Chương 20
Chương 20
ậu xem phim Chín mươi phút rưỡi hai lần, một lần từ đĩa lậu, sau đó Tú đi Tây Tạng về lại kéo nhau ra rạp, sau khi nghe cậu khoe phim lạ lắm.
Hai phi công, bốn tiếp viên cùng ba trăm mười sáu hành khách trong đó có năm tên không tặc đã vật vã trong hơn chín mươi phút ròng. Nghẹt thở. Và chiếc máy bay đâm vào núi tan tành bất chấp mọi nỗ lực mọi khao khát sống của phe thiện và ác. Khói bốc lên từ thịt da con người, dù tốt hay xấu, đều giống nhau. Là khói thôi. Kẻ ác không khét hơn. Ông đạo diễn có cái mặt hình tam giác, mày rậm dữ tợn, lim dim nói về ý đồ nghệ thuật trong bộ phim gây tranh cãi của mình.
Nhiều nhân vật trong đó đáng được sống. Em bé chín tuổi vừa trải qua ca phẫu thuật tim. Người đàn ông mới ra tù về với vợ. Cô gái lần đầu đến chỗ hẹn với người yêu. Khán giả đã chờ đợi một kết thúc có hậu, trên các trang mạng xã hội dày đặc những dòng nuối tiếc. Họ đã chờ đợi một phép màu vào giờ cuối, tưởng như những bộ phim khác, anh hùng luôn có cách thoát khỏi cõi chết trở về, khệnh khạng bước ra khỏi những đám cháy. Miệng kêu phim xạo bà cố mà ai nấy hể hả, hài lòng. Những siêu anh hùng luôn sống nhờ vào lòng thương của con người. Sống bất chấp phi lý. Sống cho thứ gọi là hy vọng.
Thỉnh thoảng cậu nhớ hình ảnh cái đụn khói dữ dội của chiếc máy bay chảy lên trời, lách qua những đám mây, duyên dáng uốn lượn như một dòng sông. Hoàn toàn không có cảm giác cháy khét ở cái cảnh kết phim. Chỉ thấy đẹp quá mông lung quá.
Tú chê cái phim này ác dễ sợ. Có thấy hay gì đâu. Cậu cãi nó hay vì đã làm cho những người xem như Tú tức mình.
Ác. Viết ác. Thỉnh thoảng cậu hay dùng cụm từ đó để miêu tả một cuốn sách mình vừa đọc. Anh cũng thuộc loại viết ác. Cậu nói vậy khi lần đầu tiên gặp anh Bằng trong một chuyến công tác ở Sài Gòn. Văn lạnh trơ, đọc sợ. Anh cười hiền queo nói người viết giỏi thì không được và không nên thương hại nhân vật của mình.
Ý nghĩ đó lẩn quẩn trong đầu cậu, khi nhìn theo Xu gác chỏng ống kính lên trời rảo bước khỏi dãy nhà lúp xúp bên kia cây cầu, Phụng lẽo đẽo đằng sau. Một ngày nhiều mây. Cậu phóng tầm mắt ra xa, thấy hàng triệu cánh vàng chấp chới trên mặt nước. Mặt trời cố gắng giăng một lớp nắng mỏng và hơi úa, nhìn leo lét. Một thằng nhỏ dong thuyền lại trước mặt cậu, hỏi ê anh trai mướn quách ra ngoài kia chơi không, rẻ lắm.
Cậu nhìn thấy một-dấu-hiệu.
Từ khi biết mình thuộc dạng người nào, cậu rất nhạy cảm với dấu hiệu. Cậu biết đám đông nào dè bỉu mình, đám đông nào thông cảm để điều chỉnh cho đúng hành vi, ánh mắt, nhất là khi đi cùng với Tú. Khi nào tình cảm được quyền hiện lên mặt, khi nào giả bộ lạnh lùng, phớt tỉnh. Cậu đọc dấu hiệu giỏi đến mức trực giác được khá nhiều trường hợp người tốt, xấu.
Chiếc thuyền mà dân bản xứ gọi là quách này, cậu đã từng thấy nó. Mũi vỡ một mảnh ván, sườn hơi vẹo vì bị mất hai thanh cong. Thuyền có vẻ nặng nề vì gỗ xẻ từ cây dên dên qua nhiều mùa đã ngấm nước.
