← Quay lại trang sách

⚝ III ⚝

Sông Thạch Bàn như một dải sáng lờ nhờ, hắt lên không trung. Mặt nước bình lặng, thơi thả ngửa ra hứng sao từ trời rơi xuống phởn phơ tựa ả đàn bà nhỡ thì mãn nguyện sau cuộc tình. Đêm se lạnh. Gió lặng. Phía bờ sông nơi có con đường nhỏ như sợi chỉ mảnh mai vắt qua nhiều bụi rậm ngoằn ngoèo hướng lên núi ẩn, một con xuồng nhỏ đơn côi kín đáo lặng lẽ cắm sào né mình trong cỏ rậm. Ông Năm Bào thu lu ngồi nơi mũi xuồng đôi mắt chong chóc hướng về phía con đường. Trước cảnh sông nước tiêu điều đêm khuya thanh vắng, trông ông có cái gì phiêu lãng bí hiểm từa tựa các hảo hán Lương Sơn Bạc thời xa xưa bên Tầu chờ đón khách. Ông cắm sào đợi từ chập tối. Thằng Thành hẹn ông đón vào cuối giờ Dậu mà mãi tới lúc này chắc đã quá giờ Tuất vẫn chưa thấy? Việc quân sự lại làm ăn kỳ cục vậy sao! Trên danh nghĩa mấy huyện ven biển Phú Yên đã giải phóng, chính quyền làng xã được gây dựng, cán bộ có thể từ cứ trở về hoạt động công khai trong mỗi xóm, nhưng nhiều nơi vẫn là vùng tranh chấp, ban đêm cách mạng làm chủ, ban ngày quyền ấy thuộc về Quốc gia, làng Cát ở trong tình thế đó, nhưng ai rõ đêm nay trong các bờ bãi không có lính Ba Hoàng túa về vây ráp rình phục?

Ông Năm thấy sốt ruột. Định nghển lên quan sát thì từ bụi rậm trước mặt có tiếng tù và thổi rung rúc tựa cú kêu.

– Thôi, khỏi làm hiệu nữa mày. Xuống đi, trễ rồi! - Ông Năm đứng dậy, nói vọng lên.

Thành từ bụi cây trệu trạo bước tới:

– Chú nhận ra cháu? Không đánh ám hiệu mà đã lên tiếng, mất cảnh giác nghe.

– Được Sáu Sinh cho vô đội võ trang, vô chủ lực nên làm phách, định dạy khôn già này nữa sao?... Có mấy người?

– Một tiểu đội võ trang và một cán bộ bự. Qua được chục người không chú?

– Biểu họ xuống lẹ lên! Tao chờ hoài rồi.

Thành quay trở lại, vẫy tay. Một lúc sau gần chục người lẳng lặng như những cái bóng bước xuống. Chiếc xuồng chòng chành. Ông Năm đứng cuối mũi cố gìm tay chèo. Thành vội nhảy xuống nước, hai tay bám mép xuồng phụ giúp.

– Đủ chưa? - Chờ mọi người ngồi yên, ông Năm hỏi.

– Đi thôi, chú! - Thành nói và chống tay xuống mạn xuồng, hất mình lên.

Chiếc xuồng nhẹ nhàng sang sông. Tiếng nước va vào mạn rất nhẹ. Người Thành kêu là cán bộ bự ngồi giữa, chờ cho xuồng ra xa bờ mới hỏi:

– Trận chống càn vừa rồi du kích làng mình diệt được nhiều địch không chú Năm?

– Ai hỏi đó? Như giọng Sáu Sinh phải không? - Ông Năm vẫn hướng về phía trước, tay chèo rất dẻo, hỏi lại.

– Coi bộ chú còn tinh tường ha!

– Trời đất, chẳng lẽ lẫn tới mức đó rồi sao? Về mà lặng tiếng vậy?

– Đâu có lặng, chú. Làng mình xã mình giải phóng rồi còn gì phải lặng nữa. Không gặp chú đây thì dịp này cũng có ý ghé qua nhà thăm.

– Vậy hả? Cám ơn đồng chí Bí thư nghe... Nhưng giải phóng rồi có cái sướng mà cũng có nỗi cực của giải phóng.

