vì trong hệ thống luôn tồn tại hàng tỉ những tương tác rất nhỏ, kết nối nguyên nhân và hậu quả. Trong một hệ sinh thái, một chủng virus biến đổi có thể lan nhanh như đám cháy, hủy diệt con người, và tiếp tục tàn phá thông qua chuỗi thức ăn, làm biến đổi trật tự sinh học tại vùng đất có dịch. Khi một ngân hàng sụp đổ, nó có thể không gây ảnh hưởng gì tới nền kinh tế, nhưng nó cũng có thể kéo theo sự thất bại hàng loạt trong toàn bộ hệ thống.
Tính “phức hợp” khác với “phức tạp”. Những thứ phức tạp có thể có nhiều phần, nhưng chúng liên quan đến nhau, phần này nối với phần khác, theo những cách khá đơn giản: Một bánh răng chuyển động sẽ kéo theo sự chuyển động của những bánh răng khác. Động cơ đốt trong chẳng hạn, vận hành nó là một việc không hề đơn giản, nhưng xét cho cùng, chúng ta có thể phân tách động cơ thành những phần riêng biệt, xác định được; cuối cùng, bạn có thể dự đoán với sự chắc chắn tương đối lớn rằng chuyện gì sẽ xảy ra nếu bạn kích hoạt hoặc thay đổi một phần của thiết bị đó.
Ngược lại, sự “phức hợp” xảy ra khi số lượng các tương tác giữa các thành phần tăng nhanh một cách đáng kể – tính phụ thuộc lẫn nhau khiến virus lây lan và ngân hàng phá sản hàng loạt; đây chính là điểm mấu chốt khiến sự việc trở nên khó đoán. Hãy nghĩ tới cú break trong trò chơi bi-da – cú đánh thành công liên tiếp với một chuỗi các bi màu mục tiêu đầu tiên và bi cái màu trắng. Mặc dù chỉ có 16 quả bóng (bi) trên bàn và cơ chế tương tác vật lý giữa chúng rất đơn giản, chúng ta hầu như không thể dự đoán khi nào cuộc chơi sẽ kết thúc. Trong một thế giới hoàn hảo, với một bàn chơi bằng phẳng đến bất khả thi, những quả bóng trông y hệt nhau cùng chui xuống túi lưới, và cơ thủ có thể đánh chính xác tới một phần triệu của 1o nghiêng, một chiếc máy tính có thể dự đoán khi nào những quả bóng chuyển động chậm dần và dừng lại. Tuy nhiên, chỉ cần có sự thay đổi với biến số dù là nhỏ nhất trong đường đi của một quả bóng X, những quả bóng tiếp theo bị bóng X va phải sẽ di chuyển chệch quỹ đạo đã được tính toán, và cả những quả bóng khác cũng sẽ tiếp tục chịu va chạm. Khi có mật độ tương tác lớn, thậm chí một số lượng nhỏ các nguyên tố cũng có thể làm suy giảm khả năng dự đoán một cách nhanh chóng.
Chính bởi mật độ tương tác dày đặc, những hệ thống phức hợp thể hiện các thay đổi phi tuyến tính. Các hiện tượng tuyến tính sẽ có kết quả đầu ra tỷ lệ tương ứng với dữ liệu đầu vào: Bạn đầu tư 100 hay 200 đô la vào cổ phiếu và nhận giá trị thu về bằng 5% trong vòng năm năm, nếu bạn nhân đôi số vốn đầu tư ban đầu, bạn sẽ có tổng số tiền thu về tăng gấp đôi, từ 5 thành 10 đô la. Kết quả đầu ra sẽ thay đổi theo tỷ lệ tương ứng với dữ liệu đầu vào. Cách một hệ thống hữu tuyến vận hành có thể minh họa bằng công thức: y = 1,05x. Trí não của chúng ta luôn cảm thấy thoải mái với những hàm tuyến tính. Ngược lại, các hàm phi tuyến tính sẽ khiến chúng ta cảm thấy không thoải mái. Chúng xuất hiện dưới rất nhiều dạng thức, bao gồm cả những hàm mũ như y = 5x, và nhanh chóng làm suy giảm khả năng hiểu biết tự nhiên của chúng ta về tăng trưởng và tỷ lệ. Những khác biệt về dữ liệu ban đầu hay điều chỉnh tăng hoặc giảm số mũ x dù rất ít cũng sẽ gây ra những thay đổi rất lớn. Khi đầu tư tiền bạc vào thị trường chứng khoán đầy rủi ro, chúng ta đang bước vào một hệ thống phức hợp, không thể dự đoán, nơi chỉ cần một thông tin hay một tay môi giới lừa đảo cũng có thể khiến thị trường chứng khoán xuống đáy, nhảy vọt, hoặc đứng yên.
Để hình dung cách những tình huống phi tuyến tính phát triển theo đường xoắn ốc, vượt ra ngoài khả năng hiểu biết hoặc dự đoán của chúng ta, hãy nghĩ tới một ván cờ vua: Cờ vua có luật chơi và giới hạn đối với việc di chuyển các quân cờ. Nhưng các nước đi sẽ gây ảnh hưởng lẫn nhau, việc di chuyển một quân cờ có thể thay đổi mối quan hệ giữa nó và nước đi của những quân cờ khác. Jonathan Schaeffer đã tính ra một kỳ thủ có thể thực hiện hai nước đi đầu tiên theo 197.742 cách. Khi thực hiện nước đi thứ ba, số lượng các phương án tăng lên 121 triệu nước đi. Chỉ trong vòng 20 nước cờ, khả năng rất cao là bạn đang chơi một ván cờ mà trước đó chưa từng có ai chơi qua.
Không ai biết chính xác có tất cả bao nhiêu ván cờ vua, bởi vì theo Schaeffer, con số “lớn tới mức không ai lại đi đầu tư công sức để tính ra đáp án chính xác”. Một sự thay đổi rất nhỏ khi bắt đầu ván cờ vua, ví dụ như di chuyển quân cờ tới ô A3 thay vì A4 – có thể dẫn tới một kết quả hoàn toàn khác, cũng giống như cú đập cánh của chú bướm trong giả thuyết của Lorenz có thể gây ra một mối nguy khủng khiếp, phi tuyến tính ở điểm cuối của chuỗi phản ứng. Một chiếc thẻ hướng dẫn theo lối tư duy đơn giản hóa sẽ không có tác dụng khi chơi cờ vua bởi vì yếu tố tương tác đã sản sinh ra quá nhiều khả năng.
