← Quay lại trang sách

⚝ II ⚝

Tàu của Thanh nép dưới chân ngọn núi cao có cái tên rất điệu đàng: núi Vạn Hoa. Trước đây, khi người Pháp còn ở Hải Phòng, ngọn núi có tên “La Poong”, nghĩa là chấm hết, ý muốn chỉ rằng đây là ngọn núi cuối cùng của bán đảo Đồ Sơn đổ ra biển. Trên núi có một nhà nghỉ, người Pháp cũng gọi là “Hôten La Poong”. Dân Đồ Sơn nói rằng ngôi nhà được cất bằng tiền trúng giải độc đắc trong một lần mua xổ số của bà vợ hai viên quan ba Pháp. Ngôi nhà tọa ở một vị trí đẹp, xây rất hiện đại và chắc chắn. Mấy năm gần đây những người lính đoàn “tàu không số” được phép tận dụng khách sạn La Poong làm kho chứa súng đạn. Đêm đêm từng hòm vũ khí lần lượt được đưa xuống tàu để rồi từ đây theo con đường biển bí mật vào các chiến trường Nam Bộ... Thanh đã đi những chuyến như vậy. Mỗi lần lên đường là một lần xác định không trở về. Mọi giấy tờ, thư từ đều gửi lại đơn vị. Nhìn anh em lẳng lặng trao thẻ Đoàn, thẻ Đảng cho chỉ huy rồi lặng im như những cái bóng lần lượt xuống tàu, Thanh cũng ở trong số đó vậy mà vẫn có cái gì nhói lên hết sức xúc động, không cầm được nước mắt... Giây phút ấy chẳng rõ sao nhớ ba, nhớ má và nhớ thằng Thành nao cả lòng. Và thương Lý nữa. Nếu anh không còn trên cõi này, người đau nhất trước hết là ba, bởi lẽ ba là người nhận được tin đầu tiên. Kế đó sẽ là Lý. Người chết thiệt thòi, nhưng người sống mới thực bất hạnh gánh mọi đau buồn. Hồi còn sống trong khu tập thể Sở Công nghiệp, có lần ba đã kể cho Thanh nghe câu chuyện xảy ra thời đại chiến thế giới thứ hai. Ba kể rằng khi bọn phát xít Đức càn vào ngôi làng và bắt được hai bố con người du kích nọ, liền lôi ra bắn. Viên sĩ quan chĩa súng vào đầu người bố và hỏi: “Mày muốn bắn mày trước hay bắn con gái mày trước?”. Người du kích bình tĩnh trả lời: “Tao muốn chúng mày bắn con gái tao trước”. Viên sĩ quan ngạc nhiên lại hỏi: “Tại sao?”. Người du kích đáp: “Vì tao không muốn con gái tao phải chết hai lần”. Câu chuyện đơn giản có vậy chẳng rõ sao cứ ám ảnh Thanh mãi. Mỗi lần xuống tàu để cùng anh em vào trong đó anh lại nhớ đến và thương ba, thương má vô chừng... Trong tư duy của ba, không có chỗ dành cho câu chuyện như thể huyền thoại rằng chính con trai của ông vẫn chỉ huy con tàu vượt biển đưa vũ khí cập vào các bến bãi trong Nam. Với ba và với rất nhiều người, điều ấy nằm ngoài trí tưởng tượng. Mỗi lần Thanh có dịp ghé qua nhà, ông chỉ hỏi: Dịp này tàu của con thường tập ở vùng biển nào? Khi Thanh có ý lảng sang chuyện khác, ông thôi gặng. Ông vẫn ý thức rằng không nên thóc mách vào việc quân sự. Nếu ba biết Thanh đang làm một nhiệm vụ đặc biệt, hết sức nguy hiểm chẳng rõ ông vui hay lo?... Thanh nhớ trước đây, mỗi lần ba có dịp tranh thủ tạt về nhà, má vẫn hỏi, có ý trách: “Ông đi những đâu mà biền biệt thế, đến nửa năm nay im hơi lặng tiếng”. Ba gạt đi: “Ơ hay, việc nhà binh, việc cách mạng bà thóc mách chi... Bà nuôi thằng Thanh thằng Thành được vầy là tôi hàm ơn rồi...”. Và ở nhà mấy hôm, ba lại đi. Thực tình má cũng không mấy rành công việc của ba. Chỉ hiểu một cách chung chung rằng chồng mình đang tham gia vào việc cách mạng... Bây giờ đến lượt ba cũng chỉ biết một cách chung chung rằng thằng con trai cả của mình là sĩ quan hải quân, nó gắn với tàu, với biển... Ba ơi, khi nước nhà thống nhất, biết được công việc của con và đồng đội đang thực hiện chắc ba ngạc nhiên lắm...

Nước biển Đồ Sơn không xanh mà lờ đục như được pha thêm bột đất, sền sệt giống nước sông Hồng mùa mưa lũ. Con tàu màu xỉn bậu vào chân núi, lẫn vào nước, từ xa nhìn vào nhỏ nhoi tựa chú cánh cam bám cành cây đang liu thiu ngủ...