Cậu chỉ đứng nhìn thôi, nhưng biết bên dưới cái sạp thuyền mục rã kia có một cái lỗ hổng được thằng nhỏ bịt bằng một một thứ gì đó cực kỳ tạm bợ, có thể là cái áo mưa cuộn lại, một cái xơ dừa tơ tướp. Nước đang rịn ri rỉ. Nếu không tát thì đến nửa ngày nước sẽ đầy đến tận mạn.
Cậu đã từng gặp nó, chiếc thuyền với những chi tiết giống hệt vậy ở bảo tàng sông nước miền Hạ. Người ta tìm thấy nó trong lớp đất đá cách Túi mười hai cây số. Ngày xưa Túi đã từng rộng gấp đôi bây giờ. Những nhà nghiên cứu từng đưa ra ý kiến đó mừng quýnh khi vị trí chiếc thuyền vùi sâu trong lòng đất liền. Trong nó còn có cỗ quan tài bằng gỗ sầu, chôn giữa bùn hàng trăm năm vẫn còn thơm phức, những vật dụng được chôn chung với bộ xương phụ nữ mùn rã ấy đều còn một nửa.
Tám năm sau, ở di chỉ khảo cổ Bắc Hòa, cũng bên bờ sông Ly, cách Túi 1111 cây số, người ta tìm thấy một bộ cốt đàn ông, mọi vật dụng chôn theo cũng chỉ còn một nửa, rất khớp với những thứ lấy được từ di chỉ trước. Một vài nhà khảo cổ mơ mộng nói đã từng tồn tại một cách táng: người ta đặt áo quan lên con thuyền đã đục lỗ, thả trôi. Thuyền chìm ở đâu tức là táng ở đó. Nên người vùng này mới gọi thuyền là quách. Và đôi nam nữ xa nhau ngàn dặm kia thực hiện một nghi lễ thề nguyền bằng những vật dụng chẻ đôi. Mình thì nghi đó là một ca ly dị, khi đọc bài báo, cậu nghĩ rốt cuộc thì mình vẫn theo chủ nghĩa bi quan.
Cậu tới Bắc Hòa khi vừa ký hợp đồng lao động với thời báo Tuổi Xanh hôm trước, hôm sau cả tòa soạn bị lùa đi. Cậu gặp sông Di lần đầu. Hung hãn một cách ráo riết, cay nghiệt. Mặt sông là những xoáy nước đỏ ngầu cuộn xiết. Không có bờ. Hệ thống các con sông lớn ở miền Hạ chìm trong một trận lũ lụt được cho là lớn nhất trong một trăm năm trở lại. Như bị đẩy ra chiến trường, cậu nhai mì tôm sống thay cơm, trùm áo mưa đi suốt ngày cùng ca nô quân đội. Trên cái mặt nước mà cậu áng chừng mấy ngày trước là sân phơi, là chỗ trẻ con chạy chơi cậu chỉ còn thấy thò lên những ngọn cây đẫm nước. Ở vài mái nhà sắp chìm lút, những cánh tay đen đúa thò khỏi mớ ngói vẫy vẫy.
Trên cái đệm cao su rách rã trôi qua có một em bé chừng hai tuổi nằm như ngủ, nước săm sắp đến vành tai. Nửa dưới để truồng, da xanh ngắt. Cậu không khóc được khi ôm xác em nhỏ trên tay.
Căn lều mà cánh nhà báo chui vào qua đêm trên một ngọn đồi trọc, sáng ra thấy tơ nhện giăng đầy. Nhện chạy lũ. Nhìn đâu cũng thấy tơ nhện. Một con chó đổ quạu khi tơ nhện vướng vô mắt đã cắn càn vào bắp chân cậu. Duyên gọi từ bên sông Hậu, nói ở đây thực sự là cái biển rồi. Không biết nước còn dâng lên đến tận đâu nữa, chưa thấy dấu hiệu ngừng. Nếu đại hồng thủy luôn thì có khi Duyên với Ân phải chịu trách nhiệm gầy dựng lại giống nòi. Duyên đùa. Giọng hơi buồn, cô bạn gái thích thầm cậu hồi đại học, thỉnh thoảng lại tuyệt vọng.