Tuy nhiên, ý nghĩa quan trọng trong hiệu ứng cánh bướm của Lorenz không nằm ở việc sự phát triển leo thang phi tuyến tính của một chi tiết đầu vào rất nhỏ lại cho ra một kết quả đầu ra lớn. Ở đây có sự tham gia của yếu tố không chắc chắn; sự khuếch đại của tình trạng hỗn loạn không phải là sản phẩm của một yếu tố khuếch đại đơn nhất, bất biến, có thể nhận diện được – bất kỳ số lượng yếu tố đầu vào nhỏ nhặt nào đều có thể – hoặc không thể – tạo ra sự phát triển phi tuyến tính. Nếu như mọi cú đập cánh của loài bướm đều dẫn tới một cơn lốc xoáy ở nơi cách nó nửa vòng trái đất vào hai ngày sau đó, thì chúng ta lại có thể dự đoán thời tiết dễ dàng hơn (nếu chuyện đáng sợ ấy thực sự xảy ra).
Một cú đập cánh của con bướm chỉ có thể tạo ra một cơn bão nếu như hàng nghìn những điều kiện rất nhỏ khác là phù hợp. Và những điều kiện đó chính xác đến mức vượt quá khả năng đo đạc của chúng ta, dẫn tới việc không thể dự đoán được kết quả.
Theo quan điểm về tính hiệu quả của Taylor, hiểu biết về những điều kiện ban đầu và động lực bên trong của một hệ thống sẽ giúp nhà quản lý đạt được kết quả mong muốn. Nhưng trong một hệ thống phức hợp với những mối liên kết dày đặc (kể cả trong một thế giới tưởng chừng vận hành chính xác như một ván đấu cờ vua), một người chỉ có thể đưa ra các dự đoán dài hạn, đáng tin cậy khi anh ta có trong tay một bộ dữ liệu hoàn hảo tới mức bất khả thi. Những sự kiện xảy ra trong một hệ thống phức hợp đều có nguyên nhân, nhưng chính bởi có quá nhiều nguyên nhân và sự kiện liên kết với nhau theo rất nhiều cách cả trực tiếp và gián tiếp, việc dự đoán kết quả trở thành nhiệm vụ bất khả thi, mặc dù theo lý thuyết chúng ta có thể xác định được.
Như Lorenz đã giải thích: “Nếu như một cú đập cánh nhẹ có thể dẫn tới một cơn lốc xoáy vốn sẽ không xảy ra trong các điều kiện khác, thì nó cũng có thể ngăn chặn cơn lốc xoáy vốn có thể sẽ hình thành trong các điều kiện khác”. Trong câu chuyện của ông, thời tiết thay đổi phụ thuộc vào vô số những biến số phụ thuộc lẫn nhau, và cùng với cú đập cánh của chú bướm – tất cả các điều kiện sẽ tương tác với nhau bằng cách gián tiếp hay trực tiếp. Kết quả là, so với những sự kiện khác ví dụ như đường đi của sao chổi, diễn biến của thời tiết có những khả năng đa dạng hơn rất nhiều.
Trong văn hóa đại chúng, cụm từ “hiệu ứng cánh bướm” hầu như luôn bị sử dụng sai. Nó thường được hiểu với ý nghĩa “đòn bẩy” – cho rằng những điều rất nhỏ cũng có thể tạo ra tác động lớn, với ngụ ý nỗ lực ban đầu giống như một chiếc đòn bẩy, có thể tăng lên gấp nhiều lần để đạt được kết quả mong muốn. Cách giải thích này đã làm mất đi ý nghĩa quan trọng trong phát hiện của Lorenz. Sự thật là những yếu tố rất nhỏ trong một hệ thống phức hợp có thể không có bất kỳ ảnh hưởng nào hoặc tạo ra những tác động cực lớn, và việc kết quả cuối cùng sẽ nghiêng về phía nào gần như là bất khả tri.
Số lượng quá lớn các khả năng này là một cú đấm mạnh đối với những người tin vào quan điểm “bộ máy đồng hồ”. Trong Lực lượng Đặc nhiệm, cũng như trong hầu hết các tổ chức lớn khác, chúng tôi hành động sau khi đã trải qua quá trình lập kế hoạch, và kế hoạch luôn dựa trên khả năng dự đoán. (Hay nói một cách chính xác hơn, dựa trên nhận thức của chúng tôi về khả năng dự đoán của bản thân, tức niềm tin rằng chúng tôi hiểu “bộ máy đồng hồ” vận hành như thế nào.)
Nhưng đến năm 2004, cuộc chiến mà chúng tôi tham dự đã phát triển khó lường như frông lạnh, thay vì đi theo quỹ đạo ổn định của sao chổi Halley. Công nghệ thông tin đã giúp những cá nhân như Tarek có thể liên kết chặt chẽ với hàng triệu người khác. Các sự kiện và yếu tố không chỉ có mối liên kết lẫn nhau mạnh mẽ hơn so với những cuộc chiến trước đó, mà còn diễn ra với tốc độ lớn hơn. Môi trường không chỉ phức tạp mà đã trở nên phức hợp.