– Cực sao chú Năm? Mình làm chủ mà.

– Phải, được làm chủ, được tự do đi lại chút chút... Nhưng phải chạy giặc liên miên. Dăm ba bữa nửa tháng thằng Ba Hoàng cho lính về càn, lại lùng lại sục. Nhà cũ chúng đốt. Dựng cái khác lên, chúng lại đốt... Cực là cực chỗ đó. Giá chi mấy đứa du kích có đủ súng đạn thì đỡ.

– Cũng sắp sắp rồi chú Năm. - Thành buột miệng tham gia.

– Sắp là bao giờ? Tao nghe nói vậy hoài hoài. Gặp, đứa nào cũng dẻo miệng động viên bảo chờ, gắng chờ. ừ, thì chờ. Chờ cho tới lúc tao xuống mồ luôn...

Sáu Sinh cười. Một lát ông nói:

– Coi bộ chú Năm nóng lòng ha.

– Sao không nóng... Có súng đạn bọn Hai Rạng, Ba Hoàng mới đỡ làm càn. Có súng tao bảo với Mười Bàng một câu và nhảy vô du kích liền.

– Bây giờ chú cũng là du kích rồi chớ bộ... - Sáu Quyên ngồi cạnh Sáu Sinh, cô tham gia.

– Du kích chi? Du kích chẳng có súng tao không màng... - Năm Bào đáp, một lúc sau hạ giọng hỏi. - Dịp này sắp đánh lớn hay sao mà đồng chí Bí thư thân chinh về làng Cát ta?

– Quan trọng hơn cả đánh lớn đó chú Năm. - Thành lại ngứa ngáy mồm, loe xoe. Cậu chàng định nói thêm gì đó nhưng Sáu Quyên ngồi cạnh đã kịp giật giật tay áo, biết lỡ lời nên anh chàng nỏ miệng ngồi im.- Tao cũng ngửi thấy có cái gì đó cựa quậy rục rịch, nhưng chưa nghĩ ra... Nhưng làm gì cũng cho Năm Bào tham gia với nghe, Sáu Giáo. Đừng thấy lão này già mà hất ra ngoài, tội nghiệp.

– Chú chẳng đang tham gia đó sao?

– Nhì nhằng cái chân chèo xuồng này?

– Sắp tới cần rất nhiều xuồng và cũng cần rất nhiều người biết chèo xuồng đó chú Năm.

– Vậy sao? Nhưng chèo xuồng chạy lính Rồng Biển của Ba Hoàng càn lão này không hám nghe... - Ông Năm nói tiếp. - Chẳng rõ đồng chí Bí thư đã rành chuyện này chưa, làng Cát có mấy người chịu không thấu cảnh nay địch ruồng mai địch bố đã bỏ làng đi...

– Số đó nhiều không, chú Năm?

– Xã đội trưởng Mười Bàng bỗ bã nóng nảy vậy, nhưng nó nói đúng phóc.

– Mười Bàng nói sao?

– Tôi phô ra nhưng Bí thư không được phê bình nó tội nghiệp.

– Nói phải củ cải cũng ừ, sao lại phê bình, chú Năm...

– Vậy được. Mười Bàng nói rằng ai sợ địch mà bỏ làng đi lên Lân Cồ là phản bội, là... nói tục chút nghe, là đồ bú cặc cho Ba Hoàng.

Sáu Sinh bật cười to. Mọi người trên xuồng cùng cười theo.

– Mình là người gốc làng Cát thì dù khổ mấy cũng ráng trụ lại mà giữ lấy mồ mả ông bà chớ. Trốn chạy thì sao gọi là người nữa. Tôi nói vậy trúng chớ, ông Bí thư?

– Cũng trúng phóc như Mười Bàng luôn...