Thanh đã tắm xong và đang chuẩn bị đi Hải Phòng. Đã sáu tháng nay anh chưa có dịp lên phố thăm ba, thăm Lý. Đồ Sơn cách Hải Phòng hai mươi cây số nhưng không hẳn lúc nào cũng có thể về. Phần vì công việc bận, phần vì đi lại không mấy dễ. Từ đây lên đó chỉ một phương tiện duy nhất là xe đạp. Đầu năm ôtô của Đoàn xuống đón cán bộ tàu về đơn vị họp, Thanh tranh thủ tạt qua thăm ba được mấy bận. Nhưng những lần như vậy rất vội, chỉ kịp hỏi lơ sơ sức khỏe của ông rồi ra xe... Lần này anh đã báo cáo đơn vị, xin ngủ lại Hải Phòng một đêm... Từ hôm qua anh đã lên chương trình cho mình. Thanh sẽ đi chợ, và tự vào bếp làm cơm. Tối ấy gọi Lý tới ăn. Sau đấy sẽ cùng cô đạp xe lượn một vòng quanh phố... Lý vẫn thích thế mỗi khi hai người gặp nhau. Thời gian còn lại là của hai ba con... Thanh vốn có khả năng nấu ăn từ lúc còn đi học. Hồi ba rời bộ đội chuyển qua làm công tác cải tạo tư bản tư doanh, hai người sống trong khu tập thể của Sở Công nghiệp. Gọi là khu tập thể nhưng chỉ là dãy nhà ngang cấp bốn được ngăn làm mấy phòng nhỏ dành cho cán bộ xa nhà. Phòng cuối dùng làm bếp chung. Nơi đó mỗi gia đình kê một bếp dầu, một chạn ăn bằng gỗ tự đóng. Tất cả đều đơn giản. Ban đầu hai ba con Thanh báo ăn ở bếp cơ quan, nhưng ông Tư bị đau dạ dày, sau bữa lại ôm bụng nhăn nhó nên các chú cùng công tác khuyên tự nấu lấy, hợp hơn. Ông nghe theo. Ba bận việc cơ quan, nên bếp núc hàng ngày hầu như Thanh phải đảm nhận. Một buổi đi học, thời gian còn lại dành để đi chợ, nấu ăn. Đầu tiên thấy bối rối, dần dà rồi quen. Các bác các chú trong cơ quan khen rằng Thanh là con trai mà đảm đang, nấu nướng giỏi như con gái.

Thời mới theo ông Tư ra Bắc, Thanh học ở trường dành cho con em cán bộ miền Nam tập kết, vẫn gọi là trường học sinh miền Nam. Ăn chung, ở chung. Được Nhà nước cưng chiều, một số học sinh nảy ý thức công thần thường quậy phá, đánh nhau với học sinh miền Bắc. Những ngày nghỉ, từng tốp vài ba cậu tràn ra phố gây náo loạn Hải Phòng. Thanh không mấy khoái trò đó nên đã về sống với ba rồi xin sang trường khác học... Lý cũng vậy, sau một thời gian học ở “trường học sinh miền Nam”, cô xin ra học trường ngoài. Ba Lý và ba Thanh làm cùng cơ quan, hai người lại học một trường nên thân nhau rất nhanh. Sáng sáng Thanh chần chừ trước cổng, vừa bốc xôi ăn vừa có ý chờ Lý. Mặt trời chưa mọc bà hàng xôi đã ngồi ngay trong sân Sở Công nghiệp. Thanh mua cho ba một nắm, mua cho mình một nắm. Lý thường đi học trễ. “Sao chậm thế?”- Thanh trách. “Sáng ra bao nhiêu việc. Con gái không thể vừa đi vừa bốc xôi cho vào mồm như Thanh được” - Lý đáp rồi hai người vội vội cùng đi bộ đến trường. Có hôm ba cho Thanh mượn xe đạp. “Oai nhỉ, lại đi học bằng xe cơ đấy” - Lý giễu nhưng cũng vui vẻ nhảy lên, ngồi phía sau. Cô học dưới Thanh một lớp, họ quy định ai hết tiết thì về trước, không chờ nhau. Thanh học nhiều môn nên hôm nào cũng ra khỏi trường muộn hơn. Về tới nhà, vất cặp vào bàn, nhảy xuống bếp đã thấy Lý đứng

ở đó.

– Nhặt rau và rửa rau cho Thanh rồi đấy. Lần sau đừng mua loại muống thả đầm nhé.

Thanh vội vã châm bếp dầu, hỏi lại:

– Làm sao phân biệt thế nào là rau đầm?

– Rau đầm cuộng dài, nhiều rễ, lại ít lá.

– Chiều nay nếu ra chợ, Lý mua hộ nhé.

– Không, cùng đi rồi Lý hướng dẫn cho, vài lần là quen. Hồi Thanh nhập ngũ, anh nói:

– Thỉnh thoảng giúp ba Thanh nhé, nếu nấu cơm cho gia gia nước, ba Thanh đau dạ dày.

Lý lườm ngang:

– Sao phải dặn những câu thừa thế?...

Nhiều lá thư gửi cho Thanh trong những ngày anh đang huấn luyện tại đơn vị, ba thường nhắc đến Lý. Lần về phép sau ba năm được đào tạo tại Trường Sĩ quan hải quân, khi đã ăn cơm xong, ông Tư bảo: “Cái Lý nhắc đến con luôn. Con nên đến thăm nó”. “Lý hiện làm ở đâu, ba?” - Thanh hỏi. “Học xong lớp kế toán, bác Hoành xin cho về làm tài vụ ở xí nghiệp Tân Sinh. Vưa rồi hai ba con được Nhà nước phân cho căn hộ trong khu tập thể Cầu Tre. ở gác ba nhưng thoáng mát lắm. Hôm bác ấy và Lý chuyển nhà, ba có đến chơi.” - Ông Tư Đởn nói rồi đưa tay đỡ ngực, ho sù sụ. Thanh nhìn ba, lo lắng. Sức khoẻ của ba đã sút nhiều. Khí hậu miền Bắc không hợp với ông. Năm nào cũng vậy, hễ chớm đông là bệnh dạ dày, bệnh hen lại tái phát. Đêm về, ba rất ít ngủ. Hồi chưa vào bộ đội, có hôm thức giấc Thanh vẫn thấy ông quấn chăn, lưng tựa vào tường. Ngồi vậy dễ chịu hơn. “Bệnh hen vẫn không thuyên giảm sao, ba?” - Thanh hỏi. “Bác sĩ bảo trường hợp của ba mãn tính rồi... Không sao mà, ba đã quen... Hôm nọ bác Hoành và Lý đến chơi có cho ba một ít thuốc ngoại, hình như của người bà con làm cán bộ to trên Hà Nội được phân phối, uống vào thấy đỡ... Có tuổi, yếu đi là đúng quy luật... Con biết khu tập thể Cầu Tre chứ. Gần trường học của con và Lý.