NHỮNG CƠN LỐC XOÁY KHÔNG THỂ KIỂM SOÁT TRONG THỜI ĐẠI CỦA EMMYLOUCháu gái của tôi, Emmylou, ra đời ngày 4 tháng Sáu năm 2014. Nó lớn lên trong một thế giới mà thông tin được truyền phát đi gần như ngay lập lức và tốc độ vận chuyển con người, hàng hóa và dịch vụ là vô cùng lớn. Nó là “công dân kỹ thuật số” trong khi tôi cố gắng lắm cũng chỉ có thể là một công dân Mỹ có tấm thẻ xanh. Tôi không biết con bé sẽ đón nhận sự khác biệt giữa những thứ ảo và thật như thế nào, nhưng tôi biết con bé sẽ phân biệt được những khái niệm này nhanh và tinh tường hơn những thế hệ trước rất nhiều. Các liên kết xã hội trong thế giới của con bé được tạo ra bởi truyền thông xã hội – và chúng ta đến bây giờ vẫn chưa nhìn thấu những hệ quả của truyền thông xã hội. Thế giới của Emmylou là thế giới mà 20 năm trước đây, nhiều người còn chưa hình dung ra.
Các sản phẩm, sự kiện, quốc gia, hiện tượng và cá nhân được kết nối, phụ thuộc và ảnh hưởng lẫn nhau rõ ràng hơn bất kỳ thời điểm nào trong lịch sử. Chẳng hạn, việc lắp ráp chiếc máy bay 787 Dreamliner của hãng Boeing đòi hỏi phải huy động hơn 1.000 nhân công của hãng tại nhà máy ở Everett, Washington. Nhưng nó lại phụ thuộc vào cánh máy bay sản xuất tại Nagoya, Nhật Bản; cánh đuôi ngang đến từ Foggia, Ý; khoang hàng và cửa ra vào từ Thụy Điển; đầu cánh máy bay đến từ Hàn Quốc, và động cơ cất cánh từ Gloucester, Anh. Phần lớn những sản phẩm mà chúng ta mua và sử dụng, giống như chiếc máy bay Dreamliner, đều là kết quả cuối cùng của một mạng lưới các nguồn lực rất rộng lớn.
Quy trình sản xuất các sản phẩm vật chất đòi hỏi tính phụ thuộc lẫn nhau ngày càng cao; nhưng vẫn không là gì so với những bước nhảy vọt trong mức độ kết nối trong môi trường số mà chúng ta được chứng kiến trong những năm gần đây. Sự ra đời của các chiến dịch gây quỹ cộng đồng (crowd-funding), những xu hướng lan nhanh trên mạng và các hệ thống thanh toán di động đã khẳng định rằng sự lan tỏa của công nghệ đã đưa hầu hết chúng ta vào một mạng lưới liên kết rộng lớn hơn rất nhiều so với một, hai thập kỷ trước.
Tại Iraq, chúng tôi chứng kiến sự phát triển của tính phụ thuộc lẫn nhau này diễn ra mỗi ngày. Khi một chiến dịch diễn ra tại một thành phố, nó có thể hầu như ngay lập tức dẫn tới một chuỗi các hành động đáp trả của AQI và phản ứng của người dân khắp cả nước. Một tin đồn dù là nhỏ nhất – có thể đúng, có thể sai – cũng lan nhanh trên các diễn đàn trực tuyến như đám cháy.
Đồng thời, hầu hết các quy trình đã trở nên nhanh hơn rất nhiều. Việc kéo dài thêm thời gian, dù không đáng kể, cũng dẫn tới sự khác biệt trong quyết định thành hay bại. Không chỉ Lực lượng Đặc nhiệm mới gặp thách thức trong việc cập nhật đầy đủ thông tin với tốc độ ngày càng tăng nhanh, đây là thách thức chung đối với mọi tổ chức, đặc biệt là những cơ quan hoạt động trong lĩnh vực thông tin. Cách đây một thế kỷ, phóng viên của các tòa soạn sẽ viết bài về những chủ đề được giao, biên tập viên xét duyệt tin bài và tổng biên tập rà soát lại sản phẩm cuối cùng trước khi gửi đi in. Tin nóng chỉ cần đưa trước một ngày trước các tờ báo cạnh tranh khác. Tua nhanh tới ngày 17 tháng Ba năm 2014, khi tờ Los Angeles Times là cơ quan đầu tiên đưa tin về một trận động đất xảy ra gần đó. Vũ khí của họ là gì? Bài báo của họ được viết bởi một cỗ máy – một chương trình máy tính có thể quét các luồng dữ liệu, ví dụ dữ liệu từ cuộc Khảo sát Địa lý của Mỹ, và tổng hợp thành những mẩu tin ngắn. Nó thực hiện công việc này nhanh hơn mọi dây chuyền sản xuất thông tin trong các phòng thời sự. Phần mềm này chỉ giúp tờ báo có được thông tin nhanh hơn những cơ quan báo chí khác chừng vài phút, nhưng trong thời đại ngày nay, vài phút ngắn ngủi có ý nghĩa vô cùng to lớn.
Tại New York, những tay môi giới bất động sản tính một khoản phí cao hơn cho những khu bất động sản tài chính giúp nhà giao dịch ở gần vị trí các máy chủ hơn, vì việc này cho phép họ cắt bớt được vài phần triệu giây trong các giao dịch diễn ra với tốc độ ngang bằng vận tốc ánh sáng. Với lý do tương tự, một nhóm các hãng giao dịch của Mỹ và châu Âu gần đây đã chi 300 triệu đô la cho việc lắp đặt đường dây cáp xuyên Đại Tây Dương để giảm thời gian giao dịch khoảng 5,2 mili giây. Một chủ ngân hàng trẻ đã giải thích rất ngắn gọn lý do vì sao họ phải đầu tư lớn đến vậy để đạt được những lợi thế tưởng chừng rất nhỏ: “Tốc độ là tiền bạc.”
Tốc độ luôn có ý nghĩa quan trọng với quân đội, nhưng trong phần lớn lịch sử nhân loại, tốc độ thường giới hạn ở khả năng của người và ngựa. Người La Mã xây những con đường tốt nhất để hỗ trợ việc đi lại, nhưng ngay cả đội quân thiện chiến nhất cũng chỉ có thể di chuyển tối đa 32,2km một ngày. Trong suốt thời gian nội chiến, đội quân của Đại tướng phe liên minh Thomas Jonathan “Stonewall” Jackson được mệnh danh là “kỵ binh đường bộ” sau khi họ đi được 1.039km trong 48 ngày, nhưng mỗi giờ họ cũng chỉ đi được hơn 9,7km, và đó là kết quả của một cuộc thao luyện bắt buộc trong thời gian giới hạn 18 . Trong thế kỷ XX, ô tô, xe tăng, máy bay, phi cơ và tên lửa đã cùng góp phần thay đổi tốc độ chiến đấu một cách đáng kể, nhưng hệ thống lưu trữ thông tin dùng hệ nhị phân của thời đại kỹ thuật số vẫn đi nhanh hơn một bước.
