Chương Hai ⚝ I ⚝
Biển trải ra ngăn ngắt, ngút tầm nhìn. Những con sóng đùa bỡn va vào nhau tạo nên những ngấn trắng trông như thể có đàn cò đang đua nhau sà xuống mặt nước. Phía xa xa, một nét sắc lẹm giống sợi chỉ căng ra ngăn cách hai màu, màu xanh đậm và màu xanh nhạt. Đó là đường chân trời. Trước sự mông lung, rộng lớn của trời và biển, con tàu trở nên đơn lẻ nhỏ nhoi, chỉ là chấm bé xíu mờ mỏng dập dềnh giữa mênh mông đại dương...
Con tàu đang đi về hướng Bắc. Mặt trời chói chang đổ nắng xuống boong rát bỏng. Thuyền trưởng Thanh đứng đầu mũi, chiềng khuôn mặt sạm nâu ra đón gió. Anh cảm thấy vui và muốn dành cho mình vài ba phút thực sự yên tĩnh để thư giãn. Như một thói quen, mỗi lần đưa vũ khí vào “trong đó” trở về, khi con tàu vượt qua vĩ tuyến quân sự tạm thời, anh mới thực sự thanh thản, thực sự an tâm và lúc ấy mới lại giao tay lái cho thuyền phó Thơm để bước ra vị trí này buông lỏng trí não, mặc cho gió phả vào mặt, một mình thảnh thơi nhìn xuống biển. Thói quen ấy tựa tựa tiếng thở phào khi người ta thấp thỏm gắng làm một việc gì đó mà nguy cơ thất bại là không thể nói trước nhưng đã được đền đáp bằng kết quả ngoài mong đợi.
Con tàu lắc qua lắc lại, chòng chành trôi trên biển. Không chỉ thuyền trưởng Thanh, các thành viên trên tàu đều như vừa trút được gánh nặng của những ngày căng thẳng để lúc này họ mới thật sự an lòng và cho phép mình nghỉ ngơi. Dẫu chưa tới căn cứ, về đến khu vực biển miền Bắc là hoan hỉ coi như đã về nhà. Lạ thật, cũng biển ấy cũng trời mây ấy mà với một chỉ giới vô hình, cái chỉ giới không ai nhìn thấy, không có thật do con người quá khôn ngoan lọc lõi biết lừa mình tự đặt ra đã là hai thế giới cách biệt, thế giới của “bên này”, thế giới của “bên kia”. Cách ngăn. Xa xăm vời vợi... Những ngày cho tàu đi trong thế giới “bên kia” là những ngày lo âu phấp phỏng, luôn đề phòng, luôn đối phó, nơm nớp tai vạ.
Đâu phải lần đầu Thanh đưa con tàu chở nặng súng đạn lặng lẽ luồn được vào vùng đước Cà Mau và trở về trót lọt. Anh đã đi nhiều chuyến như thế, song mỗi lần con tàu nhẹ bẫng quay trở lại biển miền Bắc, khi vượt qua vĩ tuyến mười bảy tâm trạng anh rất lạ. Xen giữa niềm vui, niềm vui rất lớn cả tự hào và nỗi sung sướng nữa là lãng đãng mỏng mảnh một nỗi buồn rất khó gọi tên nhưng anh biết có thật, ẩn đâu đó rất sâu, rất xa hun hút nơi tiềm thức... Hôm qua anh đã đi trong vùng biển quê mình. Từ tàu nhìn vào, thậm chí không cả thấy vệt mờ đất liền, nhưng trong mênh mang không gian trời nước vẫn có cái gì đó, có thể là bằng hoài niệm mơ hồ cũng có thể bằng những linh cảm không hẳn dễ giải thích, anh nhận ra đặc trưng hơi hướng quê hương không mấy khó khăn. Quanh quất đâu đó hình như vẫn là ngọn gió chát lợ rin rít muối mặn thường hào phóng thổi về Tu Bông, Đại Lãnh, Xuân Đài, Vũng Rô..., vẫn ngai ngái mùi vị như thể hương chượp nồng đượm mạn An Hòa, An Phú, làng Cá... Quay một góc chín mươi độ, chạy dăm ba giờ là từ trên tàu có thể trông rõ hòn Đá Bia uy nghi như một mũi lao chĩa lên thách thức trời đất trên đỉnh núi nơi đèo Cả. Đá Bia là đặc ân trời ưu ái phú cho người dân vùng này. Đá Bia cũng là đặc trưng không thể lẫn để nhận biết biển quê anh với vùng biển nơi khác. Không cần hải đăng, ra khơi vào lộng, hễ ngước lên còn nom rõ Đá Bia là dân chài Tuy Hòa an lòng. An lòng về mặt tâm linh và cả an lòng về mặt thực tế, đời thường... Và Đá Bia còn là niềm tự hào của dân Phú Yên. Những đêm trăng, trong tiếng sóng rì rào nô đùa đuổi nhau từ biển vọng vào, các cụ già làng Cát vẫn hể hả giọng mãn nguyện rỉ rả kể lại với con cháu rằng xa xưa, khi vua Lê Thánh Tông bình Chiêm Thành, Người đã từng đi qua vùng đất này. Quan quân giấu mình, lập thế trận trong rừng ẩn. Một hôm nhà Vua ngước nhìn về phía đèo Cả, chợt Ngài bàng hoàng khi phát hiện ra trên đỉnh núi cao nhất vùng xuất hiện một tảng đá khá lớn trông như mũi mác chĩa thẳng lên trời. Nhà Vua cho rằng đây là điềm lạ. Quả nhiên đêm đó Người thấy thần thổ địa vùng này báo mộng cho hay, muốn thắng giăc cần có khí thiêng trời đất nơi những ngọn núi quanh đeo Cả. Người hiểu ra, hôm sau liền mang gươm báu và dẫn tướng lĩnh hăm hở trèo lên đỉnh núi. Núi cao, dốc ngược, cây cối rậm rì, chằng chịt nhưng nhà Vua đi băng băng, hình như sau lưng Người có gió đẩy và dưới bàn chân như thể có ai nâng. Trên cao gió lộng, đứng đây có thể phóng tầm mắt về bốn hướng, nhìn rõ như thể nhìn vào bàn tay mình. Nhà Vua cho bày hương án cạnh tảng đá có hình mũi mác để làm lễ khấn trời đất. Hương vừa được thượng lên, cả một vùng âm ầm gió nổi và mây ngũ sắc từ bốn phương tám hướng lập tức ùn ùn tụ về kết thành từng mảng như bông... Nhà Vua phấn chấn, liền qùy xuống vái lạy và cầu xin được chọn ngày lành tháng đẹp xuất quân diệt giặc đặng mang lại yên bình cho muôn dân. Lời cầu vừa dứt, trời chợt vén mây, cả một vùng bừng lên sáng lòa và bát hương bỗng hóa, cháy ngùn ngụt... Ngọn lửa cũng có hình mũi mác... Biết trời đất linh thiêng ưng thuận và chở che, sau khi thắng giặc trở về, lúc đi qua đây nhà Vua cho quan quân dừng lại. Người ăn chay ba ngày rồi thân chinh lên đỉnh núi bày lễ vái tạ. Khi hương đã tàn, Người bèn ứng khẩu mấy vần rồi dùng tảng đá làm bia, vẩy bút lông đề thơ lên đó. Bài thơ còn lưu truyền cho tới sau này, đại ý rằng: Đi mở cõi trời Nam, lòng người thuận, trời đất thuận; giang sơn gấm vóc này trời đất ban, ông cha tạo dựng; đất Việt của người Việt, cùng chung sức giữ lấy; hợp lẽ đời phải đạo trời, non sông mãi của ta. Từ đó dân làng Cát, và dân Phú Yên gọi tảng đá trên đỉnh núi nơi đèo Cả là hòn Đá Bia và ngọn núi cao nhất vùng ấy được mang danh núi Bia... Trước đây đã một lần thầy giáo Sinh dẫn học trò lên hòn Đá Bia và từ trên chênh vênh hun hút gió ấy thầy say sưa kể chuyện các vua Trần, vua Lý. Chuyện Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng, chuyện Huyền Trân công chúa phải gả cho Chế Mân, chuyện phiêu dạt của đức Lê Thánh Tông, chuyện về công lao mở cõi của Người... Thời đó Thanh nghe nhưng chưa mấy hiểu, là lạ như thể nửa hư nửa thực... Tuy vậy những câu chuyện thú vị đó cứ lẵng nhẵng theo Thanh suốt một quãng đời ấu thơ.