Tối hôm đó Thanh tìm đến căn phòng trên gác ba khu tập thể. Anh ngạc nhiên về sự đổi thay nơi người bạn học. Hai bím đuôi sam dài quá lưng được tết bện công phu mỗi sáng vẫn vung vẩy theo nhịp bước đã không còn, thay vào đó là mớ tóc được uốn cong, bông lên, chỉ chạm bờ vai. Khuôn mặt Lý đã tròn càng tròn hơn. Chưa đầy bốn năm không gặp, lúc này trông Lý như một người khác. Cô nở nang, nhiều đường cong hằn rõ sau bộ quần áo may hợp. Không còn nhận ra đây là cô học sinh cấp ba rụt rè, ít nói vẫn lúi húi nấu nướng nơi căn bếp chung chật chội cuối dãy nhà cấp bốn trong Sở Công nghiệp nữa. Cô đã thành một thiếu nữ xinh xắn, hoạt bát... Thấy Thanh, Lý vui mừng reo to:

– Ôi anh Thanh, anh về khi nào vậy? Chững chạc quá, suýt nữa em không nhận được.

Tiếng anh, tiếng em buột ra một cách hồn nhiên khiến Thanh thấy vui. Đã bao giờ trong những ngày cắp sách tới trường Lý một lần xưng hô với Thanh như vậy đâu. Có cái gì đó chộn rộn, anh nói, cũng nhận ra giọng mình thoáng chút bối rối:

– Lý cũng khác... Xinh ra, đẹp ra...

– Thật thế à, anh?

– Cứ như có phép lạ.

Lý sung sướng tủm cười, một chút phấn khích khiến hai má đỏ ửng. Tối ấy hai người nói chuyện tới khuya. Thời còn ở chung trong một khu tập thể, cùng đi học, có nói với nhau cũng chỉ là những câu nhát gừng rời rạc. Sau bốn năm xa cách lúc này gặp lại sao nhiều chuyện thế! Thời gian cứ vun vút. Lý kể chuyện học ở trường trung cấp, chuyện cơ quan, chuyện những người bạn mới. Gần như việc gì cũng phô. Rồi hỏi. Những điều liên quan đến Thanh cô đều muốn biết. Khi chia tay, Lý bảo:

– Chiều mai anh đón em ở cơ quan được không? Có chuyện này hay lắm. Chúng mình đi xem phim nhé?

Ngày Thanh chưa nhập ngũ cũng đã đôi ba bận hai người cùng vào rạp. Hồi ấy mua được chiếc vé xem phim khó lắm. Thỉnh thoảng cán bộ trong cơ quan Sở Công nghiệp được phân phối vài đôi. Ông Tư và ông Hoành nhường sự ưu ái đó cho hai đứa trẻ. Vừa xem phim, hai người vừa tí tách cắn hạt bí. Thỉnh thoảng Lý thúc nhẹ khuỷu tay vào sườn Thanh. Anh quay lại. Nhúm hạt bí trên bàn tay bé nhỏ chìa ra trước mặt. Thanh rụt rè nhón mấy hạt rồi lại ngây ngô hướng khuôn mặt thuồn thuỗn lên màn ảnh. Anh chưa đủ từng trải, bản lĩnh và sự nhạy cảm để có cái cử chỉ ân cần thậm chí mạnh bạo cần thiết ở những người đàn ông trưởng thành trong trường hợp này. Anh coi Lý cũng như bạn bè cùng lứa khác. Và chỉ vậy thôi. Nhưng ở nữ giới hình như chuyện tình cảm phát triển sớm hơn, họ nhìn nhận vấn đề cũng rõ ràng và cụ thể sâu sắc hơn. Sau mỗi buổi đi xem phim về, Lý thường xa xôi nói rằng Thanh là gã trai đoảng, vô tâm. Rồi suốt quãng đường đi học ngày hôm sau, cô làm mặt giận, không nói câu nào. Thanh vô tư trách:

– Hôm nay Lý làm sao thế? Lý ngúng nguẩy:

– Từ ngày mai cứ đi học trước, không phải chờ nữa.

– Làm sao?

– Sao trên trời! - Lý đáp và bước rất nhanh... Sự giận dỗi vô cớ đó cũng qua đi để rồi cách đó vài tháng họ lại được hai ông bố nhường cho đôi vé để cùng vào rạp.

– Dịp này mua vé xem phim dễ vậy à? - Thanh hỏi.

– Em có đứa bạn làm tại rạp chiếu bóng. ở đó đang có bộ phim của Ba Lan hay lắm. Anh vẫn thích xem phim nước ngoài mà. Anh đi nhé.

Đêm ấy, khi chuẩn bị đi ngủ, ông Tư Đởn chợt hỏi con trai:

– Con thấy Lý là cô gái thế nào?

– Ba hỏi vậy nghĩa là sao ạ? - Thanh ngạc nhiên hỏi lại.

– Ba và bác Hoành thỉnh thoảng có nói với nhau về hai đứa. Nhưng quyết định vẫn là ở các con... Hai đứa đã quá hiểu nhau... Lý là cô gái nết na, trung thực... Những ngày nghỉ vẫn đến thăm ba...

Thanh không đáp, nhưng bắt đầu nhận ra tình cảm nơi anh đối với Lý đã có một cái gì khác lạ, không gọi được tên, nó chẳng còn hồn nhiên như trước nhưng gần gũi, thân thiết và gắn bó. Lên đơn vị Thanh vội vã viết thư cho Lý, và cô trả lời rất nhanh. Trong thư Lý lại kể đủ thứ và cuối cùng, bao giờ cũng là câu: khi nào anh về chúng mình lại đi xem phim nhé...