[18] Một người bình thường (không mang theo vũ khí và quân trang) có tốc độ đi bộ trung bình là 4,8km/h. Một người lính diễu binh với tốc độ 9,7km/h (10 phút đi được khoảng 1,6km) – đây là tốc độ không phổ biến, khó thực hiện và khó duy trì được lâu. (TG)
Khi chúng ta đọc thông tin về công nghệ mới hoặc nghe những lời hứa hẹn về một thế giới toàn cầu hóa, liên kết lẫn nhau, chúng ta có xu hướng cho rằng tiến bộ công nghệ sẽ giúp con người thực hiện tốt hơn những việc mà chúng ta đang làm. Nhưng một đồng xu luôn có hai mặt phải và trái. Công nghệ mang đến cho những tổ chức như Lực lượng Đặc nhiệm khả năng vượt trội về vận tải, thông tin liên lạc và dữ liệu; nhưng đồng thời, chính chúng cũng tạo ra các ảnh hưởng phi tuyến tính lên môi trường hoạt động của chúng tôi, khiến môi trường ngày càng trở nên phức hợp và bất định hơn. Tốc độ và sự phụ thuộc lẫn nhau khiến cho bất kỳ hành động nào dù xảy ra trong bất kỳ khung giờ nào đều có thể kéo theo rất nhiều những vấn đề tiềm ẩn – hơn rất nhiều so với chính hành động ấy nếu được thực hiện một thế kỷ trước, hay thậm chí chỉ vài thập niên trước: Nếu trước đây, vấn đề chỉ giống như ván đấu bi-da với hai hay ba bóng, thì bây giờ đã trở thành hàng trăm sự va chạm lẫn nhau giữa những trái bóng.
Boeing có thể tăng hiệu quả khi đưa quy trình sản xuất ra nước ngoài, nhưng điều đó cũng có nghĩa rằng tất cả những sự kiện xảy ra ở hàng chục quốc gia trên ba châu lục đều có khả năng gây ảnh hưởng tới hoạt động của công ty. Việc lắp ráp thành công một chiếc máy bay giờ đây không chỉ phụ thuộc vào một vài nhà máy liên kết với nhau, mà cần tới sự phối hợp an toàn xuyên đại dương: Điều kiện an toàn lao động tại Nhật Bản, Thụy Điển không xảy ra thảm họa thiên nhiên, tỷ giá hối đoái ổn định và phương pháp quản lý chuỗi cung ứng linh hoạt.
Tại Iraq, chúng tôi phải đối mặt với kiểu gây ảnh hưởng chưa từng có tiền lệ. Một chiến dịch diễn ra ở đầu này có thể kích hoạt phản ứng của một yếu tố nằm tại đầu kia của đất nước, trong khi chúng tôi thậm chí còn không biết đến sự tồn tại của yếu tố đó. Chỉ cần chúng tôi đi sai một bước hay chỉ cần AQI có một sản phẩm tuyên truyền tốt cũng có thể khiến truyền thông xã hội rúng động và rơi vào tình trạng hỗn loạn chỉ trong vài giờ. Chỉ cần xuất hiện đoạn phim về một cuộc tấn công của quân đội, số lượng lính tuyển mộ sẽ tăng vọt ngay sau đó, các bè phái lập tức trả thù, và những sự kiện như thế xảy ra hầu như mỗi ngày.
Trong thực tế, những diễn biến trong những năm gần đây đã dẫn tới một thế giới hoàn toàn khác và trở nên khó dự đoán hơn. Chính bởi tốc độ và tính chất phụ thuộc lẫn nhau này mà một người bán hàng rong trên phố như Tarek al-Tayeb Mohammend Bouazizi có thể khởi đầu một chuỗi các sự kiện làm rung chuyển nhiều chính phủ, nhanh hơn cả tốc độ phần còn lại của thế giới đón nhận tin tức về chính sự kiện này. Tất nhiên, đã từng có những cuộc cách mạng và hiện tượng hiệu ứng cánh bướm diễn ra thành công trước cả kỷ nguyên thông tin, nhưng chính công nghệ mới đã tạo ra sự bùng nổ cơ hội vô tiền khoáng hậu, đặc biệt là đối với những nhân tố nhỏ bé, trước đó không hề có khả năng kết nối để có thể tạo ra hiệu ứng cánh bướm.
Một vài hiện tượng rất tốt, ví như thành công của các công ty khởi nghiệp, nhưng cũng có cả những thảm họa như khủng bố, bạo động leo thang và tội phạm công nghệ đã tranh thủ lợi thế về tốc độ và tính phụ thuộc để gây ra chết chóc và phá hoại. Nhưng tất cả các hiện tượng này đều thể hiện tính chất khó lường – cũng chính là gốc rễ của sự phức tạp. Ngày nay, tất cả chúng ta đều bị bủa vây bởi những cơn lốc xoáy. Trong Lực lượng Đặc nhiệm, chúng tôi chứng kiến hiện tượng nổi dậy khắp nơi như hiệu ứng quả cầu tuyết, nhưng hiện tượng này không chỉ xảy ra trong cuộc chiến mà trong tất cả mọi lĩnh vực.
