Chương 16 Thứ Bảy mồng 6 tháng Sáu
Braggadocio đã dành vài ngày trong tuần ấy để sắp xếp lại những mảng tin riêng của mình và toàn bộ buổi sáng ngày thứ Năm bàn chuyện trong văn phòng của Simei với cánh cửa khóa kín. Hắn ra khỏi đó lúc 11 giờ, Simei dặn dò: "Anh hãy kiểm tra kỹ lưỡng lại dữ kiện đó nhé. Tôi muốn ta phải thật chắc chắn cái đã."
Braggadocio hân hoan lạc quan trả lời: "Xin anh đừng lo lắng gì. Tối nay tôi sẽ gặp một người có thể tin cậy được, và kiểm tra lại lần cuối cùng."
Trong lúc đó toàn bộ ban biên tập tập trung để làm những trang chuyên đề cho bản thử nghiệm Số Không đầu tiên: mục thể thao, mục đố chữ của Palatino, một vài lá thư đòi đính chính, mục tử vi và vài mẩu tin báo tử.
Costanza nói: "Nhưng cho dù có bịa gì đi nữa thì cũng khó mà làm đầy cả hai tư trang được. Cần nhiều thông tin hơn."
Simei đáp: "Được rồi. Colonna, xin anh giúp một tay đi."
Tôi nêu ý kiến: "Không nhất thiết phải tạo tin, chỉ cần tái sử dụng chúng là được."
"Như thế nào kia?"
"Con người ta có trí nhớ ngắn ngủi lắm. Lấy một ví dụ vớ vẩn thế này thôi nhé. Ai ai cũng biết là Giulio Cesare bị ám sát vào giữa tháng Ba, nhưng trí nhớ phai mờ rất nhanh. Cứ xem một cuốn sách được xuất bản tại Anh mới đây thì biết. Nó rà soát lại toàn bộ câu chuyện về Cesare, tất cả những gì cần thiết là một tít giật gân: Khám phá ngoạn mục của các nhà sử học Cambridge. Cesare thực sự bị ám sát vào ngày 15 tháng Ba, và thế là một bài ôn lại lịch sử bán chạy như tôm tươi. Bài học này là một trường hợp thái quá, nhưng tôi có thể đoán chắc là nếu đã có thể nói lại về câu chuyện tham nhũng Pio Albergo Trivulzio thì cũng có thể viết một bài về sự sụp đổ của ngân hàng Banca Romana. Chuyện đã xảy ra từ cuối thế kỷ mười chín rồi, và chẳng liên quan gì tới mấy vụ om sòm hiện tại, nhưng vụ này đánh tiếng sang vụ kia, chỉ cần bóng gió về các tin đồn thổi, và thế là toàn bộ câu chuyện về ngân hàng Banca Romana lại như mới chỉ xảy ra ngày hôm qua thôi. Tôi cá Lucidi có thể viết một bài hay ho về vụ này."
Simei nói: "Tốt lắm. Có chuyện gì vậy Cambria?"
"Tôi có đọc được một bài báo viết rằng lại có thêm vụ tượng Đức Mẹ chảy nước mắt tại một làng phía Nam."
"Hay lắm! Hãy viết một bài khiến độc giả phải động lòng mới được."
"Về những vụ mê tín xảy ra khắp các làng..."
"Không, không! Chúng ta có phải là tờ tin viết cho những kẻ vô thần hay duy lý đâu. Độc giả muốn thấy các phép mầu, chứ không phải khuynh hướng hoài nghi. Mà kể về một phép mầu thần thánh không có nghĩa là nói tờ báo tin vào điều đó. Ta chỉ kể sự kiện thôi, hoặc nói rằng ai đó đã chứng kiến nó. Còn việc các nữ đồng trinh có khóc thật hay không chẳng phải là điều ta quan tâm. Độc giả phải tự rút ra kết luận. Nếu là người có đức tin, họ sẽ tin. Đặt một cái tít chạy mấy cột báo vào!"
Tất cả đều tích cực hứng khỏi quay lại làm việc. Tôi bước gần tới bàn làm việc của Maia. Cô đang rất tập trung làm tin báo tử. Tôi nói: "Đừng quên gia đình người đã khuất lấy làm thương tiếc..."
Maia đáp: "Và người bạn Filiberto chia buồn với người vợ góa Matilde cùng hai đứa con thân yêu Mario và Serena."