Từ làng Cát chỉ đi chừng nửa buổi đường là tới núi Bia. Nhưng với Thanh hòn núi ấy là cả một thế giới khác đầy bí ẩn và xa lạ! Chiều chiều, những khi mây tạnh, ngước lên hướng tây chỉ thấy một vệt xa mờ như trong thần thoại, hư ảo không có thật. Vậy mà có lần Thanh đã đi được tới đó, đúng hơn là đã gần tới núi Bia. Quê má trước đây vốn ở miệt ấy, một xóm nhỏ lèo tèo mấy nóc nhà nép dưới chân núi. Hàng năm như một điều cần phải vậy, má vẫn sắm lễ thấp thửng lần về vùng đó cúng giỗ. Năm ấy má cho Thanh theo, đường xa lại gập ghềnh nên nhiều lúc để đi được nhanh, Thanh bắt má cõng. Má khoe con trai với họ hàng, mọi người xoa đầu Thanh, lấy làm quý lắm. Thanh trở thành trung tâm của bữa cỗ. Thịt luộc và lòng heo được mọi người ưu ái gắp đầy chén. Ăn rồi còn được chia nắm xôi, miếng thịt và một trái chuối. Đấy là phần của em Thành. Sáng ấy Thành cũng đòi đi, nó mè nheo khóc lóc, dẫm chân xuống nền nhà đành đạch, nhưng làm sao một lúc má có thể cõng được cả hai đứa, chỉ hứa là sẽ mang quà về. Thằng Thành đành cam chịu đứng tựa cửa ngóng theo, nước mắt lưng tròng. Nó nuối tiếc và nó nhớ... Anh em Thanh giống nhau ở sự yếu đuối ấy, hễ má đi vắng nửa ngày, nếu mải chơi mà quên thì không sao, nhưng sực ra là tủi thân lại ngẩn ngẩn ngơ ngơ, có lúc khóc toáng lên, mếu máo: “Má ơi, về với con”...
Từ dạo nghe theo lời ba má, ông bà ngoại chuyển về giáp biển kề làng Cát sinh sống, hàng năm đến ngày giỗ tết, má khỏi phải về trên xóm núi dưới chân Đá Bia. Ngoại ở cách làng Cát một khúc đường nên có dịp như vậy hai anh em đều được má cho đi cùng. Trước đó mấy hôm, hai đứa đã háo hức đếm ngày và mong đợi như thể sắp được đi lễ hội to lắm. Cúng xong cỗ được bày trên những chiếc nong vẫn dùng phơi lúa trải xuống nền sân. Con cháu nội ngoại quây quần xúm xít tranh nhau bốc bải. Cỗ cúng chỉ xôi và thịt heo luộc mà sao ngon thế, vui thế! Ăn xong mỗi đứa còn được vắt một nắm xôi bằng hột vịt và một lát giò...
Những ngày thơ ấu sống bên cạnh má là những ngày đậm ngấm tình mẫu tử, khắc sâu trong trí não thật khó quên. Đã biết cắp sách đến trường để thầy giáo Sinh dạy chữ nhưng hễ tới giờ ra chơi là hai anh em lại co chân chạy về rồi vội vội vén áo má lên, mỗi đứa ôm một bầu vú và đua nhau bú chùn chụt. Mút mát cho đỡ thèm đỡ nhớ chứ phần vì làm lụng vất vả phần vì con đã lên bảy lên tám má làm gì còn sữa! Rồi khi tiếng kẻng dóng lên báo tiếp tục vào giờ học, Thanh và Thành lại tiếc rẻ buông vú, cuống quýt lao về lớp. Biết chuyện, tụi bạn thường đón đường chế giễu: “Êu ôi, không biết xấu hổ, lớn ngộc còn
rờ vú má”. Thằng Ba Hoàng cháu lão chánh tổng bĩu môi: “Đàn ông suốt ngày bám vú má lớn lên bốc cứt mà ăn”. Cũng ngượng nhưng đôi vú của má có sức hấp dẫn và có ma lực như thể ma túy, anh em Thanh giống con nghiện đã bập vào quá sâu khó có thể rời. Bị đám trẻ la hét, nhưng đêm đến anh em Thanh, Thành lại choàng tay qua bụng má, mỗi đứa rúc ngậm một bên vú rồi khìn khịt ngủ lúc nào không hay... Hai anh em thường thức giấc khi mặt trời đã lên quá cây sào. Ra hiên sau, sục vào lu nước tớp vài ba ngụm ục ục súc miệng, vào nhà vớ củ khoai má để sẵn trên bàn rồi không kịp bóc vỏ, vừa chạy gằn đến lớp vừa tống vội tống vàng vào miệng. Có hôm đến trễ, thầy giáo bắt cả hai đứng quay mặt vào vách suốt giờ thứ nhất. Tan học, bọn trẻ nhìn hai anh em và ê a đồng thanh hát: Ăn khoai cả vỏ, ăn chó cả lông, đi học trễ giờ, bị thầy phạt đứng... Bực, không biết trách ai, về nhà thằng Thành trút vào má: “Sao má không kêu tụi con?”. “Má gọi hoài nhưng hai đứa nào có chịu dậy... má thì còn phải ra chợ.” - Má thanh minh... Thằng Thành cự nự: “Hôm mai kêu không được má múc nước lạnh đổ vào người con nghe. Đến lớp trễ ê lắm...”. Nhưng không cần phải dội nước vào người, những ngày kế đó, hễ má dậy là hai đứa cũng lồm cồm bò ra khỏi giường. Thầy Sinh khen: “Dịp rày hai trò Thanh và Thành tiến bộ ha”. Đang tuổi mải chơi, mải học nên thời ấy Thanh đâu đã thấu nỗi vất vả khó nhọc của má. Ba đi kháng chiến biền biệt, họa hoằn lắm nửa năm mới đảo qua nhà một lần, mọi chuyện trong gia đình chỉ mình má cáng đáng lo toan, từ việc chăm sóc ông bà ngoại đến việc nuôi hai đứa ăn học. Ngoài công việc trồng tỉa mấy sào vườn, thời gian còn lại tranh thủ chạy chợ. Má mua chợ trên, tất tả về bán chợ dưới, lúc mớ tôm, hôm mớ tép, và những thứ tạp nham không tên khác. Vốn không, phương tiện không nên má chỉ biết nhặt nhạnh lắt vặt, thứ gì thấy có thể lãi vài ba xu, kiếm thêm lẻ gạo dù vất vả má cũng làm.