Năm 2013, khi tin tặc xâm nhập vào tài khoản Twitter của hãng thông tấn AP (Associated Press) và gửi đi thông điệp tuyên bố đã xảy ra hai vụ đánh bom tại Nhà Trắng và Tổng thống Obama bị thương, thị trường Dow Jones sụt 143 điểm, tuy chỉ trong một thời gian rất ngắn nhưng đã khiến cả thị trường hoảng loạn. Đoạn tweet trên đã bị xóa gần như ngay lập tức, nhưng chỉ một khoảnh khắc nó xuất hiện cũng đã đủ để kích hoạt hành vi tức thời của cả con người và các thuật toán thương mại cao tần chuyên dùng trong thị trường, các thuật toán đã “đọc” tin và thực hiện giao dịch phản hồi với tin tức trong một phần triệu giây. Một người mua bán cổ phiếu đã nhìn nhận vụ sập sàn chứng khoán với tốc độ ánh sáng mà AP gây ra là “một lời bình luận về sự sơ hở của thị trường trước những mẩu thông tin ngẫu nhiên”.
Một ví dụ khác tươi sáng hơn: Khi chiếc đàn guitar của nhạc sĩ Dave Carroll bị vỡ do người bốc dỡ hành lý của hãng United Airlines, anh này đã mất chín tháng để thương lượng với các đại diện chăm sóc khách hàng nhưng không thể có kết quả. Do vậy, anh đã sáng tác ca khúcUnited Breaks Guitars (tạm dịch: Hàng không United làm vỡ guitar) và đăng tải bài hát lên YouTube. Trong một ngày, bài hát đã có 150.000 lượt xem và Carroll nhận được điện thoại từ một vị giám đốc giải pháp khách hàng của United Airlines. Trong vòng ba ngày, video này đã có hơn một triệu lượt xem và giá cổ phiếu của hãng hàng không sụt giảm 10%, khiến cho các cổ đông thiệt hại 180 triệu đô la giá trị cổ phiếu – đắt gần gấp 60.000 lần giá trị của cây đàn guitar ban đầu. Trong vòng một tuần, bài hát đã đứng đầu trong danh sách các bài hát được tải về nhiều nhất của iTunes và hãng này đã tổ chức một chương trình đại chúng để quyên góp 3.000 đô la (giá trị một cây guitar mới) gửi tới Học viện Âm nhạc Thelonious Monk Institute of Jazz theo yêu cầu của Carroll (Taylor Guitars – hãng sản xuất ra cây guitar – đã gửi tặng anh hai cây đàn sau khi xem video của anh).
Tất cả những điều này tạo ra thách thức cho các hệ thống vốn được xây dựng cho một kỷ nguyên đơn giản hơn. Ví dụ như hệ thống cứu trợ toàn cầu đã từng một thời phụ thuộc vào việc kết nối từng chính phủ tài trợ với chính phủ của các quốc gia tiếp nhận viện trợ. Nhưng trong vài thập niên gần đây, họ đã phải chuyển từ mô hình “ít người tới ít người” sang thị trường “nhiều người tới nhiều người”, trong đó hàng nghìn tổ chức phi chính phủ cố gắng kết nối với hàng triệu người tiếp nhận.
Hệ thống này ngày nay bao gồm 15.000 nhiệm vụ tài trợ tại 54 quốc gia tiếp nhận mỗi năm. Một số nhà hoạt động xã hội trong lĩnh vực y tế tại các quốc gia vùng phụ cận Sahara, châu Phi đã phải tiêu tốn quá nhiều thời gian để gặp gỡ các đoàn đại biểu châu Âu, tới mức họ chỉ còn thời gian buổi tối để làm việc thực sự. Phương thức “nhiều người tới nhiều người” đã sản sinh ra lợi nhuận to lớn trong một số lĩnh vực, nhưng những khoản lời này lại có chi phí rất lớn trong những lĩnh vực khác – đặc biệt là những lĩnh vực cần có sự điều phối ở quy mô lớn.
Không chỉ các tổ chức cứu trợ phải đối mặt với những thách thức như vậy, mà còn có vô số những tổ chức khác rơi vào tình trạng mà Ben Ramalingam – tác giả, đồng thời là chuyên gia tư vấn về phát triển – gọi là “cơn lốc xoáy ngang ngạnh do truyền thông xã hội sản sinh ra”. Nó đặt ra câu hỏi về việc chúng ta đối mặt như thế nào với những vấn đề trước đây có thể dự đoán được, nhưng bây giờ việc dự đoán chúng đã trở nên bất khả thi. Những người nghiên cứu vấn đề này sử dụng thuật ngữ hơi khác một chút, nhìn từ quan điểm lạc quan về “tính liên kết lẫn nhau”. Họ sử dụng những cụm từ như “sự gián đoạn”, “sự đứt gãy”, hoặc gần đây là một thuật ngữ có nguồn gốc từ nhà binh là VUCA (viết tắt của các từ: volatility – biến động, uncertainty – bất định, complexity – phức tạp và ambigity – không rõ ràng). Họ biết rằng thế giới mà Emmylou đang lớn lên sẽ không chỉ có những sự khác biệt mang tính bản lề so với các thế hệ trước, nó còn phát triển nhanh hơn và phụ thuộc lẫn nhau hơn, và chính bởi vậy sẽ phức tạp hơn rất nhiều, theo một cách hoàn toàn khác với trước đây. Con bé sống trong một cơn lốc xoáy không thể cưỡng lại – một thế giới khác hoàn toàn với thế giới kiểu bộ máy đồng hồ. Chúng ta sẽ gặp rắc rối lớn khi cố gắng sử dụng các công cụ trong thế giới cũ để vận hành một thế giới mới.
GẬY VUÔNG, LỖ TRÒNRất nhiều những nhà tư tưởng vĩ đại, trong đó nổi bật có học giả Henri Poincaré sống ở thế kỷ XIX đã quan sát rất nhiều khía cạnh của hiện tượng mà hiện nay chúng ta gọi là “phức hợp”, nhưng khái niệm này chính thức được giới thiệu lần đầu trong một bài báo trên tạp chíAmerican Science năm 1948. Science and Complexity (tạm dịch: Khoa học và tính phức hợp) là tên một bài luận của Warren Weaver, bài luận dài khoảng tám trang và không liên quan đến nghiên cứu gốc nào – nó là bài luận về bản chất và mục tiêu của tư duy khoa học – nhưng nó đã để lại một tác động dài lâu.