Tôi mỉm cười khích lệ: "Tốt hơn là viết những cái tên Ý Gessica với chữ g thay vì chữ j hay Samanta không có chữ h."
Tối hôm đó tôi lưu lại tại căn hộ của Maia, và thành công trong việc biến chồng sách chất đống như mấy tòa tháp lung lay thành tổ ấm yêu thương.
Trong số tầng tầng đống đống chất lại với nhau đó còn có rất nhiều đĩa nhạc, toàn là những đĩa than cổ ông bà cô để lại. Đôi khi chúng tôi chỉ nằm dài nghe nhạc. Buổi tối hôm đó Maia cho quay bản giao hưởng thứ bảy của Beethoven. Mắt rơm rớm, cô thú nhận với tôi rằng từ lúc mới lớn đã luôn xúc động khi nghe tới chương thứ hai. "Khi đó em mới mười sáu tuổi. Em chẳng có tiền, nhưng nhờ quen một người nên được vào trong rạp hát mà không phải trả tiền. Vì không có chỗ ngồi, nên em đành ngồi bệt trên bậc thang, rồi dần dần cứ doãi người ra, gần như nằm soài ra vậy. Nền gỗ cứng lắm, nhưng em chẳng cảm thấy gì. Tới chương thứ hai em nghĩ mình muốn chết như vậy đấy, và thế là bật khóc. Em quả là điên. Nhưng đến giờ lớn rồi mà em vẫn còn khóc khi nghe tới đoạn đấy."
Tôi chưa bao giờ khóc khi nghe nhạc cả, nhưng xúc động vì cô lại xúc cảm như thế. Sau vài phút im lặng, Maia nói: "Ông ta thì quả là khùng."
"Ai kia?"
"Schumann chứ còn ai nữa." Maia nói như thể đầu óc tôi đang để đâu đâu. Ôi cái bệnh tự kỷ của cô.
"Schumann là một kẻ khùng?"
"Vâng, dạt dào tình cảm lãng mạn lắm, thì vào thời điểm đó mà, nhưng toàn là những thứ viết từ trong đầu ra. Chỉ bóp đầu là ông ta phát điên. Em có thể hiểu đuợc tại sao vợ ông ta lại đi yêu Brahms. Một khí chất khác, một loại nhạc khác, và lại biết tận hưởng nữa chứ. Nhưng thôi, em không có ý nói Robert Schumann là kẻ tệ, chắc chắn ông ta có tài, chỉ không phải là một trong những kẻ khoác lác mà thôi."
"Những kẻ nào?"
"Gã Liszt tự mãn, hay gã Rachmaninov nóng tính chẳng hạn. Họ viết vài bản nhạc thật kinh khủng, toàn những thứ nhằm gây ấn tượng, để kiếm tiền, ví nhu bản giao hưởng viết cho cung Đô trưởng chẳng hạn. Nếu tìm, anh chẳng thể thấy đĩa hát của họ trong số những chồng đĩa kia đâu. Em vứt chúng đi rồi. Thà họ làm nông còn hơn."
"Theo em thì ai giỏi hơn Liszt?"
"Satie chứ còn ai."
"Nhưng em không khóc khi nghe Satie đúng không?" "Đương nhiên là không. Ông ấy cũng chẳng muốn thế đâu. Em chỉ khóc khi nghe chương hai bản giao hưởng thứ bảy thôi." Dừng một lát, rồi cô nói tiếp: "Thuở bé em cũng khóc khi nghe vài bản của Chopin. Nhưng không phải là các bản giao hưởng rồi."
"Tại sao các bản giao hưởng thì không?"
"Bởi nếu anh tách ông ta ra khỏi đàn piano và đặt ông ta trước dàn nhạc, thì hẳn ông ta sẽ chẳng biết mình đang ở đâu nữa. Ông ta viết những phần cho bộ dây, bộ khí và thậm chí cả bộ gõ nữa trên cây đàn piano. Mà anh đã xem bộ phim do Cornel Wilde thủ vai Chopin, cảnh ông ta tóe máu trên phím đàn chưa? Nếu phải điều khiển cả một dàn nhạc thì ông ta sẽ làm thế nào? Tóe máu ngay trên chiếc violon đầu tiên sao?"
Maia chẳng bao giờ khiến tôi hết ngạc nhiên, kể cả khi tôi nghĩ mình đã biết rõ cô. Với Maia, tôi sẽ phải học cả cách đánh giá âm nhạc. Hay ít nhất là theo cách của cô ấy.