Căn nhà giữa xóm không có đàn ông, chỉ đàn bà và trẻ nít nên tuyềnh toàng, xiêu vẹo, mái dột rách cũng chẳng có người chằm vá, bởi vậy ban đêm khi mưa xuống, ba má con lại cắp chiếu chạy vòng quanh, lo co ngồi tựa lưng sưởi ấm cho nhau. Hồi ba về để chuẩn bị đi tập kết, ngồi ăn cơm trong nhà ngước lên thấy cả sao trên trời, ba tự trách mình đoảng rồi quyết định chằm vá lại. Hôm sau mấy ba con lăn lội lên mãi hòn Hống chặt lá dừa chở về rồi cùng xúm vào đan, lợp... Mất hơn ba ngày mọi việc mới xong. Thấy căn nhà được vá xíu tươm tất hơn, má mừng lắm, hôm “khánh thành”, má lên tận Lân Cồ mua mấy lạng thịt bò về nấu dấm khế gọi là bồi dưỡng cho ba ông thợ, cũng là làm bữa ăn tươi chuẩn bị tiễn hai ba con đi ra Bắc... Vậy mà đã hơn mười năm... Giá có đôi cánh để Thanh bay về làng Cát thăm má, thăm thằng Thành một lát! Sao mỗi lần tàu đi qua vùng biển Phú Yên lại da diết nhớ má nhớ em đến vậy chớ?... Từ vị trí con tàu trên biển về quê gần lắm, chỉ chừng chưa quá nửa ngày đường mà sao cảm thấy cách trở xa ngái vời vợi...
Con tàu vẫn đi về hướng Bắc. Sóng không lớn nên nó chạy khá êm, chập tối đã tới vùng biển Thái Bình. Ngày mai khi trở về đơn vị, thể nào Thanh cũng xin phép lên phố thăm ba. Trời ơi, nếu biết Thanh vừa chở vũ khí vào Nam và đã từng đi qua vùng biển Phú Yên, chắc ba mừng lắm, ngạc nhiên lắm. Ai ngờ cuộc chiến này có những khúc ly kỳ như huyền thoại chỉ có thể là chuyện trong tưởng tượng chứ chẳng phải sự thật! Sau này nếu có điều kiện viết lại rằng một thời của chiến tranh có những con người, những con tàu không mang theo số hiệu đã từng xuyên qua biển Đông vẫn lặng lẽ chở hàng trăm tấn vũ khí cho miền Nam chiến đấu chắc gì đã có người tin! Ba ơi, rồi có một ngày nào đó con sẽ kể với ba, và cả kể lại cho má và em Thành nghe nữa. Lúc đó thể nào ba cũng ngạc nhiên và hỏi: “Có chuyện vậy thiệt sao?”. Còn má chắc là gạt nước mắt trách rằng qua gần nhà mà không cả ghé vô thăm má một lần, tệ quá. Còn bây giờ thì con không thể nói ra những điều ấy. Và con tin ba thông cảm được. Ba là người kín đáo. Đã bao giờ tò mò hỏi công việc cụ thể của con! Vốn là bộ đội nên ba rất ý thức về nhiệm vụ quân sự. Nhiều lần chính ba khuyên: “Việc quân sự, làm gì, đi đâu con đừng khoe với bạn bè nghe, phải biết giữ bí mật”. Thời mới ra Bắc, khi còn đang theo học trường miền Nam ở Hải Phòng, một lần gặp đoàn xe quân sự chạy qua, thấy nhiều, con tò mò đếm chơi, lúc ấy ba đã ngăn lại: “Con không nên biết những chuyện không phải của mình”...
... Đêm mông lung. Biển mịt mùng trải ra nhìn vào tựa như một khối đen khổng lồ đặc quánh vô tận. Về khuya gió Nam nổi lên khá mạnh khiến con tàu chao lắc. Thanh bước vào buồng lái. Hùng đứng bên vô lăng quay qua:
– Thuyền trưởng không xuống khoang nghỉ một lát?
– Tàu ở khúc nào rồi?
– Với tốc độ này trưa mai ta có thể về đến Hải Phòng.
– Để mình cầm lái nhé, Hùng tranh thủ ngủ đi!
– Tôi mới thay ca... Vùng biển này quen rồi, thuyền trưởng cứ nghỉ.
– Không mệt?
– Về tới đây là quên cả mệt nhọc.
Thanh thấy vui. Anh bước ra boong. Trời đặc sao, chòng chành. Đêm dìu dịu. Các thủy thủ chưa đến ca trực túm tụm người nằm kẻ ngồi ngả ngốn giữa boong tán chuyện. Có chàng ngửa mặt lên trời nhìn sao ti tỉ hát một mình. Không có người nghe, nhưng lấy làm khoái, gào rống say sưa lắm. Cạnh đó thuyền phó Thơm đang kể chuyện. Chẳng rõ anh nói những gì, chỉ thấy đám lính bá vai nhau cười ngất. Thơm giỏi bịa, trên trời dưới biển, chuyện gì cũng tỏ ra am tường nên đám lính trẻ khoái và ham lắm. Hễ Thơm ngồi đâu là họ sán lại. Anh có sức cuốn mọi người như nam châm hút mạt sắt. Nhấp nhỉnh ba lăm, nói như đám thủy thủ vẫn giễu, một mảnh tình vắt vai không có nhưng anh sống vô tư, hồn nhiên và hình như không mấy để tâm đến “tìm hiểu”. Chuyện vui chuyện buồn, chuyện gì anh cũng xởi lởi phô ra, nhưng “chuyện đó” lại là két sắt hàn kín, đố ai cậy mở được. Nếu chàng lính trẻ nào đấy có ý định bật nắp, anh chỉ cười, hoặc đánh trống lảng bằng cách xoay qua chuyện khác. Chẳng ai, kể cả láu cá như Hùng hàng hải cũng vò đầu bứt tai thừa nhận: “Lão gắn xi rất chặt, không có cách gì bậy ra được. Rắn lắm! I nốc lắm! Hay thuyền phó Thơm không phải đàn ông?”. “Râu lão mọc nhanh như cỏ dại gặp nước đái bò, hai ngày không cạo đã đâm tua tủa, còn món kia lủng la lủng lẳng như quả mướp treo giàn... không đàn ông là thế nào?” - Hậu thông tin cãi. “Chắc khó tính, cầu toàn quá nên chưa tìm ra đối tượng” - Thiền, thủy thủ bàn góp...
Chuyện riêng của Thơm, ở tàu này chỉ Thanh rõ. Với mọi người, riêng tư của anh là cái két sắt hàn xi kín bưng nhưng với Thanh thì đó là chai sâm banh, đã bật nút là sùi bọt hết cỡ...
Thanh ở Tuy Hòa, Thơm quê ở Sông Cầu, hai huyện cách nhau cả chục cây số, nhưng ra Bắc vẫn là đồng hương. Thơm hơn Thanh gần chục tuổi nhưng hai người thân nhau như anh em, phần vì người cùng tỉnh, phần vì hợp tính, với nữa tuy là cấp trưởng song Thanh rất tôn trọng Thơm. Thanh được học hành, Thơm có kinh nghiệm đi biển, thuộc luồng lạch, thuộc địa hình... Hai người hỗ trợ cho nhau và trở thành cặp thuyền trưởng thuyền phó ăn ý.