Weaver cho rằng khoa học cho đến những năm 1800 đã quá tập trung vào các vấn đề liên quan đến “tính đơn giản có tổ chức”: Những vấn đề chỉ có một hay hai biến số, như lực hấp dẫn giữa hai thỏi nam châm hay quỹ đạo của trái đất quay quanh mặt trời. Nhưng Weaver quan sát thấy đây không phải là cách thế giới thực đang vận hành. Những sinh vật sống chẳng hạn, chúng “dường như luôn thể hiện những tình huống mà trong đó, nửa tá hoặc lớn hơn thế rất nhiều những thứ đang đồng thời biến đổi và liên kết với nhau, theo những cách liên kết với nhau cực kỳ tinh vi”.
Ông cũng lưu ý rằng những biểu hiện này có thể tìm thấy trong các hệ sinh thái, các nền kinh tế và cả các hệ thống chính trị. Nói theo cách khác, thế giới thực bao gồm rất nhiều những mối liên kết, phụ thuộc lẫn nhau mang tính phức hợp, và khoa học chưa được trang bị đầy đủ tri thức để giải quyết vấn đề này – trên thực tế, khoa học đã chủ động né tránh những sự thật không mấy dễ chịu này, chỉ mong muốn được đơn giản hóa vấn đề để phù hợp với vũ trụ kiểu bộ máy đồng hồ. Weaver cho rằng, những nỗ lực như vậy là hoàn toàn vô ích. Bạn không thể ép một cái cọc vuông khít với chiếc lỗ tròn, và cũng không thể ép những thứ phức hợp phải tuân theo các nguyên tắc dành cho những thứ chỉ thuần túy phức tạp.
Ông cho rằng: Một bàn bi-da có 16 trái bóng về cơ bản thể hiện một vấn đề hoàn toàn khác với một bàn chỉ có hai hay ba trái bóng (cũng như frông lạnh về cơ bản hoàn toàn khác với sao chổi). Bàn 16 bóng dễ làm phức tạp hơn các dự đoán. “Giá bột mì phụ thuộc vào yếu tố nào?” là một câu hỏi còn mang tính phức hợp cao hơn. Vấn đề của những hệ thống phức hợp có tổ chức liên quan tới “một số lượng rất lớn những yếu tố có quan hệ hữu cơ với nhau trong một tổng thể”. Ông viết, những vấn đề này quá phức hợp 19 , “để có thể tuân theo những kỹ thuật cũ của thế kỷ XIX – đã được sử dụng rất thành công để giải quyết những vấn đề đơn giản chỉ có hai, ba hoặc bốn biến số”.
[19] Weaver thật ra đã sử dụng từ “phức tạp” (complicated) trong câu này. Trong bài viết, ông sử dụng từ “phức tạp” để thay thế cho “phức hợp” (để phân biệt với những thứ “đơn giản”). Vào thời điểm ông viết bài luận, thuật ngữ “phức hợp” ít được sử dụng hơn ngày nay, bởi chính ông là người đầu tiên đưa ra khái niệm này. Nhưng khái niệm “phức hợp” mà thời nay chúng ta sử dụng thể hiện đúng hơn ý tưởng mà ông trình bày trong bài viết của mình. (TG)
Khi các nhà khoa học, nhà nghiên cứu lịch sử và phóng viên bắt đầu để ý tới vấn đề này, các bằng chứng ủng hộ quan sát của Weaver xuất hiện ở khắp nơi, nhưng có lẽ rõ nhất là trong lịch sử tương tác giữa con người với các hệ sinh thái thiên nhiên phức hợp. Một trường hợp điển hình nổi tiếng là nỗ lực giải quyết vấn đề loài bọ cánh cứng lưng xám ở Queensland, Australia. Khi loài bọ này tràn vào phá hoại các cánh đồng mía vào những năm 1930, các nhà khoa học nông nghiệp đã rất hào hứng khi tìm ra Rhinella maria, hay còn gọi là cóc mía, loài cóc đặc biệt thích ăn bọ cánh cứng – đã giúp Hawaii kiểm soát thành công loài sâu bọ này. Chính phủ Australia đã nhập khẩu 102 con cóc kỳ diệu này vào tháng Sáu năm 1935 và thả chúng xuống dòng sông Little Mulgrave.
Ngày nay, nếu bạn thả lưới xuống sông Little Mulgrave hoặc bất kỳ dòng sông, ao, hồ, thậm chí là cửa sông gần đó, bạn sẽ bắt được những thứ thoạt nhìn giống bùn nhưng thực chất là hàng đống những con nòng nọc đen nhẫy do cóc mía đẻ ra. Trong điều kiện có rất nhiều hồ nước yên tĩnh và không tồn tại loài ăn thịt kẻ thù như ở Hawaii, một con cóc cái trong một mùa hè có thể đẻ tới 40 nghìn trứng, và tỷ lệ sống sót rồi trở thành cóc trưởng thành của lũ cóc tại Australia đã vượt quá mức dự đoán. Trong khi các nhà khoa học nông nghiệp ước tính tỷ lệ sống sót của loài cóc mía là rất nhỏ. Việc này cũng giống như khi ước tính sai con số “ban đầu” về sự bùng nổ dân số không thể kiểm soát. Sự khác biệt theo chiều hướng tăng – điều sẽ không thành vấn đề đối với việc tính toán sự trở lại của sao chổi Halley – sẽ trở thành gánh nặng rất lớn đối với đời sống tự nhiên của Australia.