Đêm đầu tiên từ vùng rốn lũ về, cậu đã mơ, thấy mình nằm trong quan tài với những vật dụng bằng sứ chỉ còn một nửa. Tú ở bên ngoài gọi mãi nhưng cậu chỉ muốn ngủ thôi.
- Buồn ngủ lắm.
- Dậy đi, muốn gì Tú cũng chiều.
- Không, muốn ngủ thôi.
Vía cậu trả lời. Cái cảm giác những mảnh sắc nhọn của ấm chén cứa tê mê trên sườn cậu. Nhận ra là không mặc gì. Nhận ra da thịt đang rã đi từng thớ một.
Sau đó thì biết mình mơ, lúc mở mắt thấy Tú đang chống tay vào đầu nhổm nhìn, nói Ân ngủ như chết vậy, Tú ngoáy thằng nhỏ mà chẳng thấy nhúc nhích gì. Ngáy pho pho. Nhưng nhìn như đứa trẻ, thích lắm. Rồi Tú vùi vào cậu, khuấy cho tan cái giấc mơ kia ra.
Khi Xu và Phụng quay lại, cậu không nói với họ những điều mình biết về chiếc thuyền vừa thuê được. Xu chê cũ quá, sợ không an toàn.
- Ở đây quách nhà chú tôi là xịn nhất rồi. Kiếm không ra chiếc khác ngon hơn đâu.
Thẳng nhỏ cãi. Nó có cái đầu quá khổ cắm trên thân mình gầy gò. Như gáo dừa úp vào que củi. Tôi tên Hùm. Hùm đầu bư, nó nhấn mạnh thêm, bằng một vẻ trịnh trọng, như thể hai chữ đầu bư mới khẳng định được vị thế của nó. Gãi cặp giò mốc thếch bùn đất, Hùm nấn ná ngồi lại, nhấn mạnh thêm:
- Quách này là ngon nhất ở đây.
Cậu mắc cười nghĩ chắc thuyền nhà khác thủng nhiều lỗ, mục nát, bấy bá hơn trong lúc bưng tô hủ tiếu húp sột soạt đến giọt cuối cùng. Khi hạ tô rỗng xuống khỏi tầm mắt, cậu thấy thằng Hùm hau háu nuốt nước miếng.
Cậu gọi cho nó một tô, nhưng thằng đầu bư uể oải lắc đầu, sáng ăn khoai rồi.
- Anh không trừ vào tiền mướn ghe đâu mà sợ.
- Vậy thì được, thằng nhỏ cười toe, răng đầy bợn vàng khè, mẻ cắc nào thì thím tôi đánh chết.
Nó kể ba lãnh mẹ đi Mỹ rồi nên ở nhờ chú thím. Chị bán hủ tiếu nói mày đừng có xạo, mẹ mày lấy chồng Tàu nên gởi mày lại. Mày làm gì có ba.
- Mẹ nó lội nước lũ mà có bầu. - Chị bán hủ tiếu day qua cậu, cười.
- Kệ tôi. - Thằng Hùm cụp mắt vào tô hủ tiếu, tiu nghỉu vì giấc mơ vừa bị cắt đuôi.
Mơ thôi mà. Nhưng lúc nhỏ thậm chí cậu không thèm mơ về một người cha. Cậu thấy mình đã đủ. Đi đâu mẹ cũng mang cậu theo, dù là học may hay phụ bán quán cơm vào buổi tối. Bạn mẹ toàn đàn bà, và họ yêu quý cậu, sẵn sang thay phiên nhau chiều chuộng cả ngày. Vài người khi gặp lại cậu vẫn thường nhắc chỉ cần dúi vào tay thằng bé một cuộn chỉ thêu sặc sỡ nhiều màu đã đánh rối, bỏ vào miệng viên kẹo, nó sẽ ngồi yên đến chừng nào mẹ muốn. Nó thích gỡ từng sợi chỉ ra, phân loại màu nào theo màu ấy. Diện toàn đồ trắng, nó mặc cả ngày vẫn không lấm lem chút nào. Một thằng công tử bột chính hiệu. Cậu chẳng thiếu gì, nhất là khi dì Út Lớn, Út Nhỏ... ghé qua, cho kẹo và đồ chơi, những món mà họ phải nhịn ăn sáng để dành dụm mua cho cậu. Như đã mặc nhiên hiểu được điều gì đó từ trong bụng mẹ, cậu chưa bao giờ hỏi cha đâu, tại sao bạn bè có mà cậu không có. Mẹ tả về tuổi thơ thằng con cho cha cậu nghe, một cách vắn tắt cho bốn năm nó lững thững vào đời bằng mấy chữ: thằng nhỏ ốm ròm ít nhu cầu nghèo mơ ước, kể cả mơ ước một người cha.