Dáng vẻ bề ngoài và tính tình xởi lởi của Thơm khiến nhiều người mới gặp nghĩ rằng anh hời hợt tào phào vô lo, ngược lại, Thanh biết anh là người hết sức sâu sắc, đa đoan, đa cảm... Chuyện tình của anh không như đám lính trẻ nghĩ. Anh có nỗi đau riêng nhưng biết nén vào trong... Anh không chỉ yêu mà còn yêu rất sâu nặng. Người ấy tên Hiệp, ở cùng làng. Dễ coi, mau mồm, mau mắt. Đôi má lúc nào cũng hồng đỏ mịn mát như trái mận mới hái. Cặp mông tròn, hai vú cũng tròn. Đi lại nhanh nhẹn hoạt bát... Khối gia đình trong làng có ý nhòm nhỏ chấm cho con trai mình. Lưng chữ gụ vú chữ tâm, háng rộng mông nở, đàn bà như vậy quý tướng, mắn con, dễ sinh, dễ nuôi. Nhưng cuối cùng Thơm thắng. Anh chiếm được cảm tình của người đẹp chẳng phải tài cán gì, thậm chí còn không biết cả tỏ tình, không biết tán tỉnh, nói những lời, như đám thanh niên vẫn gọi là những điều có cánh. Cô gái người làng ấy yêu anh chỉ vì anh là bộ đội chủ lực. Hồi đó bộ đội chủ lực có giá lắm. Ai may mắn vớ được là vinh dự, là điều đáng tự hào và hãnh diện. Với nữa anh thật thà, trung thực. Lại dát gái. Những dịp gặp nhau, không rủ đi chơi, chỉ ngồi nhà nói chuyện, thậm chí thời mãn tìm hiểu, tiền hôn nhân, việc cưới xin đã có bàn định mà chưa một lần dám cầm tay người yêu. Điều “phi giới tính” ấy khiến Hiệp vừa mừng cũng lại không hẳn bằng lòng. Con trai gì mà vừa chạm khẽ vào người yêu đã run lên như dẽ. Nhưng gia đình thì cho rằng người không suồng sã vậy là quý lắm. “Điều quan trọng nhất ở người phụ nữ là lấy được thằng chồng tử tế con ạ!” - Bố mẹ vẫn khuyên Hiệp như vậy và trong thâm tâm cô cũng cho rằng duyên phận mình không đến nỗi nào... Còn bạn bè vẫn ghen tị nói với cô dâu tương lai: “Lành quá, nhưng đàn ông đứng đắn như lão đốt đuốc tìm cả năm không ra. Lấy được người đó thật đáng. Số mày có phúc”. Nghe những điều như thế, cô đỏ mặt cúi xuống cười ngượng. Chẳng rõ sung sướng hay xấu hổ...
Không mấy ai có tình yêu sâu nặng như Thơm. Từ ngày yêu Hiệp gần như anh chẳng hề biết đến người phụ nữ nào khác nữa. Anh dành tất cả tình cảm cho cô. Có tấm vải dù thu được lần máy bay Pháp ném hàng xuống Tây Nguyên, anh vuốt gấp cất kỹ trong ba lô, chờ có dịp sẽ tặng. Ngày nhớ, đêm mơ, hầu như lúc nào hình bóng cô gái người làng cũng tối thượng ngự trị trong lòng... Mấy tháng trước khi kết thúc chiến tranh, anh được qua nhà hơn tuần lễ, cô gái đột nhiên chủ động đề nghị cưới. Anh ngỡ mình nằm mơ. Người mà anh yêu hơn cả bản thân, cô gái xinh đẹp nhất làng, niềm ao ước của bao chàng trai sắp trở thành vợ anh! Trời ơi, số phận thằng lính chiến nay sống mai có thể chết, không vụn nhỏ tương lai sao may mắn làm vậy! Gã đàn ông chỉ biết cầm súng với một chút mỏng mảnh danh hão còn mong gì hơn là có một người vợ như Hiệp! Thần hạnh phục đã gõ cửa sao lại có thể bỏ lỡ!... Các thủ tục được hai gia đình vui vẻ, mãn nguyện và hài lòng nhanh chóng thu xếp... Nhưng..., lại nhưng... Cuộc đời oái oăm và trớ trêu, thậm chí gây ra biết bao bi kịch phiền nhiễu bởi cái chữ nhưng ngất ngưởng khốn khổ khốn nạn ấy... Nhát búa có lẽ quá nặng đã đột ngột tàn nhẫn bổ xuống đầu khiến Thơm chưa chuẩn bị chống đỡ nên choáng váng. Trước hôm cưới, lần đầu tiên đêm đó hai người rủ nhau ra bãi ngô giáp bờ sông ngồi nói chuyện. Qua ngày mai nữa họ đã là vợ là chồng rồi. Tối ấy Hiệp chủ động gục khuôn mặt mát mịn và lúc nào cũng đỏ hồng như trái mận chín mới hái vào vai Thơm. Anh lặng đi trong niềm hạnh phúc ngoài cả sự tưởng tượng. Và lần thứ nhất trong đời anh mạnh bạo bộc lộ bản tính đàn ông nơi mình, chủ động xoay lại, tìm tay người yêu và run rẩy làm động tác tỏ ý muốn được hôn cô. Song thời điểm anh nghĩ rằng mình đang là người tột cùng sung sướng ấy, cô gái lấy tay tránh né cặp môi nóng rức của anh: “Cho em nói điều này đã”. Và không chờ anh phản ứng, với giọng bình thản có vẻ như đã chuẩn bị trước, cô mạch lạc nói rằng mình đã có thai được ba tháng... Mới nghe lời thú nhận tỉnh queo từ miệng người yêu thốt ra, anh ngạc nhiên không hiểu gì cả, lại còn tưởng cô đùa. Cái gì có tên gọi là thai ba tháng?... Nhưng sau mấy phút bàng hoàng, hình như sự nhạy cảm đàn ông mách bảo, và trước thái độ của cô gái, anh hiểu dần mọi lẽ. Một thứ gì đó không hẳn chỉ là nỗi đau, buốt nhói lan khắp cơ thể! Anh rùng người, cảm thấy chơ vơ như không chỗ bấu víu bỗng dưng tuột tay rơi vào vực thẳm. Chới với, lơ lửng. Mọi cảm giác đều trở nên không thật nữa... Có những điều hãi hùng bỗng chốc khiến người ta tan chảy như băng gặp lửa, có nỗi đau quá đột ngột làm người ta khó hiểu trơ chai hóa đá. Thơm trong trường hợp này đang hóa đá...
– Em không muốn lừa anh! - Cô gái nói tiếp, giọng rất tỉnh. - Em có lỗi, nhưng em yêu anh, vâng, rất yêu anh và bởi yêu anh nên em không thể không nói ra...
Khi kể lại với Thanh, Thơm bảo rằng lúc đó có cảm giác rất lạ, ý thức tình cảm bị xúc phạm khiến anh như thể chai lỳ, lạnh băng, nghe chuyện mình lại ngỡ đang nghe chuyện người khác. Anh chợt hỏi:
“Với ai?”, và lặng đờ như tượng gỗ. Anh hỏi chỉ để hỏi, hỏi như một phản xạ tự nhiên, một thói quen tự ái pha chút tò mò bật ra trong những trường hợp như vậy. Hỏi không hẳn để chờ câu trả lời. Mọi giải thích lúc này còn có nghĩa gì!... Cô gái giấu mặt xuống hai đầu gối nghẽn khóc rồi thanh minh rằng chưa lúc nào cô không yêu anh, nhưng cô đã yếu đuối, nhẹ dạ và bởi vậy trở thành kẻ dại dột, có lỗi. Cô không mong anh tha thứ. Cô cũng chẳng nghĩ rằng mình được như vậy... Ban đầu cô có ý định khác, nhưng khít ngày cưới, cô thấy không nỡ, không thể... Người chất phác trung thực như anh không đáng phải chịu lừa gạt... Cô sẽ nuôi con và cuộc đời còn lại quyết không lấy chồng, chỉ dành để mãi nhớ đến anh và coi đấy như một động thái chuộc lỗi lầm.