Bọn cóc tiếp tục sinh sôi gấp nhiều lần. Chúng mò tới công viên, các khu vườn, đường cao tốc và ao hồ. Chúng ăn cá, ếch, những loài chim nhỏ, cua và tất cả những loài như chuột túi giống nhỏ. Một nhà nghiên cứu còn phát hiện ra cóc mía có thể tấn công và ăn cả những quả bóng bàn. Thứ duy nhất chúng không ăn, lại chính là loài bọ cánh cứng lưng xám của Australia: Sự khác biệt trong vòng đời của các loài động vật ở Australia và Hawaii khiến bọ cánh cứng và cóc không bao giờ cùng xuất hiện trên các cánh đồng trong một thời điểm. Hơn nữa, loài cóc sát hại những con thú khác không chỉ bằng cách ăn thịt chúng, mà còn bằng cách để chính chúng bị những con khác ăn thịt: Lớp da cóc mía có độc, và khi chó, vịt hay rắn ăn thịt cóc mía, chúng sẽ chết cả đàn. Các hàng rào, bẫy và các hình thức ngăn cản khác đều thất bại trước cuộc đổ bộ tấn công của bọn cóc như hình ảnh minh họa của Phòng tuyến Maginot. Loài cóc bây giờ đã chiếm 40% tổng số các loài vật ở Queensland và đã di cư sang các bang khác. Một nhà sinh thái học người Mỹ đã kết luận đây là một “thảm họa nhân chủng kinh điển… cả một hệ sinh thái bị đe dọa vì bị tấn công từ gốc và sẽ gây hậu quả ngược trở lại lên chuỗi thức ăn mà lũ cóc đã len lỏi được vào”.
Danh sách những nỗ lực tai họa ảnh hưởng tới cả hệ sinh thái trải dài từ vụ cóc mía cho tới vụ nho kudzu lan rộng ra khoảng 2,83 triệu hecta đất ở Mỹ, tới cuộc đổ bộ của hàng triệu con chim sáo đá làm đen kịt bầu trời nước Mỹ. (Năm 1890, một người thần tượng Shakespeare muốn mang tất cả những loài vật được văn hào nhắc tên đến với Tân thế giới, anh ta đã thả 60 con chim sáo đá tại Công viên Trung tâm New York; từ đó chúng đã tỏa ra khắp các khu vực và sống thành bầy. Những đàn sáo này có thể ngốn tới 20 tấn khoai tây một ngày.)
Cũng tương tự như câu chuyện loài bướm ảnh hưởng như thế nào tới thời tiết, không phải tất cả các loài được đưa tới sẽ phát triển nhanh tới mức không thể kiểm soát. Bất kỳ loài động vật nào kể trên cũng có thể chết chỉ trong vòng vài tuần, chỉ cần một trong những yếu tố rất nhỏ trong môi trường tương tác theo một cách khác, hoặc nếu như số liệu đầu vào có sự khác biệt nhỏ.
Các hệ thống phức hợp dễ thay đổi, luôn tiềm ẩn hàng loạt khả năng; chủng loại và số lượng các tương tác liên tục biến đổi ngăn không cho chúng ta đưa ra các dự đoán chính xác. Kết quả là, việc đối xử với một hệ sinh thái như thể nó là một cỗ máy với quỹ đạo có thể dự đoán từ đầu vào cho tới đầu ra là một hành động ngu ngốc và cực kỳ nguy hiểm.
Tương tự như vậy, các hệ thống kinh tế – sản phẩm của các nút thắt phức hợp của các nhân tố con người – sẽ gây rối loạn cho những nỗ lực tuyến tính nhằm dự đoán và kiểm soát. Chính bởi tính phức hợp này mà nhà kinh tế và triết gia Friedrich Hayek đã chống lại các chương trình kinh tế do nhà nước điều hành. Trong bài luận nổi tiếng của mình The Theory of Complex Phenomena (tạm dịch: Lý thuyết về các hiện tượng phức hợp), ông đã phân biệt giữa “mức độ phức hợp của một hiện tượng cụ thể” và “cấp độ phức hợp do một tập hợp các yếu tố, dựa trên đó bất kỳ hiện tượng nào cũng có thể nảy sinh”. Nói theo cách khác, một số hệ thống có bản chất phức hợp (như bộ não con người hay xã hội) trong khi một số hệ thống khác (như một cỗ máy lớn hay một nhà máy) thoạt đầu có vẻ phức hợp vì chúng có rất nhiều phần chuyển động, nhưng thực tế chúng chỉ là những chủ thể “phức tạp”.
Ông cho rằng khác với dây chuyền sản xuất công nghiệp, không thể biến các nền kinh tế quốc gia trở thành các hệ thống máy móc, và áp dụng các giải pháp sử dụng tư duy đơn giản hóa: hành vi của chúng là kết quả từ quá trình ra quyết định của hàng triệu người, và tất cả những quyết định này đều có ảnh hưởng lẫn nhau, khiến cho việc dự đoán thị trường chuyển dịch như thế nào là nhiệm vụ bất khả thi – giống như trong một ván cờ vua, có quá nhiều khả năng để có thể viết một bản hướng dẫn luật chơi. Hiệu ứng cánh bướm trong kinh tế, được kích ngòi bởi những xáo trộn ban đầu, là hiện tượng phổ biến.
Tính phức hợp này càng trở nên dày đặc hơn khi các nền kinh tế đang trong quá trình toàn cầu hóa. Vụ tấn công của tin tặc đối với AP cho thấy những yếu tố nhiễu loạn phi tuyến tính ngày càng dễ xảy ra hơn. Theo lời của nhà xã hội học người Anh – John Urry: “Khi Trung Quốc cảm lạnh, nước Mỹ sẽ hắt hơi” 20 . Để mở rộng ẩn dụ về cánh bướm của Lorenz, có thể nói chúng ta đang ngày càng lún sâu vào thế giới của nhiều cơn lốc xoáy.