Tình yêu của anh và Lý đến tự nhiên, như thể sinh ra duyên phận hai người đã được định như thế, dẫu chưa một lần cầm tay và chưa một lần nói rằng anh yêu em hoặc em yêu anh, nhưng cả hai đều hiểu họ đã thuộc về nhau. Mỗi lần Thanh có dịp ghé qua Hải Phòng, Lý sung sướng và sốt sắng chăm lo cho anh bằng tình cảm của người đang yêu đã đành, còn là tình cảm của người mẹ, người chị. Trước khi anh đi, Lý chu đáo dúi vào ba lô đủ thứ, từ con dao nhỏ, chiếc khăn mặt đến chiếc cúc áo, bộ kim chỉ... Và nhiều khi cả tiền... Thanh lặng lẽ đón nhận tình cảm đó một cách mãn nguyện, tự hào... Lý có những ý thích rất thú vị. Mỗi lần rủ anh đến chơi nhà bạn bè, cô muốn anh phải mặc quân phục. “Em khoái lính à?” “Chúng nó réo em là người của bọ nước, em vui lắm”. “Bộ đội khô khan.” “Anh ơi, chiều nay chúng mình đạp xe ra ngoại thành chơi nhé. Em muốn khoe anh với một người bạn. Mấy lần nó trách rằng anh về mà giấu biệt, hay là sợ người ta cướp mất... Vườn nhà nó rộng lắm.” Ngồi sau xe đạp để được Thanh đưa đi đây đi đó, thậm chí không cần một địa chỉ cụ thể nào, chỉ lòng vòng phố này qua phố khác với Lý là niềm vui, là hạnh phúc...

... Thanh nhìn ra biển. Nơi Hòn Dáu, sương giăng mờ. Hòn đảo vốn có tên là Hòn Dấu. Người Đồ Sơn nói chệch đi thành Hòn Dáu. Nơi đây là chốn linh thiêng của ngư dân trong vùng. Mỗi lần ra khơi vào lộng, họ thường cho thuyền ghé vào, lên đảo thắp tuần nhang xin điều lành. Trên đảo có đền thờ Lão Đảo Đại Vương, còn gọi là Nam Hải Đại Vương. Ngài là vị thần trông coi vùng biển Đông Bắc. Người Đồ Sơn nhiều đời truyền nhau rằng, đã lâu lắm, vào một ngày nọ có vị tướng đi đánh trận bị giặc chém cụt đầu trôi dạt về hòn đảo nhỏ này. Dân làng vớt lên rồi cho người về báo triều đình. Nhưng đêm đó, vạt đất nơi vị tướng nằm, mối đùn lên tạo thành ngôi mộ lớn. Dân làng biết đây là người trời bèn lập đền thờ. Từ đó nhờ ngài phù hộ nên thuyền bè ra biển không gặp tai hoạ nữa. Dân làng lấy ngày vớt được thi thể ngài lên làm ngày lễ hội Hòn Dáu... Mỗi lần tàu đi qua chốn này Thanh vẫn lặng lẽ lên boong, hướng mắt vào đảo và thầm khấn rằng mong thần phù hộ cho con tàu chở vũ khí vào chiến trường được trót lọt...

Thanh định vào phòng ngủ thay quần áo chợt nhìn thấy một chiếc xe đang lách qua con đường đá mới mở, lắc lư hướng về phía con tàu. Anh dễ dàng nhận ra đây là chiếc “U oát” treo biển đỏ. “Lại có việc rồi!” - Thanh chợt nghĩ. Chiếc xe chạy chậm rồi dừng lại. Một sĩ quan bước ra, đi nhanh về phía tàu. Anh ta làm hiệu xin lên boong. Thông tin khá bất ngờ: Thủ trưởng Bộ Tư lệnh cho gọi thuyền trưởng, chính trị viên và thuyền phó tàu T.35 lên Bộ Tư lệnh họp.

– Ngay bây giờ à? - Thanh hỏi.

– Rất đông người, có cả thủ trưởng Bộ Tư lệnh đang chờ. - Người sĩ quan đáp.

“Có việc gì khẩn vậy ta?” - Thanh nghĩ rồi tuông đi báo cho chính trị viên Chiêu và thuyền phó Thơm hay.

Đã khuya nhưng đường phố vẫn đông người. Công nhân từ cảng đi làm về, từ nhà máy Cá Hộp đổ ra. Từng tốp, áo lấm bụi vắt vai, vừa đi vừa ngáp, vừa trò chuyện. Họ bước rất nhanh và nói rất to. Nhiều người rủ nhau sà vào hàng phở gánh toạ trên vỉa hè. Xương bò ninh với thảo quả và nhiều thứ khác bốc hơi toả hương vị đặc trưng cùng với những túm hành rửa sạch trắng phau, những chùm ớt tươi đỏ mọng treo lủng lẳng khiến đã bước tới là khó cưỡng. Miệng tiết dịch vị và dạ dày nôn nao đòi hỏi buộc đôi chân không thể không dừng lại. Sì sụp bên bát phở nóng và được hưởng vị thơm ngon bốc lên từ chính bát phở đó là thói quen cũng là nhu cầu của những người làm ca đêm. Trên con đường giáp cổng cảng, những chiếc xe ba gác gắn nối với nhau bằng vô số tấm thép dày, dài đến chục mét đang được mấy người thợ oằn lưng xuống kéo. Họ gập người, nặng nhọc nhích từng bước. Ngực trần. Chân xỏ đôi giày vải rách bám chặt vào mặt đường nhựa. Người kéo, người đẩy đều lặng thinh. Năng lực dồn hết vào đôi vai và hai cánh tay. Họ làm việc suốt đêm...