Đó là buổi tối hạnh phúc cuối cùng. Hôm qua tôi dậy muộn, và mãi tận gần trưa mới tới tòa soạn. Vừa bước vào, tôi đã thấy nhiều người mặc đồng phục đang lục lọi trong các ngăn kéo của Braggadocio, và một người mặc thường phục đang hỏi những người có mặt. Simei đứng trước ngưỡng cửa phòng làm việc của hắn, mặt tái xám đi.
Cambria tiến lại sát tôi rồi thì thầm như thể có gì bí mật vậy: "Chúng giết Braggadocio rồi."
"Cái gì kia? Braggadocio? Sao lại thế?"
"Khoảng sáu giờ sáng nay, một tuần tra đêm đang đạp xe về nhà sau khi hết ca đã nhìn thấy một cái xác nằm úp mặt xuống đường, với một vết thương sau lưng. Vào giờ đó cũng phải mất chút thời gian mới tìm được một quán bar mở cửa sớm để gọi cứu thương và cảnh sát. Bác sĩ điều tra khẳng định ngay cái chết do dao đâm, chỉ một nhát thôi, nhưng chí mạng. Không thấy bóng dáng con dao đâu."
"Xảy ra ở đâu?"
"Trong một ngõ nhỏ quanh khu đường Torino, tên là gì nhỉ? Bagnara hay Bagnera gì đó."
Người mặc thường phục tiến lại phía tôi, giới thiệu chóng vánh là cảnh sát điều tra, rồi hỏi tôi nhìn thấy Braggadocio lần cuối cùng khi nào.
"Ở đây, trong văn phòng ngày hôm qua, như tất cả các đồng nghiệp của tôi thôi, tôi nghĩ thế. Hình như anh ta ra về trước mọi người một chút."
Viên thanh tra hỏi tối qua tôi làm gì (hẳn là câu hỏi đặt cho tất cả mọi người). Tôi nói đi ăn tối cùng một người bạn, rồi đi ngủ luôn. Đương nhiên tôi không có chứng cớ ngoại phạm, nhưng có lẽ chẳng có ai có mặt lúc ấy là có chứng cớ ngoại phạm cả, và viên thanh tra không có vẻ gì bận tâm tới điều này. Chỉ là thủ tục thôi, giống như trong mấy bộ phim trinh thám người ta vẫn hỏi ấy mà.
Ông ta quan tâm tới việc theo tôi Braggadocio có kẻ thù không, và liệu hắn có đang điều tra vụ gì nguy hiểm không. Dĩ nhiên tôi chẳng mở miệng bất cứ chuyện gì, không phải bởi tôi muốn bảo vệ ai đó, mà bởi tôi bắt đầu nhận ra rằng nếu có kẻ đã loại trừ Braggadocio, thì hẳn là bởi vụ điều tra của hắn. Và tôi đột ngột có cảm tưởng rằng nếu để lộ ra, dù chỉ là dấu hiệu nhỏ nhất là mình biết điều gì đó, thì cả tôi cũng có nguy cơ bị trừ khử. Tôi tự nhủ mình không thể nói với cảnh sát được. Braggadocio chẳng phải đã kể với tôi rằng tất cả đều có liên quan trong câu chuyện của hắn đó sao? Kể cả đội kiểm lâm, nói gì tới những lực lượng khác. Và nếu như cho tới tận ngày hôm qua tôi còn nghĩ hắn là kẻ hoang đường, thì cái chết của hắn khiến câu chuyện của hắn đáng tin hơn rất nhiều.
Tôi toát mồ hôi, nhưng viên thanh tra không để ý, hay có lẽ ông ta cho rằng đó là bởi tôi bị chấn động chăng.
Tôi nói: "Tôi không rõ những ngày này anh ta đang theo vụ nào nữa. Có lẽ Simei có thể nói với ngài rõ hơn, bởi ông ấy là người giao nhiệm vụ. Nếu tôi không nhầm thì anh ta đang làm về nạn mại dâm, nhưng tôi không rõ điều này có ích gì cho vụ điều tra của các ngài không nữa."