Anh câm nín giống như hòn sỏi đang cầm trong tay, nghe mà không hiểu gì cả. Sau nỗi choáng váng, là sự hoài nghi và sợ hãi tới mức không thật rõ tâm trạng mình. Thương cô? Trách cô? Nuối tiếc và căm thù? Đủ cả, trong anh là sự hòa trộn giằng xé của rất nhiều trạng huống tình cảm được đan giăng, móc ráp... Anh không gặng hỏi gì thêm, anh thấy mình không nên làm điều gì vô nghĩa nữa, không nên móc lôi nỗi đau đã rồi của cả hai ra nhấm nháp. Cái thai trong bụng là của ai còn có nghĩa gì... Nhưng cô lại khác, hình như ở vào tình thế ấy, tình thế người con gái biết chắc sắp vĩnh viễn chia tay người đàn ông, nên trong nỗi bàng hoàng ân hận người ta muốn nói hết, nói tất cả. Nói ra không chỉ để giãi bày, để được thông cảm sẻ chia, mà trước hết là nhu cầu tự thân. Cô cần phải như vậy. Cô muốn anh nghe cô một lần cuối nữa, một lần để rồi mãi mãi anh là quá khứ, dẫu rằng anh không xa cô thì cô cũng không thể đến với anh...
Phải, hôm đó là phiên chợ huyện. Cứ nửa tháng lại có một phiên chợ như thế. Xế chợ, sát ngay cổng ra vào có cái quán thợ rèn, khách khá đông. Lão thợ cả tay chân to như hộ pháp vừa đập búa lên mặt đe vừa đưa đôi mắt như hai con ốc nhồi nhìn ra có ý tìm cô. Lão biết tuần chợ nào cô cũng có mặt. Cặp đùi dài, đôi mông mẩy nhún nhẩy theo nhịp bước như khiêu khích khiến lão để ý từ những phiên chợ trước đó. Cô cũng cảm nhận được từ nơi lò bễ đang phun lửa đôi mắt ốc lồi vẫn hướng vào cô như muốn xé từng mảnh vải trên người mình ra. ở tình thế ấy sẽ chẳng có chuyện gì nếu cô lảng đi lối khác hoặc không tò mò len lén khoái trá đưa mắt nhìn vào để lại gặp đôi mắt đó và như thể đánh tín hiệu đồng tình. Song cô lại không làm được thế. Đôi mắt đĩ thõa của lão thợ rèn cũng là một thứ ma lực. Cô bị hút vào và dần dà, chẳng rõ tại sao đâm nghiện. Tuần nào không đi chợ để gặp cái nhìn cháy da cháy thịt của gã đàn ông to con ấy, cô cảm thấy như tuần đó thiếu thiếu cái gì. Bởi vậy, dù không có nhu cầu mua sắm cô cứ ngong ngóng tính ngày chợ phiên. Và đã lên chợ là thể nào cũng cố tình diễu qua quán thợ rèn. Người đàn ông khỏe mạnh, bắp tay cuồn cuộn và ánh nhìn đa tình mời mọc đó khiến cô đêm đêm thức giấc khổ sở khó chịu. Rồi những khi lười ngủ đã dễ dãi thả lỏng mặc cho đầu óc tự do tưởng tượng ra bao điều... Cô ngạc nhiên không giải thích được tại sao mình lại như thể bị ma làm và những lúc lửa bùng lên trong người đâm thù ghét, khinh bỉ bản thân. Nhưng cô không có khả năng cưỡng lại dục tính vốn là bản năng tự nhiên mạnh mẽ chẳng hẳn ai tạo hóa cũng phú cho và những dích dắc ma mãnh nhiễu sự của cuộc đời. Rồi cái gì phải đến đã đến. Hôm đó trời lất phất mưa, chợ vắng. Lão thợ rèn phố huyện đã có chủ định giăng bẫy từ trước hớn hở đón cô ngay đầu cổng chợ. Khi cô cúi xuống mua nải chuối xanh rồi ngẩng lên, đôi mắt ốc nhồi với cái nhìn như tia lửa khiến cô phải vật vã hằng đêm đã ở ngay cạnh. Khuôn mặt lão hôm nay khá dễ coi. Lão cười, nụ cười cũng duyên và hiền:
– Hiệp vô quán nghỉ chút kẻo ướt hết.
– Sao biết tên? - Cô giật mình ngước lên nhưng không từ chối ánh nhìn của lão. Cô bối rối hỏi nhỏ, đôi mắt đưa ngang ngó quanh, và hai má nóng ran.
– Quan tâm mà... Hôm nay cho thợ nghỉ, vào quán uống nước nghe, tôi ở nhà một mình...
Cô e ngại nhìn lão, cũng có cảm giác hoảng sợ, và cả ngạc nhiên nữa, nhưng trước nụ cười như thể có cái gì cầu xin, mời gợi, chẳng rõ sao lại có sức thôi miên khiến cô không điều khiển được mình nữa. Một thoáng lưỡng lự rồi giống cái mạt sắt cứ bị nam châm hút, phút chốc cô lẵng nhẵng như một sự tò mò vô thức không định trước, bước theo lão về quán.
Ngăn cách cái bễ thụt lửa là một tấm vách lớn. Phía sau tấm vách vốn là giường ngủ của gã thợ rèn... Tâm điểm cái bẫy là chỗ đó. Đầu óc nóng ran, cô rối tinh, chới với quay cuồng trong sự lẫn lộn giữa những liên tưởng đêm đêm với thực tại đang diễn ra và cuối cùng sập bẫy không mấy khó khăn...
– Anh ơi, đó không phải là tình yêu... - Cô gái cố gìm lời kể, nhưng giọng uất ức nghèn nghẹn hết sức khổ tâm. - Em không giải thích được... Vâng, không sao giải thích được... Ngay cả khi đó, khi em như một cái xác không còn cảm giác phản ứng, sợ hãi và bàng hoàng đồng lõa để lão làm gì thì làm, em vẫn nghĩ đến anh... Em thề... Em vẫn yêu anh lắm!...
– Thôi! - Thơm hét to và làm một cử chỉ hết sức phũ rồi đanh khuôn mặt, vốn hiền lành, lúc này nom sợ hãi như khuôn mặt của kẻ làm ở lò sát sinh, nghiến chặt hàm răng khiến cái cằm bạnh ra, đứng dậy hoảng loạn chuyếnh choáng rời khỏi ruộng ngô. Phía sau lưng vẫn kìm nén tiếng khóc tức tưởi nuối tiếc và ân hận của cô gái.
Tiếng khóc tức tưởi đau đớn và tiếc nuối ấy lẵng nhẵng theo anh suốt hơn chục năm qua. Và anh đã phải tự bọc tình cảm của mình, gắn xi giấu kín trong lòng. Đêm đó Thơm không ngủ, sáng hôm sau anh đeo ba lô trở về đơn vị. “Vì công việc đột xuất, đành phải hoãn ngày cưới, con xin lỗi ba má.” Trước sự ngạc nhiên của ông bà già, Thơm giải thích và tuông đi như thể chạy trốn. Mấy tháng sau, anh nhắn về quê rằng, đã theo đơn vị ra Bắc tập kết. Thời gian ít nên không thể qua nhà tạm biệt ba má được...