[20] Câu trích dẫn này có một lịch sử khá phức tạp: Câu nói ban đầu, đến nay đã có rất nhiều dị bản, được cho là của Hoàng tử nước Áo – Klemens von Metternich: “Khi nước Pháp hắt hơi, châu Âu sẽ bị cảm lạnh.” Metternich đang nhắc đến những cuộc cánh mạng lan nhanh khắp châu Âu trong thế kỷ XIX, và chắc chắn ông không bao giờ hình dung câu nói của mình sẽ được dùng để mô tả nền kinh tế của Mỹ và Trung Quốc. (TG)
Sự kiêu căng, có lẽ do đã trải qua nhiều thế kỷ áp dụng thành công khuôn mẫu của Newton để giải quyết những vấn đề phức tạp, đã khiến chúng ta ngớ ngẩn tin rằng chỉ cần có đủ dữ liệu và cần cù, chúng ta có thể giải mã những bí ẩn trong nền kinh tế phức hợp. Nhưng giống như Weaver đã chỉ ra, bạn không thể nhét một cái gậy “phức hợp” hình vuông trong một chiếc lỗ tròn “phức tạp”. Trung bình, từ năm 2001 đến 2006 tỷ lệ dự đoán sai do cộng đồng chuyên gia Mỹ thực hiện là: 47% trong vòng 12 tháng và 93% trong vòng 24 tháng. Tác giả, nhà đầu tư James Montier đã miêu tả: “Khắp nơi đầy rẫy bằng chứng về những pha dự đoán ngớ ngẩn… Nói trắng ra là ba con chuột mù còn đáng tin hơn bất kỳ nhà dự đoán vĩ mô nào trong khả năng nhìn ra những điều sắp xảy đến.” Tháng Mười một năm 2007, các nhà kinh tế tham gia Khảo sát của Hiệp hội Dự đoán Chuyên nghiệp đã kiểm tra 45.000 dữ liệu kinh tế và dự đoán khả năng xảy ra khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng (điều đã thực sự xảy ra sau đó một tháng) là dưới 0,2%.
Những cuộc tranh luận vẫn nổ ra xung quanh việc chúng ta có hiểu về nền kinh tế đủ để thiết kế những can thiệp dù là nhỏ nhất, ví dụ như điều chỉnh tỷ giá. Nhưng những nấm mồ kinh tế tập trung như Liên Xô – chính xác là bãi tha ma của các hành động can thiệp được lên kế hoạch trong hệ sinh thái – có vẻ đã chứng minh rằng: Có những chuyện không thể vừa vặn với tấm áo của tư duy đơn giản hóa. Các nỗ lực nhằm kiểm soát hệ thống phức hợp bằng cách sử dụng các phương tiện máy móc, tư duy đơn giản hóa thừa hưởng từ các nhà tư tưởng từ Newton tới Taylor – bằng cách phân chia tất cả mọi việc ra thành những thành phần riêng rẽ, hoặc tập trung giải quyết từng yếu tố riêng biệt – sẽ rất dễ (trong trường hợp tốt nhất) trở nên vô dụng hoặc thậm chí tệ nhất là trở thành cỗ máy phá hủy.
TRỞ LẠI VỚI CÁCH THỨC QUẢN LÝGiải pháp quản lý của Frederick Taylor được thiết kế để giải quyết những vấn đề phức tạp hơn là phức hợp. Nhà máy thép Midvale có thể là một rạp xiếc không ăn khớp gồm các động cơ chuyển động xoáy và thép nung, nhưng toàn bộ máy móc đều vận hành theo công thức tuyến tính, và cấu trúc quản lý mà Taylor thiết lập vận hành giống như một cỗ máy với phiên bản dành cho các tổ chức: Nhiệm vụ được bàn giao từ công nhân này sang công nhân khác, từ khu vực này sang khu vực khác. Mọi sự thay đổi đều theo tuyến tính. Vấn đề xảy ra với một cỗ máy không thể lây lan sang những cỗ máy khác.
Đổi lại, một phát minh không thể “bùng phát” và biến chủ nhà máy trở thành tỷ phú sau một đêm. Quá trình các công ty tiến tới thành công hay thất bại đều diễn ra trong vòng nhiều năm.
Môi trường có thể dự đoán cho phép Taylor chia nhỏ các quy trình phức tạp thành những khâu độc lập, có thể lặp lại ở quy mô lớn hơn, và chia toàn bộ tổ chức ra thành những phòng, ban độc lập. Bởi vì biết trước ngày mai sẽ có tám chủng loại giấy như hôm nay, ông có thể đơn giản hóa quy trình làm giấy thành một bảng biểu đơn giản; bởi vì ông biết cũng những cỗ máy ấy vận hành với cùng một dòng nước, ông có thể trao cho công nhân những thẻ hướng dẫn đơn giản, chính xác để họ làm theo. Thế giới công nghiệp, nơi tất cả mọi thứ đều có thể đo đạc và cơ giới hóa – nơi mọi biến số riêng lẻ có thể được cô lập, thử nghiệm và tối ưu hóa – đã vay mượn mô hình này. Mặc dù phức tạp, quá trình này hoàn toàn phụ thuộc vào năng lực của người quản lý để tính toán, dự báo và kiểm soát. Lập kế hoạch hiệu quả trở thành huyết mạch của việc “quản lý tốt”. Tất cả những thứ khác, từ thiết kế vật lý cho tới cấu trúc tổ chức hay hành vi lãnh đạo, chỉ là sự mở rộng tự nhiên của mục tiêu này.
Khi rón rén tiến sang môi trường phức hợp “từ số nhiều đến số nhiều”, chúng ta lại tiếp tục sử dụng những giải pháp ngày càng phức tạp: Các nhà quản lý tài năng xây dựng những bộ quy tắc rắc rối và chế độ cấp bậc trong tổ chức để giải quyết mọi khả năng có thể xảy ra. Niềm tin vững chắc rằng chúng ta có thể hiểu rõ mọi vấn đề chưa bao giờ nhạt phai. Bất kỳ ai từng làm việc trong lĩnh vực kinh doanh hay chính trị trong nhiều thập kỷ đều có thể làm chứng cho sự tăng trưởng dường như bất tận của các quy tắc và công việc giấy tờ. Không nơi đâu thể hiện điều này rõ ràng hơn Lầu Năm Góc, nơi Bộ Quốc phòng tự biến mình thành cỗ máy của các nguyên tắc và quy trình lớn mạnh hơn bao giờ hết.
Tại Iraq, chúng tôi sử dụng giải pháp phức tạp để giải quyết vấn đề phức hợp. Trong hàng chục năm trời, chúng tôi đã thực hiện phương pháp tiếp cận tuyến tính với tốc độ nhanh hơn sự biến đổi của môi trường bên ngoài, và kết quả là, chúng tôi tin rằng mình đang làm những điều khác biệt so với các tổ chức khác. Trên thực tế, chúng tôi cũng quan liêu như bất kỳ ai; chúng tôi chỉ hiệu quả hơn trong t