Viên thanh tra đáp: "Để xem", rồi bước về phía Maia đang ngồi khóc. Tôi tự nhủ Maia chẳng yêu mến gì Braggadocio, nhưng bị giết chết như vậy thì... Tội nghiệp. Tôi chẳng cảm thấy buồn phiền gì cho Braggadocio, mà là cho Maia. Hẳn cô đang cảm thấy có lỗi vì nói xấu hắn.
Lúc đó Simei ra hiệu cho tôi vào trong phòng làm việc của hắn. Hắn ngồi xuống bên bàn viết, tay run rẩy rồi nói: "Colonna, anh biết Braggadocio đang theo vụ gì."
"Biết và không biết. Hắn có nói vài điều với tôi, nhưng tôi không rõ liệu..."
"Colonna, đừng có giả bộ ngây ngô. Anh thừa hiểu là Braggadocio bị đâm bởi hắn sắp sửa công bố các thông tin quan trọng. Giờ thì tôi chẳng rõ đâu là thông tin thật, đâu là những thứ mà hắn bịa ra nữa, nhưng chắc chắn rằng nếu cuộc điều tra của hắn dính dáng tới cả trăm sự việc, thì ít nhất một việc nào đó hẳn phải có thực, và chính vì nó mà hắn bị bịt miệng. Nhưng vì hôm qua hắn kể chuyện này với cả tôi nữa, nên tôi cũng biết sự việc đó, cho dù tôi chẳng rõ đó là sự việc nào. Và bởi hắn nói đã kể cho anh, cho nên cả anh cũng biết. Cho nên cả hai ta giờ cùng bị nguy hiểm. Mà đâu chỉ có thế, cách đây hai tiếng, ông chủ đã nhận được một cú điện thoại. Ông ta không nói cho tôi biết là ai gọi tới, hay nói những gì, nhưng Vimercate đã hiểu ra là tờ Ngày mai trở nên quá nguy hiểm, ngay cả với chính ông ta nữa, nên quyết định cho hủy toàn bộ vụ này. Ông ta đã gửi cho tôi mấy tấm séc để giao cho các biên tập viên, họ sẽ nhận được phong bì hai tháng lương, và vài lời cảm ơn, xin chào. Chẳng ai có hợp đồng làm việc cả, nên chẳng ai phản đối được gì. Vimercate không biết là cả anh cũng nằm trong vòng nguy hiểm, nhưng tôi nghĩ anh khó mà đi quanh quanh để đổi séc trong ngân hàng được, nên tôi đã xé chúng đi. Tôi có tiền trong két, anh sẽ nhận được phong bì hai tháng lương tiền mặt. Trong vòng ngày mai, văn phòng này sẽ bị dỡ bỏ. Về phần mình, hãy quên giao kèo giữa hai ta đi. Nhiệm vụ của anh, cuốn sách mà lẽ ra anh phải viết: hãy quên hết đi. Tờ Ngày mai chết rồi: chết ngay ngày hôm nay. Tuy nhiên, ngay cả khi tờ báo đóng cửa, e là anh và tôi chúng ta đã biết quá nhiều."
"Nhưng tôi tin Braggadocio đã nói cả với Lucidi..."
"Anh vẫn chưa thật hiểu ra phải không? Đó chính là sai lầm của hắn. Lucidi đã đánh hơi được rằng người bạn thân thiết đã khuất của chúng ta đang đào bới điều gì đó nguy hiểm, và liền đi cấp báo. Cho ai? Tôi không biết, nhưng hẳn là cho kẻ đã nhận định rằng Braggadocio biết quá nhiều. Sẽ chẳng ai đi hại Lucidi hết. Hắn ta nằm ở phía bên kia chiến tuyến. Nhưng hai ta thì có đấy. Tôi nói cho anh biết mình sẽ làm gì. Ngay khi cảnh sát rời khỏi đây, tôi sẽ nhét túi tất cả những gì còn lại trong két sắt, rồi chuồn ra nhà ga, bắt chuyến tàu đầu tiên sang Thụy Sĩ. Không hành lý gì hết. Ở Lugano, tôi biết một kẻ có thể làm giả giấy tờ: một cái tên mới, một hộ chiếu mới, nơi cư trú mới còn cần phải cân nhắc. Tôi sẽ biến mất, trước khi đám sát thủ ám hại Braggadocio có thể tìm tới. Hy vọng tôi sẽ đi trước được chúng. Tôi đã yêu cầu Vimercate thanh toán cho mình vào thẻ ngân hàng Credit Suisse bằng đô la. Còn anh, tôi chẳng biết phải khuyên thế nào nữa. Nhưng trước hết là đừng có đi loanh quanh trên phố làm gì, đóng kín cửa lại trong nhà. Rồi tìm cách biến mất, tôi thì sẽ chọn một nước Đông Âu nào đó, nơi chưa từng tồn tại stay-behind."