Thơm không nói nhưng Thanh biết bi kịch tình cảm nơi anh là ở chỗ thời gian không làm cạn nỗi đau đáu nghĩ tới người phụ nữ đã phụ bạc mình. Anh không có cái bản lĩnh cần thiết đặng vượt qua sự ích kỷ và lòng tự trọng để tha thứ cho người phụ nữ ấy, nhưng tình cảm yếu mềm hay đúng hơn có cái gì đó rất số phận khiến anh không thể quên cô. Nỗi đau của mối tình đầu theo anh đi suốt những tháng năm qua làm anh trơ chai, nhiều lúc tỏ ra ngớ ngẩn trước mọi sự giới thiệu mai mối của bạn bè, dửng dưng như thể “hay là không phải đàn ông” mà đám thủy thủ vẫn giễu...
... Đêm đã khuya. Thanh không thấy buồn ngủ. Anh nhìn xuống biển. Sao chòng chành nghiêng ngả. Chùm Thần Nông như thể ông già kiên nhẫn ngồi câu cá bên sông mỏi lưng, đang cúi gập xuống. Ngày trước, trong những đêm hè nóng bức, Thanh và Thành vẫn khênh chiếc chõng tre ra sân ngồi hóng gió và ngửa cổ đếm sao trên trời. Má vẫn đố hai đứa tìm ra chùm Bắc Đẩu và sao Hôm. Thành bao giờ cũng nhanh trí hơn, má dạy một lần là nhớ, bởi vậy nó thường tìm thấy những ngôi sao đó trước Thanh. Một lần má nói rằng những người đánh cá trong vùng khi lạc biển phải nhờ hai ngôi sao đó để tìm đường về. Khi đó Thanh chưa mấy hiểu, ai dè bây giờ anh là người vẫn phải nhìn hai ngôi sao ấy để dò hướng đi... Nếu lúc này má hỏi, thằng Thành có nhanh bằng ông anh thuyền trưởng?... Những đêm như thế hai anh em mãi nhìn sao rồi ôm nhau ngủ lúc nào không hay. Khuya, má phải bế từng đứa vào giường. Sáng ra thằng Thành vẹo mồm ngáp rồi hỏi: “Đêm qua con và anh Thanh ngủ ngoài chõng mà”. Má giải thích: “Muỗi nó khênh hai đứa vô giường đó”. Thằng Thành ôm chim chạy vội ra vườn. Đái xong, một tay cầm cái của quý ấy lắc lắc, tay kia dụi dụi mắt bước vào nhà hét toáng lên: “Vở em đâu, anh Thanh?”. Má mắng: “Thằng Thanh là hầu của con sao? Đi học về chỉ mải chơi...”. Nó không đáp, vớ mấy cuốn để trên bàn hơ hải chạy tới lớp. Thằng Thành rất sợ muộn giờ bị thầy giáo phạt...
– Có điều gì phải suy nghĩ hay sao mà không chịu ngủ? - Thơm bước tới ngồi xuống cạnh Thanh và hỏi - Hay là nhớ em Lý?
– Thời đi học anh Thơm đã bao giờ bị thầy giáo bắt quỳ thớt mít chưa? - Thanh nói - Gai nhọn đâm vào đầu gối đau lắm nghe.
– Quỳ trên vỏ mít thì chưa nhưng bị thước gõ vào các ngón tay thì nhiều. Cớ chi tự dưng hỏi chuyện đó?
Thanh cười:
– Thấy nhớ thằng em! Chẳng rõ chục năm rồi hắn sống ra sao, có biết thương má không?
– Nè, các cụ trong làng mình nói rằng mỗi con người đều ứng với một ngôi sao trên trời, chẳng rõ có đúng. - Thơm nhìn theo ngôi sao như một vệt sáng đang lao xuống biển và nói.
Thanh nhìn ra, không đáp.
Con tàu vẫn lầm lũi đi trong đêm...
*
Dòng sông xanh ngắt lượn quanh mấy ngọn núi đá mấp mô nhiều hình thù kỳ quái, từ trên cao nhìn xuống có cảm giác chòng chành, hun hút. Đám lính kháo nhau rằng nơi đây là vùng đất dữ, xưa kia vẫn có con thuồng luồng lớn ẩn dưới mặt nước chuyên lật thuyền bè qua lại. Ngôi miếu bé nhỏ thời gian làm cho mốc thếch cũ kỹ giáp bãi tập kề dòng sông dưới chân núi, người bảo dân quanh vùng xây để thờ thần sông, kẻ lại nói ngôi miếu cất lên nhằm tưởng nhớ những oan hồn không may bỏ xác dưới nước. Các cụ trong làng sau chân núi, nơi đơn vị đặc công thủy đóng quân kể rằng trước đây, khi ngọn núi chưa bị đào bới, cây cối còn um tùm, đêm đêm vẫn nghe từ đó tiếng gào rú khóc lóc thảm thiết vọng tới. Những hôm tối trời, hàng đàn ma cụt đầu lướt trên mặt nước vút vào làng quậy phá đòi ăn. Ngôi miếu được xây bởi vậy. Chuyện thực hư không rõ, nhưng người trong vùng chưa ai dám một mình lên núi lượm củi hay chèo thuyền qua khúc sông này. Núi cao, sông sâu, địa thế ngoằn ngèo hiểm trở tạo cảm giác rờn rợn, nơm nớp sợ hãi... Nhiều người liều lĩnh nên đã phải bỏ mạng. Bà Cả Xớt, đang trưa trèo lên lưng chừng núi tìm lá thuốc, không thấy về. Chị Thước con dâu ông Tùng có việc ra bờ sông, mất tích luôn... Mấy đứa trẻ đúng ngọ rủ nhau men ra bãi tắm, khi người nhà lo lắng tuông tới, thấy đứa nào cũng nằm úp mặt xuống nước, từ mặt sông râm ran vọng tới tiếng ca i ỉ giống như tiếng bọn trẻ vẫn hát đồng dao...
Từ ngày đơn vị đặc công nước về đóng quân và lấy đoạn sông làm thao trường luyện tập, người trong vùng đỡ sợ, mỗi lần lên núi hay có việc phải đi qua sông thấy vững dạ hơn.
Sáng sớm, Tư Lăng dẫn phân đội ra bờ sông. Sau khi phổ biến mục đích yêu cầu của buổi tập, anh cho đơn vị cởi bỏ quần áo, ngậm ống thở và xuống nước. Hôm bơi dọc sông, hôm bơi qua bơi lại, tùy theo giáo án. Những ngày mới về, nghe chuyện các cụ trong làng kể, đám lính trẻ mỗi lần xuống nước cũng chờn chợn. Có người đề nghị phân đội trưởng cho được thắp hương nơi ngôi miếu trước mỗi buổi tập. Ban đầu Tư Lăng ngại nhưng cuối cùng đồng ý, anh đơn giản nghĩ rằng làm vậy để các chiến sĩ bước đầu đến với sông nước an tâm hơn. Ai ngờ bị phê bình. Hôm họp cán bộ toàn tiểu đoàn người ta chì chiết anh hữu khuynh, thiếu quan điểm, lạc hậu, duy tâm và a dua theo quần chúng... Từ đó không một bóng bộ đội nào ra miếu thắp hương nữa.