Chiếc xe của Thanh và Lý vòng qua cổng cảng thì ngoặt về đường Hồ Xuân Hương. Hai người thích đưa nhau qua con phố mang tên nữ sĩ này bởi nơi đây tĩnh lặng có cái gì đó rất gợi, quyến rũ. Về khuya, thỉnh thoảng lắm mới có một bóng xe đạp lướt qua... Vào mùa hè, hoa sữa từ những khu vườn quanh các biệt thự toả hương hắc nồng, mới ngửi thì khó chịu, nhưng đã quen lại đâm nghiện. Mỗi lần gặp nhau, dù lòng vòng mãi đâu, cuối cùng họ lại vô thức trở về với con phố quen thuộc, đã thành kỷ niệm... Đường phố không ồn ào nên cả hai đều có thể tự do say sưa kể với nhau rất nhiều chuyện, những câu chuyện không đầu không cuối, không chủ đề nhưng chẳng bao giờ cạn. Song hôm nay những câu chuyện kể nối nhau của Lý hình như không được Thanh hưởng ứng. Tâm trí anh đang mãi nghĩ đâu đâu. Cô nhận ra điều đó lúc hai người dắt xe ra ngõ, nhưng đã tự biện bạch rằng đường phố ồn ào, chuyện của cô có thể anh không nghe rõ. Còn lúc này tại sao cũng chỉ ầm ừ, chẳng để tâm...

– Anh chán nghe em nói rồi, đúng chưa? - Lý hỏi, giọng buồn buồn. - Nếu vậy ta về.

Thanh đạp xe chậm lại:

– ừ... Anh nghe đấy chứ... Một lát nữa anh đưa em về... Em đang nói chuyện cái Hằng phải không? Như vậy thì tội quá.

– Hằng nào? Anh sao vậy?

– Anh nghĩ nếu họ không hợp nhau thì chưa nên cưới.

Lý nhảy phắt xuống xe. Cô hậm hực đi ngược lại hướng Thanh đang đạp... Mấy phút sau Thanh giật mình nhận ra đã không còn có Lý ngồi phía sau, anh vội vã vòng trở lại. Bây giờ thì Thanh ý thức được tầm nghiêm trọng của sự việc. Lỗi là ở anh. Quả anh đang mải nghĩ đến chuyện khác. Cuộc họp chiều nay ở Bộ Tư lệnh với những quyết định bất ngờ, đột ngột ngoài mong đợi vẫn bám níu khiến anh nao nao, không còn tâm trí lưu ý đến những điều Lý kể... Dù trí tưởng tượng của Thanh phong phú đến mấy, anh cũng không nghĩ đến việc mấy ngày nữa mình sẽ chỉ huy tàu T.35 bí mật chở vũ khí về quê. Vũng Rô, Đá Bia, Hòn Nưa, làng Cát..., những cái tên hằn sâu trong tâm thức chợt sống động hiển hiện ra. Chuyện thật mà hệt giấc mơ. Sau thông báo của Tư lệnh, anh như người bị choáng, không còn tin vào những điều vừa nghe, đến mức đã bật dậy hỏi một câu hết sức ngớ ngẩn: “Báo cáo Tư lệnh, Vũng Rô ở Phú Yên quê tôi phải không ạ”, khiến Tư Lệnh và mọi người phì cười. “Đồng chí chẳng là người làng Cát đó sao?” - Tư lệnh nói. “Vâng, có lẽ bởi tôi vui quá, mừng quá đấy ạ.” Trời ơi, sao Thanh lại không mừng không vui và không ngạc nhiên được! Vũng Rô nằm dưới chân núi Đá Bia chính là quê ngoại của Thanh, nơi má sinh ra và có một thời thơ ấu lận đận vất vả cùng với ông bà nhọc nhằn bươn bả kiếm sống. Thanh biết nhiều về vùng quê ấy qua chắp nối những câu chuyện của má và qua những bận lẽo đẽo theo má về quê ngoại giỗ tổ, hoặc thăm ông bà... Và thầy Sáu Sinh cũng có lần đưa lũ học trò trèo lên chót vót đỉnh Đá Bia, nơi có người gọi là cửa trời để nhìn ra biển... Những chuyện ấy xa đã hơn chục năm nhưng nó hằn khắc vào trí não làm sao Thanh quên được... Vậy mà niềm vui lại không thể san sẻ cùng ai. Giá anh phô ra được với Lý, như cô vẫn hí hớn bộc bạch và khoe ra với anh mọi điều... Lý đã không hiểu, cô giận là phải... Thanh dắt xe đuổi theo. Anh nở nụ cười làm lành:

– Anh xin lỗi!... Cô dỗi:

– Em đi bộ về được.

– Lý, nghe anh nói đã... Anh mừng quá...

Thanh bỏ xe đổ xuống đường, đứng chắn trước mặt cô, rồi bất chợt choàng tay ôm Lý vào lòng, xiết mạnh.

– Lý ơi, anh yêu em, anh rất yêu em... - Thanh thổn thức nói và cúi xuống lần tìm cặp môi người yêu.

Lý bàng hoàng. Cô chưa chuẩn bị tinh thần để tiếp nhận tình thế này. Có cái gì đó hết sức bất ngờ khiến cô luống cuống, bối rối và hãi sợ. Nhưng trạng huống ấy qua rất nhanh, ý thức được hoàn cảnh, cô hướng lên, sung sướng đón nhận cách thể hiện tình cảm vụng về của gã đàn ông... Lần đầu tiên hai người hôn nhau, nên sau cử chỉ hưng phấn đó hình như họ đều cảm thấy chơ vơ và ngượng ngập. Lý nép khuôn mặt nóng ran vào ngực Thanh, nói rất nhỏ:

– Em ghét anh lắm!