– Vậy nói tiếp nghe. Trong làng không ít kẻ dát chết. Nhưng cũng có người, ví như nhà Tư Nhâm chẳng hạn, cô này chuyển lên giáp thị trấn Lân Cồ mua nhà ở vì lý do khác. Người làng Cát nói rằng Tư Nhâm đang ở kỳ ngứa ngáy động đực nên lên đó cho gần lính Rồng Biển. Con người hư thân mất nết ấy là dân ngụ cư ọt ẹt, lang chạ đâu, mặc xác. Cho Hai Rạng hay Ba Hoàng làm đực, không chấp... Nếu con gái nhà này tao xé ra từng mảnh, hoặc dìm sông lâu rồi...

Sáu Sinh thôi cười. Có cái gì nằng nặng bỗng chốc chèn ép trong đầu. Ông ngồi im. Đôi mắt hướng về phía làng Cát thoáng chút hãi sợ thấp thỏm giống cái nhìn của kẻ chờ đợi tòa tuyên. Ông rõ rằng khi bố trí để Tư Nhâm chuyển lên xế Lân Cồ hoạt động là thêm một lần nữa thất hứa, làm khó con người này và đẩy chị vào tình thế trớ trêu, nghẽn tắc...

Trước đó ông đã phải cân nhắc tính tới tính lui, đặt ra nhiều phương án, nhưng cuối cùng bất lực. Vẫn biết trong chuyện này có cái gì vương vướng chưa ổn, nhưng hoàn cảnh đặt vào tình thế cấp thiết không cho phép xử lý theo hướng khác... Làng Cát đã giải phóng. Trên cũng đã thông báo ngày một ngày hai tàu chở vũ khí sẽ vào. Nắm được mọi hoạt động của tiểu đoàn Rồng Biển để kịp ứng phó và quyết định thời gian tàu cập bến là điều hệ trọng bậc nhất lúc này. Nhiệm vụ đó ngoài Tư Nhâm và A.5 ông biết trông cậy vào ai?... Lý là vậy nhưng còn tình? Tư Nhâm đã đưa con về quê cho ngọai với hy vọng sẽ được ra cứ, mà đành lần lữa. “Chú biết mày không trông chờ quyết định này... Nhưng...” “Chú ơi, con ráng được...” Sáu Sinh bối rối, thoáng ngạc nhiên. Không phải ông an ủi Tư Nhâm mà Tư Nhâm đang động viên, gỡ bí cho ông. “Mười năm nay con vẫn vậy, gắng thêm một thời gian nữa chẳng sao mà. Con sẽ tìm cách ứng phó với Hai Rạng. Con người ấy có văn hoá, đó là thế mạnh cũng lại là điểm yếu của anh ta”. Khuôn mặt ông Sáu giãn ra, lắng chút cảm động: “Trời ơi, nếu mày nghĩ được vậy chú mừng lắm... Con có thấu nỗi khổ tâm của chú không, Tư?”. “Con hiểu chớ... Chú áy náy hoài làm con buồn đó. Công việc ấy là nhiệm vụ của con mà. Có chú, có Sáu Quyên luôn bên cạnh là con an tâm rồi... Con nhờ chị Năm Hồng tìm giùm nhà trên ấy nghe. Chị Năm quen biết rộng.” Tư Nhâm nói, tỏ ra bình thản để người chỉ huy yên lòng nhưng chẳng mấy khó khăn ông cũng nhận ra trong giọng cô và cả trong đôi mắt đang hướng về phía ông vẫn thoáng ẩn nỗi buồn vời vợi... Thời gian không ủng hộ. Song Tư Nhâm đã khôn khéo, chủ động giải quyết những việc ông giao nhanh hơn ông tưởng. Một tuần sau trận càn của lính Rồng Biển vào làng Cát, người dân ở đây thấy Tư Nhâm sợ hãi hơ hải gồng gánh “chạy nạn” lên giáp Lân Cồ. Nhiều người bỉu môi khinh miệt lườm ngang, nhưng rồi nói như ông Năm, mặc xác, còn nhiều việc sống chết bày ra hàng ngày đáng bận tâm hơn là xì xầm về chuyện người đàn bà ngụ cư... “Chú ơi, nghĩ cảnh chị Tư cũng thấy tồi tội... Từ hôm chuyển nhà lên gần Lân Cồ, Hai Rạng càng năng tới. Y hí hả, vui lắm...” Một bận Sáu Quyên ái ngại nói, và ông đã gắt lên: “Biểu không bàn tới việc đó nữa!”, nhưng lòng ông rối như canh hẹ. Nếu chẳng hay có sự gì xảy ra ngoài mong muốn, ông có lỗi với Tư Nhâm đã đành còn có lỗi với người đang ở xa... “Con người ấy có văn hoá, đó là thế mạnh cũng là điểm yếu của anh ta...” Sáu Sinh chợt thở dài. Thôi, trước mắt đành tạm bíu vào sợi tơ nhện mỏng mảnh ấy làm phao mà toài qua đận này vậy...