Tư Lăng không chỉ là cán bộ phân đội, anh kiêm luôn giáo viên huấn luyện, vừa bơi vừa hướng dẫn chiến sĩ tập. Anh vốn biết bơi từ nhỏ. Đấy cũng là lý do đang làm thủy thủ trưởng trên tàu cấp trên lại điều về đơn vị đặc công nước này. Thời còn nhỏ sống ở quê ngày nào Tư Lăng cũng ra Lung Giang vẫy vùng, có hôm trăng lên mới rủ nhau về. Nhiều đêm trốn ba má cùng bạn bè ra ngâm mình trong nước tới khuya. Dòng sông quê anh không giống như những con sông khác, thượng nguồn thường là từ núi cao đổ xuống, sông Lung như thể một nhát cắt của tạo hóa tách vùng đất này thành cù lao lớn. Hai đầu nhát cắt là cửa Đang và cửa An Hóa. Lung Giang là con sông duy nhất nối biển với... biển. Bởi vậy quê anh là xứ sở của nước lợ, của cát, cát cuốn vun thành từng nổng, chạy suốt chiều dài làng; là xứ sở của trảng, của vũng; là nơi chỉ có cỏ cụm, lông chông, và xương rồng; một vùng đất nghèo, tối ăn khoai đi ngủ, sáng ăn củ đi làm... Từ thôn này qua thôn kia cát bỏng rộp chân, con gái phải gập chúi về phía trước mà nhấc từng bước, cái dáng đi thật thương! Nơi đây mùa khô hạn, mùa mưa thì úng. Người quê anh tay chai dây gầu, vai bầm đòn gánh để sinh tồn. Một gốc lúa phải đủ trăm gánh nước mới có cơ trổ bông. Sáng sớm thức dậy, việc đầu tiên là quẩy gánh hàng trăm đôi gầu nước tưới. Đất nóng, cát xốp háo nước uống ừng ực. Tháng tám làm lúa cũng phải đai đôi gầu trên vai mà chăm từng gốc. Thương nhau thương cả đôi gầu là thế. Nhưng người biết yêu cát thì cát không phụ. Ở vùng nước nhỉ này trồng khoai khoai tốt, gieo đậu, đậu xanh. Lúa cấy trên cát, lúa vẫn mượt. Khoai lang quê anh nức tiếng khắp vùng. Đã ăn một lần, vị ngon ngọt thơm bùi sẽ đọng mãi nơi đầu lưỡi...
Mỗi lần ra sông tập, Tư Lăng lại nhớ về Lung Giang. Con sông ấy với anh có quá nhiều kỷ niệm. Tuổi thơ, tình yêu, tình vợ chồng đều được phong giữ ở đó... Thời chưa lên cứ, mỗi lần nước cường, Tư Lăng ra sông đóng cọc quây lưới. Nước rút, cá mắc vào, chỉ việc gỡ xách về cho má. Nước sông không mấy ngọt nhưng sẵn tôm cá. Đến mùa sinh sản chúng hí hở đua nhau đẻ rào rào. Thức ăn của làng dựa hầu hết vào đó. Hồi đã là bộ đội Miền, mỗi lần về làng thăm ba má, Tư Lăng không qua sông bằng thuyền, anh vo tròn quần áo đội lên đầu, lội xuống bơi. Sau này khi Tư Nhâm có thai sắp đến ngày đến tháng, tổ chức cho về làng sinh nở, những lần về với vợ, cũng lại bơi.
... Khoảng thời gian giải lao giữa hai lần tập, đám lính thường ngả ngốn nửa nằm nửa ngồi tụ quanh bãi sỏi sát bờ sông hít thuốc lá, loại rẻ tiền mỗi tháng một người được phân phối hai bao và nuốt những câu chuyện Tư Lăng kể. Độc chiêu của anh là chuyện tình yêu với Tư Nhâm, hứng lên xởi lởi lôi cả khoái cảm sinh hoạt vợ chồng ra phô... Ngày nào cũng điệp khúc ấy mà không thấy nhàm. Có người bảo mười năm vò võ vắng vợ, Tư Lăng nhớ quá không biết trút vào đâu đành giải tỏa ra mồm... Khi anh kể đến khúc thỉnh thoảng lỉnh bơi qua sông về thăm vợ, đám lính đỏ mặt, có kẻ nuốt nước bọt hét toáng lên rằng phân đội trưởng đầu độc khiến đầu óc chiến sĩ mụ mẫm rối tinh lên cả rồi, nhưng chưa thấy chàng nào bỏ đi, hết thảy đều nghếch mõm lên sung sướng nghe. Thậm chí còn hứng khởi khuyến khích anh kể lại nhiều lần. Anh vẫn tuếch toách kể rằng những dịp đi công tác tranh thủ tụt tạt ghé qua nhà thoáng chốc, nơm nớp nhất là nỗi lo Tư Nhâm không có nhà. Háo thèm mong nhớ nửa năm trời để được xả phanh một đêm mà vợ đi vắng hẫng hụt khác nào rơi xuống vực thẳm... Mới chạm đầu làng đã cuống quýt chộn rộn chân nọ ngoằng vào chân kia, thấp thỏm hơn cả khi công đồn. Cái của nợ khó bảo kia cứ cương lên nhấp nhỉnh đòi hỏi, thuồn thuỗn, cứng ngắc... Tay gõ vào tấm liếp nhà mình mà run rẩy hồi hộp như vào nhà người lạ. Mũi nín thở, tai lắng nghe. Khi có tiếng vợ hỏi vọng ra mới thật sự yên tâm, thở phào mừng vui. Nỗi khoái cảm tích góp từ lâu nhói lên chóp đầu chạy suốt sống lưng, dồn đổ vào khúc cuối, nóng rần rật. Những lúc như vậy Tư Lăng ào vào, không kịp để vợ định thần vội vã nhấc bổng Tư Nhâm lên, dằn xuống giường rồi quờ tay bóp nắn, miết mát. Háo thèm như kẻ phàm ăn bị kìm nén bỏ đói lâu ngày... “Rửa đã, anh!” - Tư Nhâm sung sướng hưởng ứng nỗi khát muốn nơi chồng, nói hào hển. “Tắm... ở sông rồi, không chờ... được nữa” - Tư Lăng lắp bắp đáp chiếu lệ rồi run rẩy kéo quần vợ... Khuôn mặt đờ đực luống cuống úp xuống, nhuầy nhòa. Tấm thân cường tráng tỏ ra am tường suồng sã trườn lên... Kế đó mặt đất chòng chành chuyển động. Căn nhà nhỏ cuối xóm rung lên bần bật từng đợt từng đợt như đang có bão... Thế gian vào thời điểm ấy chỉ còn lại hai người. Họ hà hít, nghiến ngấu, xoắn bện...
Qua mỗi lần như vậy, đêm đêm nằm trên võng trong cứ nghe muỗi vo ve vờn quanh, Tư Lăng không ngủ được, nhớ vợ đến chảy gan bỏng ruột...
... Mười năm sống trên đất Bắc, rất nhiều cô gái ở những nơi anh từng đóng quân biết gã đàn ông duyên ngầm này đã có vợ trong Nam vẫn đem lòng yêu, không ít cô dòng dòng thèm khát gạ rất sỗ, nhưng Tư Lăng đều dửng dưng tế nhị từ chối khéo. Anh bảo con gái miền Bắc xinh, mềm mại hấp dẫn song chẳng ai thay được Tư Nhâm, cũng không ai có thể san sẻ tình cảm với vợ nơi anh... Những lúc “chồng vợ” với Tư Nhâm tuyệt hảo quá, ấn tượng quá, miếng ngon nhớ lâu, như thể dao khắc vào đá, khó nhòa khó phai, nên khó quên...