Thanh không đáp. Anh cà cằm lên mái tóc uốn sóng bông tơi của Lý và nhận ra tâm trạng rất lạ nơi mình. Hình như đã có cái gì đó thật sự biến đổi trong con người anh. Táo bạo, đam mê. Hưng phấn chân thành. Bột phát, mới mẻ... Những điều ấy khiến anh lạ lẫm, sung sướng và lo sợ. Anh đã chờ cái việc sẽ xảy ra như hôm nay, và nó đã hiển hiện là một sự thật, Lý đang run rẩy nóng bừng trong vòng tay mà sao vẫn ngỡ ngàng như không phải vậy. Hạnh phúc đến đột ngột ngoài dự kiến khiến Thanh bồng bềnh trong cảm giác chênh vênh như đang bay trên không... Lý cũng vậy, cô không thật rõ tâm trạng mình lúc này. Có cái gì đấy lâng lâng ngọt ngào ngấm thấm tràn chảy khắp cơ thể làm cô ngột ngạt, thấp thỏm và hồi hộp... Cả hai đứng như vậy rất lâu. Không còn khái niệm thời gian... Vũ trụ gom nhỏ trong một vòng tay.

– Vừa rồi anh nói rằng anh có chuyện mừng? - Một lát, vẫn không ngước lên, Lý hỏi.

– Anh yêu em! - Thanh thở nhẹ vào tai người yêu.

– Đừng nói dối em nhé...

Thanh im lặng. Anh xiết Lý chặt hơn. Hai người như thể tan vào nhau... Trên đầu, những chiếc lá nho nhỏ mỏng mảnh rơi, chòng chành trước ánh đèn khuya. Tiếng con nước cạp bờ từ sông Tam Bạc đưa tới rất mỏng. Và từ đâu đó xa xa mơ hồ như có âm thanh của những con sóng hào hển đuổi nhau vọng về... Phố yên tĩnh...

... Đêm ấy nằm cạnh ông Tư, Thanh thổn thức không ngủ. Những tình cảm tươi nguyên mới lạ, những đột biến bất ngờ thú vị khiến anh châng lâng như người uống rượu mạnh đến lúc ngấm... Anh xoay qua xoay lại, có cái gì đó rất khó gọi tên khiến đầu óc tỉnh băng. Công việc sắp tới, những tình huống khi trở về quê, tình yêu với Lý... cứ đan cài, lên men chuếnh choáng... Cuộc đời thật thú vị và kỳ lạ. Đó là dòng chảy triền miên với những biến động bất ngờ cuốn con người vào biết bao niềm vui nỗi buồn và những khắc khoải... Thanh chộn rộn thắc thỏm hồi hộp mường tượng ra nhiều cảnh huống khi con tàu T.35 cập vào chân núi Đá Bia. Lúc ấy sẽ thế nào nhỉ? Ai là người anh gặp đầu tiên sau hơn mười năm xa quê? Người đó nói giọng Tuy Hoà hay giọng Sông Cầu? Người quen hay người lạ? Và có ai trong số du kích ra đón tàu là dân làng Cát?... Trời ơi, chỉ nghĩ tới vậy thôi đã thấy chới với nôn nao...

Hình như ông Tư rõ được tâm trạng phấn khích nơi người con trai, ông quay qua và hỏi:

– Con và Lý... Có phải hai đứa đã quyết định điều gì phải không?

– Chúng con còn trẻ mà, ba.

– Bằng tuổi con, ba đã rước má về... Tội nghiệp, đã mấy chục năm mà ba chưa mang lại cho má một ngày vui trọn vẹn...

– Ba! - Thanh quay qua, làm một động tác như thể muốn biểu hiện tình cảm của mình rồi nũng nịu vòng tay ôm lấy ông Tư như thời thơ bé...

Ông Tư nhè nhẹ vỗ vỗ lên bàn tay người con trai đang đặt qua ngực mình, và im lặng. Thanh cũng nằm yên. Lâu nay như thể có một thoả thuận ngầm, mỗi lần gặp nhau hai ba con thường cố tình né tránh nhắc đến chuyện má, chuyện thằng Thành, mặc dù hai người ấy luôn là nỗi đau đáu túc trực nơi họ. Không ai muốn nỗi khắc khoải canh cánh loang ngấm vào người khác. Tình thương, nỗi nhớ gắng nén lại trong lòng. Thỉnh thoảng lắm Thanh buột miệng hỏi: “Hôm rồi lên Hà Nội, ba có nhận được tin tức gì từ Ban Thống nhất trung ương?”. Và khi thấy ông tư lự, khuôn mặt biểu hiện sự thất vọng, anh rõ mọi thông tin về gia đình, làng xã vẫn là chiếc hũ nút kín, vội lảng nhanh sang chuyện khác. Anh kể về những lần ra khơi, những điều kỳ lạ nhìn thấy mỗi khi đi trên biển. Anh nói hồ hởi, say sưa. Ông Tư nghe, cũng hiểu rằng con trai đang cố làm cho mình vui, cố quên những cảnh trớ trêu vô lý trong gia đình...