Cậu ngờ là vì câu nói vô tình đó mà cha con cậu mãi mãi chẳng có cảm giác máu thịt với nhau.
- Ngon quá mạng.
Thằng nhỏ lấy ngón tay dơ quẹt vệt nước cuối cùng trong tô hủ tiếu, mút mê đắm, khen. Khi nãy cậu cũng thấy ngon như chưa từng ăn tô hủ tiếu nào ngon đến vậy dù biết nồi súp kia chỉ ngọt vì ninh nhừ vài củ sắn, củ cải trắng... mà tuyệt không có khúc xương nào.
- Dân ở đây nghèo nên cũng nấu theo kiểu nhà nghèo. - Chị chủ quán thú nhận, khen cậu sành ăn, chắc là cũng giỏi nấu nướng. Chỗ cậu ngồi nhìn thẳng vào nhà là bàn thờ treo một cái tranh kiếng vẽ cảnh làng quê tuyệt đẹp với cây cầu, con đò, dòng sông và những mái nhà ngói đỏ lô xô. Không có bóng người trong những bức tranh thờ kiểu vậy. Hồi nhỏ cậu đã thắc mắc suốt, cảnh đẹp vậy sao không người? Chắc vì không người nên mới đẹp.
Dân ở Túi, cả trên bờ và dưới nước quanh năm sống bằng nghề hạ bạc. Thỉnh thoảng thì có dân du lịch tới chơi, tắm táp, chèo xuồng, chạy ghe ra những làng nổi nghiêng ngó để thấy mình thật cao sang, giàu có, hạnh phúc hơn đám người lưu xứ kia. Dân trôi nổi thấy có khách đi chơi nên xiên cá nướng, bán theo chục. Những con cá cũng mòn mỏi như trẻ con ở đây, càng ngày càng nhỏ dần. Có nhà nướng rắn nước, luộc khoai. Bọn nhỏ ngồi bán cứ mong ế ẩm để được ăn những món đã nguội lạnh dần theo mặt trời. Mùa mưa, khách du lịch thưa, lục bình trôi hoang hoang, trong tầm mắt nhìn chỉ thấy bông lục bình cắm cờ tím trên nước bạc. Những cú quăng chài làm loang lổ mặt trời dưới đáy.
Cậu nhìn nước, tự dưng nhớ tới ba chữ “rồi sao nữa?” bồn chồn của Ánh. Có thể chị cũng đã từng đến đây và ở đâu đó trên những làng nổi lụp xụp ngoài đó. Có thể chị là người đàn bà quăng chài làm rung rinh mặt nước kia.
- Ở đây chị có biết người nào tên Ánh?
- Ánh vợ ai?
Sực nhớ ở đây tên riêng của phụ nữ cũng bị mai một.
- Tôi biết vài ba người tên Ánh. Một người ngọng, vợ của Ba Tài nấu rượu, bị chồng say đánh đến sinh non, sau nửa điên nửa tỉnh. Một người là sui gia với bà chị tôi, cao lớn, tướng như đàn ông, ca vọng cổ ngọt dữ lắm. Cũng không phải, hả? Tôi biết mà, cậu từ thành phố tới, chắc người cậu quen cũng từ đó mà đi, thì bộ dạng phải sang chớ. À, tôi từng gặp cô Ánh nghe đâu là nhà báo. Hồi đó lũ lớn, cổ tới đây thì cả vùng này linh láng nước. Dân ở đây như kiến bu lấy cái am trên gò Thốt Nốt. Đói lắm. Cô Ánh ghé qua cho mì gói, rồi ở lại với tụi này một tối, cứ bứt rứt nói vì cô mà nên nông nỗi. Tôi nhớ có một thằng nhỏ mê cổ, cứ lẽo đẽo đi theo, nghe nói đeo đuổi mấy năm rồi. Thằng nhỏ đó người đầy vảy. Miệng rộng. Mắt ti hí. Nó bơi giỏi lắm, lụt lội trắng trời mà nó tỉnh bơ, còn có vẻ mừng. Nó cưng cô Ánh nên lặn bắt cá nướng cho cổ ăn, nhờ vậy cổ đỏ da thắm thịt hơn bọn này.