"Anh nghĩ mọi chuyện là do stay-behind sao? Nhưng công chúng đều biết tới nó rồi kia mà. Hay vụ việc về Mussolini? Chuyện lố bịch như thế thì ai tin kia chứ?"
"Còn Tòa thánh Vatican thì sao? Cho dù đúng hay không, thì báo chí cũng sẽ kể về câu chuyện Nhà thờ đã che chở cho cuộc trốn chạy của quốc trưởng vào năm 45, và cho hắn ẩn náu suốt gần năm mươi năm qua. Với tất cả những vấn đề rắc rối mà họ đã có với Sindona, Calvi, Marcinkus, vân vân và vân vân, thì trước khi chứng minh được rằng câu chuyện về Mussolini là hoàn toàn bịa đặt, vụ om sòm này cũng đã lan tới tận các hãng truyền thông quốc tế. Colonna, đừng tin vào bất kỳ ai. Hãy đóng cửa trong nhà, ít nhất là đêm nay, rồi nghĩ cách tẩu thoát. Anh có đủ tiền để sống ít nhất là vài tháng. Nếu tới Romania chẳng hạn, ở đó mức sống thấp, với mười hai triệu lia trong phong bì này, anh có thể sống như ông hoàng trong một thời gian. Vĩnh biệt Colonna, tôi lấy làm tiếc là mọi việc lại đi theo hướng này. Thật chẳng khác gì câu chuyện cười của Maia về gã cao bồi ở sa mạc Texas: Thật tiếc, chúng ta thua mất rồi. Giờ xin hãy để tôi chuẩn bị đi ngay khi cảnh sát rời khỏi đây."
Tôi muốn ra khỏi đó ngay lập tức, nhưng viên thanh tra đáng ghét vẫn tiếp tục hỏi tới hỏi lui mọi người, mà chẳng tìm được gì ra hồn hết. Trời thì bắt đầu tối rồi.
Tôi đi gần tới bàn làm việc của Lucidi, lúc đó đang mở phong bì của mình ra. Tôi hỏi hắn: "Anh nhận được đủ tiền thưởng công của mình rồi chứ?"
Hắn hiểu tôi ám chỉ điều gì. Hắn ngước mắt nhìn tôi hỏi: "Braggadocio đã kể gì cho anh?"
"Tôi biết anh ta đang theo vài hướng điều tra, nhưng anh ta không muốn kể gì với tôi hết."
Hắn bình luận: "Thật ư? Tội nghiệp gã đó, chẳng biết hắn đâm đầu vào đâu nữa," rồi quay người đi.
Ngay khi viên thanh tra cho phép tôi rời đi, với lời nhắc nhở thông thường nhớ phải hợp tác nếu họ có hỏi gì thêm sau này, tôi thầm thì vào tai Maia: "Em hãy về nhà, đợi tin anh. Nhưng anh e không thể gọi cho em trước sáng mai đâu."
Cô nhìn tôi kinh hoàng: "Nhưng anh liên quan gì tới việc này kia chứ?"
"Không gì cả. Không phải cái mà em đang nghĩ đâu. Nhưng anh đang rất rối trí, thế thôi."
"Nói cho em biết điều gì đang xảy ra đi. Em nhận được một phong bì với một tấm séc, và vài lời cảm ơn đã hợp tác."
"Tờ báo đóng cửa rồi, anh sẽ giải thích sau." "Nhưng sao anh không nói luôn bây giờ đi."
"Anh hứa mai sẽ nói với em tất cả. Giờ em về nhà an toàn nhé. Đi mà, anh xin em đấy."
Cô nghe lời tôi, nhưng mắt ngân ngấn nước đầy nghi vấn. Tôi rời đi mà không nói thêm lời nào nữa.
Tôi ở trong nhà suốt buổi tối, không ăn gì hết, chỉ uống cạn nửa chai whisky, và nghĩ về điều cần làm sau đó. Rồi tôi kiệt sức, vớ lấy liều thuốc ngủ mà ngủ thiếp đi.
Sáng nay vòi nước không chảy.