Những lúc nhàn rỗi một mình, ông thường lu lơ tự vấn về những quyết định cách đây đã cả chục năm. Thời ấy nếu ông không để thằng con lớn đi theo ra Bắc, hai anh em ở lại quê nhà chẳng rõ bà Tư có vui hơn? Rồi ông tự giải thích rằng người mẹ nào muốn xa con, có hai anh em nó quấn quýt nhất định vợ ông đỡ cô quạnh, nhưng bà sẽ áy náy lắm, và canh cánh lo cho ông ở ngoài này trơ trọi một mình và bởi vậy lại chẳng yên tâm, còn khổ hơn. Tính bà ông rõ, có lúc nào nghĩ đến bản thân mình. Được chăm sóc, hi sinh cho chồng con và nhìn thấy chồng con vui là mãn nguyện hạnh phúc rồi. Bà sinh ra như thể để lo cho người khác. Trước đây khi ông có dịp tạt qua nhà, mỗi lần ra đi, bà lại len lén dúi vào túi áo, túi quần những đồng bạc hiếm hoi mà ông biết bà kiếm được rất chật vật. Một thân một mình nuôi hai đứa con dại khờ đang ở tuổi lớn, thỉnh thoảng còn trách nhiệm với ông bà ngoại, cuộc sống đâu dễ chịu. Nhưng nếu từ chối, ông rõ bà sẽ buồn, và tủi thân... Những ngày chui nhủi trong cứ hoặc rỗi rãi trước giờ công đồn, nghĩ đến bà ông nao nao niềm tự hào. Số ông thật may mắn. Chắc trời thương tình nên đã công bằng ban cho điều hạnh phúc. Ba má mất sớm, thân cô thế cô, ngỡ rằng cuộc đời sẽ đơn chiếc trôi dạt vô định. Ai dè ông đã gặp bà và được bà thương. Bà chính là báu vật vùng núi Đá Bia ban tặng cho kẻ côi cút này... Hai đứa con trai được sinh ra sau đấy, một mình bà nuôi, bà dưỡng. Ông như khách, thỉnh thoảng đáo qua ăn rình bữa cơm, ngủ nhờ một tối rồi lại đi. Có lần biền biệt nửa năm mới về. Chuyện nhà, chuyện con cái khoán trắng cả cho vợ. Bà Tư không lấy thế làm phiền lòng, nếu có chút ái ngại băn khoăn thì đó là nỗi lo cho chồng. Bà thường xa xôi: “Mũi tên hòn đạn không kiêng dè ai nghe. Ông cẩn thận kẻo rồi hai đứa nhỏ lại thiếu ba”. Ông đùa: “Thế còn má sắp nhỏ?”. “Tôi không là đàn bà? Ông có làm sao tôi thù đó.” Và ông đã chẳng làm sao cho tới lúc hoà bình. Những ngày sau khi nghe tin đình chiến, ông hí hởn nở từng khúc ruột, ngỡ rồi sẽ được sống bên bà, có điều kiện bù đắp lại những gì thiếu hẫng thời gian qua, ai dè hoàn cảnh éo le tạo ra sự cách biệt còn xa ngái hơn. Trước đây, chí ít nửa năm, ông cũng có thể về thăm nhà một lần, còn bây giờ, đằng đẵng hơn mười năm mà một thoáng đồn thổi vu vơ về vợ con cũng không. Mọi thông tin như mặt nước ao thu đóng băng phẳng lờ, không một gợn toả, một tín hiệu... Khi chia tay, thằng Thanh chỉ trên mười tuổi, lúc này con nó đã trở thành một sĩ quan chỉ huy tàu mà tin tức về má, về em cứ bằn bặt, mu mơ như nhìn vào sương mù khi động biển...

... Thanh nằm im, sung sướng và mãn nguyện đón nhận tình cảm ba mình trong nhịp đập khe khẽ của bàn tay ông... Trời ơi, giá chi Thanh được khoe với ba rằng, ba ơi con sắp về quê, con được lệnh đưa tàu vào Vũng Rô; và rất có thể con sẽ gặp má, gặp lại em Thành, hoặc ít ra cũng biết chính xác tin về hai người... Thanh như muốn la to lên, trong lòng chộn rộn không yên... Cái làng Cát kề khít con sông Thạch Bàn quanh năm nước leo lẻo ấy dẫu xa mười năm, hai mươi năm thì những ấn tượng về nó vẫn chẳng bao giờ có thể quên. Những con đường quanh co lầm cát. Hàng phi lao ven bãi tơi tả, thân ưỡn cong chịu đựng khi những cơn gió từ biển ào ạt thốc vào. Và những bước chân trần to bè nặng chịch bước hối hả mỗi lần thuyền đi khơi về. Tiếng lách nhách trả giá. Và ào ạt tiếng sóng đập ầm ào vào bờ mỗi lần chuyển trời... Chênh chếch giữa xóm cuối làng Cát là ngôi nhà lợp lá dừa nước tuềng toàng gió thốc vào bên này để ào ào thổi sang bên kia. Ngôi nhà đã được ba con Thanh chằm vá lại trước khi lên đường ra Bắc. Chẳng rõ ngôi nhà đã được thay mái mới để mỗi lần mưa xuống má khỏi mất ngủ, đỡ hao sức? Em Thành là gã trai tháo vát lanh lợi, nhất định biết xoay trở không chịu để má khổ. Nó vốn là đứa trẻ ngoan, biết thương má. Nhiều người trong làng bảo rằng nhà Tư Đởn có thằng con thứ hai khôn trước tuổi. Nhỏ người nhưng lanh ý. Ao chuôm nào trong làng sẵn ếch cá nó rành hết, đã ném câu xuống là trưa đó có thứ xâu về. Mỗi lần thuyền bà con trong làng đi biển cập bãi, thằng Thành hấp hổi lần ra, xăng xở giúp việc dỡ cá xuống thuyền, mó tay vào cùng chọn lựa ra từng loại, việc người mà xăng xở y như việc của mình, thậm chí còn nỏ mồm lanh chanh bàn góp nên thế này, nên thế nọ như ông cụ non. Nhưng những điều nó nói phần lớn là đúng, bởi vậy ai cũng quý. Khi ở bãi biển về bao giờ trên tay cũng lủng lỉnh, lúc vài ba con cá, lúc mớ tôm vụn. Những việc đại loại như vậy thằng em ăn đứt thằng anh. Ông bà ngoại vẫn bảo thằng Thành lấy hết khôn của thằng Thanh rồi.