Con xuồng cập bờ. Bí thư Ba Tánh và xã đội trưởng Mười Bàng thu mình ngồi đợi vội chạy ra. Mọi người cùng nắm tay nhau.

– Mạnh chớ, anh Sáu? Nghe tin anh về mừng quá trời! - Mười Bàng bóp mạnh bàn tay thư sinh của Sáu Giáo trong bàn tay thô ráp cứng quẹo của mình, hồ hởi.

– Mọi người đến đủ chưa? - Sáu Sinh hỏi.

– Mấy anh ở các huyện biết anh cùng tổ võ trang về phổ biến và xây dựng bàn đạp Vũng Rô đặng đón tàu từ miền Bắc chở súng đạn vô nên hồi hộp lắm! Thấp thỏm ngong ngóng Bí thư suốt từ chập tối tới giờ...

– Nè, hỏi trước chút, cần huy động chừng năm mươi người, làng Cát có đủ chớ?

– Anh coi nhẹ làng Cát rồi. Không chỉ năm mươi mà cả trăm người cũng có. Mới giải phóng nên bà con khí thế lắm...

– Huy động đông người mà vẫn giữ được bí mật không dễ nghe. Phải chọn những người ưu tú, có ý thức chính trị, có sức khoẻ để thành lập các đội dân công, nhưng phải tự lo lấy lương thực đó... Những điều kiện ấy làng Cát làm được không?

– Báo cáo đồng chí Bí thư Tỉnh uỷ, chúng tôi làm ngon lành! - Ba

Tánh đáp.

– Đừng chủ quan nghe.

– Còn du kích thì sao, chưa thấy anh Sáu giao nhiệm vụ? - Mười Bàng hỏi.

– Du kích chớ sợ không có việc. Du kích là lực lượng nòng cốt. Phân khu quyết định rút trung đội du kích làng Cát kết hợp với bộ phận võ trang của Phân khu để thành lập đơn vị mới...- Phấn khởi ha... Nhưng xin anh Sáu nói kỹ hơn chút chút được không?

– Vào cuộc họp tôi phổ biến cụ thể...

*

Đêm chống chếnh. Sóng từ biển mài lên cát vọng tới nghe lao xao ầm ì như thể có trận mưa rào đang kéo tới. Về khuya gió thốc trên mái nhà hệt bầy cáo hoang hối hả tìm mồi lướt qua khiến những cọng lá dừa nước lâu ngày đã tơ tướp đập vào nhau phát ra âm thanh lạt sạt. Thỉnh thoảng từ cuối xóm, chỗ giáp Vũng Bầu mơ hồ nghe như có tiếng chim ăn đêm gọi bầy. Ngày trước, nơi đó dương xanh mướt mọc rậm rì như rừng, ban đêm các loại chim bay về trú ngụ, gần sáng vỗ cánh lào rào. Bây giờ đã không thế, họa hoằn lắm mới có đôi ba con quen đường đáo qua rồi như thể nhớ cảnh xưa vội vã kêu vài tiếng cheng chéc và hớt hải bay đi...

Mỗi lần có việc về làng Cát, tâm trạng Sáu Sinh rất lạ. Có cái gì đó vui vui, buồn buồn lại nhớ nhớ làm ông chộn rộn; chuyện xưa, chuyện nay đan cài dặm vá đến nôn nao. Nghĩa tình, nỗi đau, niềm hận và cả những điều riêng tư dẫu đã bị thời gian đẩy lùi đến mấy mươi năm vẫn canh cánh tiếc nuối xót xa trăn trở... Ngày tháng, chức vụ và vị thế chẳng thể đóng băng quãng sống cùng những kỷ niệm lúc nào cũng đau đáu đã thành máu thịt, mà thiếu thứ ấy cuộc đời trở nên khô khốc vụn tơi, đơn điệu.