- Nhà thằng nhỏ ở đâu?
- Đâu biết. Lâu lâu thấy nó lai vãng qua đây. Tánh khí lầm lì nên không có bạn. Nửa đêm đó dân trên gò ngủ hết, tôi ăn mì sống nên đau bụng, đi ngang qua giếng nước của am thì thấy thằng nhỏ quỳ dưới chân cô Ánh, nói hãy đi với tôi, lấy tôi, sinh con cho tôi, rồi chuyện này sẽ qua thôi. Cổ vít cái đầu nó ghì vào ngực mình, không biết cổ cười hay khóc, mà vai cứ run. Định rình coi nữa nhưng bụng tôi sôi quá nên phải chạy lẹ.
- Rồi sao, chị?
- Trăng sao gì nữa. Hết chuyện rồi. Quay lại thì họ biến mất tiêu. Sáng ra không thấy hai người trên gò nữa. Nước bắt đầu rút. Tôi nghĩ thằng nhỏ có vảy chắc là con của Hà Bá. Được vợ nên tha tụi này.
Phụng nghe chuyện, cười ha ha. Cô uống cạn cốc nước, lắc mãi những viên đá chưa tan hết, bộ điệu trễ nải, bồn chồn. Mồ hôi dấp dính vài sợi tóc vào thái dương, Phụng có vẻ lử lả vì lội bộ theo chân Xu.
Câu chuyện này vẫn không phải là câu trả lời cho ông sếp vừa qua đời của mình, cậu nghĩ.
Thằng nhỏ đầu bư gật gù nói nó cũng nghe người ta đồn đãi về con trai Hà Bá. Mẹ nó cấn bầu sau trận lụt, sinh nó ra vào một trận lụt khác. Rốn nó được cắt bằng miểng chai sành, vì gấp rãi chạy lên gò không ai mang theo dao, kéo. Sinh giữa lụt năm Dần nên nó mới tên Hùm. Lẽ ra phải tên Lụt nhưng có một con nhỏ sinh trước nó vài giờ hớt mất cái tên dễ nhớ đó.
- Biết đâu cưng cũng là con của Hà Bá. - Phụng chọc.
- Tui sẽ lôi cổ chị xuống nước đầu tiên.
Thằng nhỏ trả treo, mặt hơi quạu. Quăng hai con mắt trợn trắng qua phía cậu lần nữa, hỏi có chắc là mấy người muốn tự chạy ghe không? Cái nhìn ra vẻ đàn anh, vẻ một tay nghệ nhân nhìn bọn học việc. Xu chỉ cười. Cậu bảo anh này lái ghe được, nhóc mày khỏi phải theo. Chắc không? Tui ngủ được không? Nó rón rén hỏi lại.
- Ừ, ngủ đi.
- Tôi có đổ thêm một thùng dầu. Ra ngoài đó hết dầu là khóc tiếng cóc trời cũng không cứu được. Chống sào ngược gió thì ăn thua gì.
Cậu hỏi Phụng một lần nữa có muốn đi không, cảm giác giọng mình hơi đuối đi, có lẽ vị thẩm phán tuyên án tử lần đầu tiên cũng run rẩy kiểu vậy. Cậu mong cô lắc đầu, “Ở ngoài đó không có gì đẹp đẽ, hay ho hết”.
- Càng không có đàn ông. - Cậu cố đùa.
- Sao lại không? - Mắt Phụng đu đưa giữa hai đùi Xu. Coi như đã lựa chọn. Cô có thể ở lại ngủ một giấc để chờ, nhưng cô chọn cách khác.
đánh máy: Mọt Sách
Nguồn: vnthuquan-thuvienonline
Được bạn: mọt sách đưa lên
vào ngày: 26 tháng 9 năm 2020