Hồi má lần lên núi Bia kiếm củi về chẳng may gặp mưa bị cảm, nóng ly bì, Thanh sợ cuống cuồng, hết chạy vào lại chạy ra, chẳng biết làm gì, chỉ thỉnh thoảng hỏi: má ăn cháo nghe; nhưng thằng em khác hẳn, nó lần sang nhà ông Năm Bào kể lại mọi sự rồi khi được ông Năm hướng dẫn, nó tuông về, tìm tóc rối chấm vào nước gừng miết mạnh lên lưng má, lại ngồi trên giường sai anh ra vườn kiếm lá nhọ nồi nghiền lấy nước để má uống. Hôm sau má khỏi...

Thằng Thành là đứa khá láu, lũ trẻ trong làng kể cả những tên nổi danh ngổ ngáo hay chơi trội như Ba Hoàng chẳng dễ gì có thể bắt nạt được. Nó vừa khôn khéo vừa nghĩ ra nhiều chiêu nghịch ngầm khiến bọn trẻ phải nể phục, trờn trợn, kiêng dè... Một lần Ba Hoàng rủ mấy đứa bạn ra sông Thạch Bàn tắm, cậy thế to con, nó ngầm chơi thằng Thành một vố. Biết Thành đang tập bơi ở khúc sông cạnh đó, Ba Hoàng liền nháy bọn trẻ, rồi cả lũ lặn sâu xuống, mò tìm cẳng thằng Thành kéo tuột xuống. Bơi kém, lại thân cô thế cô nên hôm ấy thằng Thành bị bữa no nước. Nó uất lắm, nhưng không hề hé răng nói lại, hay chửi rủa mắng mỏ nửa lời, nó nhẫn nhịn lên bờ mặc quần áo và tỏ ra không có chuyện gì xảy ra, im nín như hạt thóc lẳng lặng ra về. Nhưng trong đầu Thành đã nhanh chóng nảy sinh kế hoạch trả thù. Biết bọn Ba Hoàng tối đó rủ nhau ra bãi dương chơi trò đánh trận giả, thằng Thành liền kiếm chiếc nồi đất cũ, đổ nước giải và tro bẩn vào rồi trèo lên treo hờ nơi cành khế trước ngõ nhà ông Năm, sau đấy dong một sợi dây buộc vào hòn đá nhỏ nơi mặt đường tạo thành cái bẫy, chạm nhẹ vào là sập. Thằng Thành phục đấy vì biết chắc bọn Ba Hoàng đi chơi về thể nào cũng qua ngõ nhà Năm Bào. Đêm ấy đã khuya, quả Ba Hoàng dẫn lũ bạn từ bãi dương ngất nghện đi qua. Chúng đâu ngờ tai vạ đang treo lửng trên đầu. Quệnh quạng chân nam đá chân chiêu chúng vấp phải sợi dây, lập tức chiếc nồi đất từ trên cao rơi mạnh xuống. Tro bếp và nước giải bắn tung tóe lên đầu Ba Hoàng và bọn trẻ. Con trai lão Trần Nhũng hận lắm, biết đây là trò ranh mãnh của con rận nhà Tư Đởn, nhưng vô bằng chẳng thể làm gì, đành chửi đổng mấy câu rồi hò nhau lăng tăng xuống sông tắm rửa. Thằng Thành lúc đó nấp trong bụi rậm gần đấy bịt mồm cười vỡ bọng đái.

Thằng Thành thường bị má la bởi những trò đại loại như thế. Nhưng chưa một ai yêu nó hơn má. Dân làng Cát vẫn nói với nhau rằng nếu thiếu ăn, Tư Đởn phải xẻ thịt ra để nuôi con, mụ cũng làm. Thanh và Thành là hai cục cưng, là niềm vui, nỗi an ủi và cũng là niềm tự hào của má... Bây giờ chắc má đã yếu lắm, già lắm! Tính từ ngày ba và Thanh ra Bắc tới giờ đã già chục năm. Mười năm mà lâu như cả thế kỷ! Trong khoảng thời gian ấy có thể đã nhiều biến đổi, biết đâu thằng em láu cá của Thanh đã ma mãnh chộp được một cô gái làng kháu khỉnh nào đó về làm vợ và sinh con. Nếu vậy chắc má vui lắm. Hồi Thanh và Thành còn nhỏ, má vẫn ước ao mong sống cho đến ngày thằng Thanh thằng Thành có vợ có con, lúc đó trời không cho sống nữa, có nhắm mắt xuôi tay cũng thoả... Má ơi, con sắp được về quê, con sắp về với má với em rồi... Thanh chòng chành trong trong những rời rạc chắp nối vui buồn, tủi nhớ...

– Con không ngủ sao, Thanh? - Ông Tư quay mặt qua con trai và hỏi.

– Ba ơi, tại sao làng mình có tên là làng Cát? Có phải vì nhiều cát không?

– Ba cũng không thật rành... Người dân làng mình nhỏ nhoi như hạt cát... Cũng lại cứng cỏi như cát... Mà sao tự dưng con hỏi vậy?

– Quê mình có những cái tên thiệt hay...

– Con nhớ... làng phải không Thanh?... - Ông Tư không nén được, chợt hỏi, rồi như thể cũng nhận ra có cái gì mủi mủi yếu đuối trong giọng nói của mình, liền quay qua chuyện khác. - Ngày mai mấy giờ con phải có mặt ở đơn vị? Ba chuẩn bị cái gì ăn sáng trước khi đi nghe...

Thanh không đáp. Anh ôm ba mình chặt hơn.

Bên ngoài, tiếng gió thổn thức trên cành bàng nghe rỉ rả như lời mấy kẻ hay chuyện, khoái phô những điều vẫn lượm nhặt đơm đó được quanh ngõ xóm...

Đêm đã khuya... Thoảng trong không khí hương hoa sữa từ đâu đấy đưa tới, thơm nồng.