– Hồi lên đường ra Bắc tập kết, nhớ Tư Nhâm quá mình liều trốn về một tiếng. Lúc đó bụng vợ đã chửa vượt mặt, thèm mà đành cắn răng ráng chịu. - Hôm nay Tư Lăng kể sang đoạn khác. - Chẳng lẽ trả bằng cái giá có thể bị kỷ luật lại chịu trắng tay, nghĩ vậy mình khép hờ tấm liếp, rồi sà tới ngồi bên vợ, nhưng cũng chỉ dám sờ sẹt chút đỉnh cho đỡ khát. Ai ngờ làm vậy lửa bốc lên, càng háo. “Một chút chụt, được không em?” - Mình gạ. Có lẽ thấy khuôn mặt khổ sở đờ đẫn ngây thộn của chồng, Tư Nhâm thương hại nên nàng gật đầu: “Dạ! Nhưng nhẹ nhẹ thôi kẻo đau con nghe, anh”... Lúc ấy là ban ngày, hòa bình mới trở lại nên người ta đi qua đi tới để thăm viếng nhau đông như kiến. Mặc, vợ đã bằng lòng mở đường, phải tranh thủ... Hôm đó dúc dắc nếm náp được... hai lần. Sao, liều hả? Đúng là liều. Vợ sắp sinh mà vẫn còn tòm tem, bậy quá... Nhưng còn đời các cậu đấy. Không ai nói mạnh được nghe... Trước khi đi, mình xoa tay lên bụng vợ lần nữa và dặn rằng, con trai hay con gái cũng đặt tên là Thảo. Mình khoái cái tên đó... Năm nay cháu hơn mười tuổi rồi. Sắp thành thiếu nữ mà vẫn chưa biết mặt ba...
Giọng Tư Lăng chùng xuống. Hình như sau những câu chuyện vui làm cho buổi tập đỡ căng thẳng, hay như đám lính ước đoán là để giải tỏa, vẫn nhận ra râm rỉ đâu đó nơi anh một nét buồn cố hữu... Khuôn mặt nghiêm trở lại, anh hô:
– Các bộ phận tiếp tục tập nghe!
Hàng năm, khi kết thúc mùa huấn luyện, đơn vị đặc công nước đưa bộ đội hành quân về phía Nam và bàn giao cho các mặt trận. Số chiến sĩ này được bổ sung về các đơn vị đặc công Khu Sáu, Thủ Đức, Rừng Sác, và các tỉnh thuộc Trung Bộ, Nam Bộ... Đến giáp giới tuyến, “khung” cán bộ tiểu đoàn sau khi chia tay anh em liền trở ra tiếp tục làm nhiệm vụ tuyển quân và huấn luyện. Tư Lăng đã ba lần đưa bộ đội hành quân tới những cánh rừng giáp bờ Bắc sông Bến Hải rồi quay trở ra. Những lúc như vậy anh thấy buồn, lại nhớ quê, nhớ vợ vô chừng. Nhiều lần Tư Lăng làm đơn gửi các cấp xin tình nguyện trở về Nam chiến đấu, nhưng được giải thích rất có lý rằng, tham gia chiến đấu ở chiến trường hay làm nhiệm vụ ở hậu phương đều quan trọng, tổ chức biết khả năng từng người mà sắp xếp để có lợi cho cách mạng nhất. Cần an tâm công tác và hoàn thành tốt nhiệm vụ mình được giao. Tư Lăng thua. Họp chi bộ hàng tháng, khi đến phần kiểm điểm nhận thức, anh được đánh giá là: “Chính trị tư tưởng tốt, lập trường vững vàng, tuyệt đối tin tưởng vào chủ trương đường lối của trên, không so đo tị nạnh, nhưng có khuyết điểm là nhiều lúc chưa thực sự an tâm với nhiệm vụ tổ chức phân công”... Tư Lăng không mấy để ý tới những nhận xét đại loại như vậy, như một thói quen anh trở về với cương vị của mình, hàng ngày dẫn phân đội lính mới ra sông huấn luyện. Anh hướng dẫn họ tập bơi, tập lặn, tập cài thuốc nổ vào thân tàu, tập ngụy trang... và khi nghỉ giữa giờ lại vui vẻ tiếp tục cò cưa những câu chuyện “chồng vợ” đã từng kể không biết bao lần cho đám chiến sĩ lớp trước nghe...
Trưa hôm đó, phân đội của Tư Lăng mải tập nên về chỗ đóng quân muộn. Đang ăn cơm, anh được cậu liên lạc thông báo cho biết rằng thủ trưởng tiểu đoàn cần gặp anh ngay... Có việc gì nhỉ? Tư Lăng thấy mừng, hay là nguyện vọng trở về Nam chiến đấu đã được cấp trên xem xét? Phấn chấn, anh vội vã buông bát đũa, tuông đi. Người tiểu đoàn trưởng có khuôn mặt rất khó đoán tuổi co một chân lên ghế, chiếc tăm vẫn ngậm nơi miệng, rót nước ra chén.
– Quê Phú Yên rõ rồi, nhưng cậu ở vùng nào nhỉ? - Ông đẩy chén nước còn nóng về phía Tư Lăng, đánh chiếc tăm tạnh tạch lên răng và lơ đãng hỏi.
Tư Lăng thấy chộn rộn, trả lời rất nhanh:
– Báo cáo tiểu đoàn trưởng, tôi sinh ra ở huyện Sông Cầu ạ. Xã Tân Thanh...
– Ờ... Hình như trước đây cậu từng làm thủy thủ trưởng trên tàu?
– Báo cáo, hơn ba năm. - Anh đáp.
– Vậy đúng đối tượng rồi... Thế này đồng chí Lăng nhé, Bộ Tư lệnh quyết định điều đồng chí về trên đó công tác. - Khuôn mặt khó đoán tuổi nói bằng giọng đầy vẻ quan trọng. - Thời gian gấp lắm. Ngay chiều nay bàn giao công việc cho đồng chí Thế rồi xuống quản lý làm thủ tục thanh toán. Về trên đó nhận nhiệm vụ càng sớm càng tốt...
– Báo cáo, tôi có thể...
– Việc quân sự... Tôi cũng không được cấp trên nói về nhiệm vụ của đồng chí sắp tới. Chỉ biết trên có lệnh... Thế nhé. Về sắp xếp cho kịp...
Trưa ấy phân đội đặc công nước không ngủ. Cái tin phân đội trưởng đột ngột đi nhận nhiệm vụ mới khiến họ khó hiểu. Có người nói rằng có lẽ Tư Lăng được cử đi học ở nước ngoài. Người lại đoán hay là được vào “trong đó” chiến đấu như nguyện vọng của anh? Nhưng anh là một chiến sĩ đặc công giỏi, nếu vào chiến trường phải theo đội hình tiểu đoàn chứ! Nhiệm vụ gì mà gấp thế?
Ngày hôm sau Tư Lăng có mặt ở Bộ Tư lệnh, ở đó anh được thông báo rằng theo yêu cầu nhiệm vụ, tổ chức bố trí anh đi học lớp đào tạo cán bộ thuyền cấp tốc. Tư Lăng thấy hẫng. Hy vọng có một ngày nào đó được theo anh em bộ đội đặc công trở về Nam chiến đấu tan biến. Lại đành an ủi rằng phải an tâm công tác, tổ chức biết sắp xếp mình vào đâu để có lợi cho cách mạng nhất...