Nằm trong ngôi nhà của Năm Bào đã trở thành chỗ đi lại quen thuộc nhiều năm nay, Sáu Sinh trằn trọc thao thức quay qua quay tới. Ông mông lung trong những ý nghĩ chắp nối lúc như dòng chảy liên tục của con suối Yên nơi núi ẩn, lúc rời rạc tựa cơm nguội phơi khô... Hận thù đời này qua kiếp khác triền miên và quyền lực hão đã cuốn cái làng nghèo nhách nhỏ bé chỉ cát và cát này vào guồng quay oái oăm trớ trêu nghiệt ngã, vô lý và vô nghĩa. Không ai thoát ra khỏi vòng luẩn quẩn hãi hùng đó. Nó là chiếc xe lu kềnh càng mà thân phận mỗi con người chỉ là mầm cỏ, cái kiến bám trên đó...

Trời đã khuya lắm. Xa xa hình như có tiếng gà eo óc gáy sáng. Năm Bào cũng khó ngủ, bèn trở mình quay sang Sáu Sinh.

– Sao, trước đây sống chui rúc, khi ngủ cũng co ro nằm ẹp dưới hầm, nay được thảnh thơi nằm trên giường trên phản lại không chợp được mắt, phải chưa? - Năm Bào hỏi.

– Sáng sớm mai anh Năm đi cùng tôi ra bãi dương nghe...

– Ra bãi dương phải đi thiệt sớm đó. Lính Ba Hoàng sục sạo bất thường lắm. Muốn thắp hương cho Tư Đởn hả?

– Thím Tư ân nghĩa... Tôi mang ơn tình con người ấy nhiều như cát.

– Thắp hương cho ai nữa?

– Rồi qua mộ chị Hai Hậu nhà mình...

– Còn ai nữa? - Năm Bào gặng.

Sáu Sinh không đáp. Hai bàn tay đan lại làm gối để dưới gáy, đôi mắt mở to nhìn lên mái nhà lợp lá dừa nước lâu ngày đã ải. Một lát, ông hỏi lại:

– Hình như anh Năm có biết chuyện?

– Mụ nhà này và cô Ba Hương là chị em con dì con dà đó nghe. Hai Hậu là con người chị, Ba Hương là con người em...

– Chuyện đó tôi rành mà, anh Năm.

Sáu Sinh đổi cách xưng hô. Những lúc chỉ có hai người, chuyện trò mang tính tâm tình, Sáu Sinh thường kêu Năm Bào bằng anh. Gọi vậy đúng hơn, Sáu Sinh năm nay gần sáu mươi, Năm Bào chỉ hơn chục tuổi, coi như cùng thế hệ. Thấy bọn trẻ kêu Năm Bào bằng chú, ông quen miệng cũng gọi theo vậy thôi. Với nữa kêu Năm Bào bằng anh còn có nghĩa khác...

– Con dì con dà lại cách nhau cả chục tuổi nhưng Hai Hậu nhà này và Ba Hương quý nhau như hai chị em ruột. Chắc do hợp. Chuyện lớn chuyện nhỏ, chuyện gia đình, chuyện riêng tư đều rủ rỉ tâm sự với nhau...

Nghe Năm Bào nói, Sáu Sinh chợt hiểu ra rằng trong nhiều năm qua chắc Năm Bào, bằng cách nào đó đã hay chuyện tình nghĩa giữa ông và Ba Hương.

– Những điều ấm ách trong lòng nếu kể ra được cho người biết nghe, biết thông cảm cũng là cách trút bỏ, làm vơi vợi chút chút nỗi phiền muộn. - Năm Bào nói tiếp. - Hồi dì Ba lâm chung, người dì vời tới để nhắn gửi những lời cuối cùng là Hai Hậu nhà này... Số dì Ba khổ. Lấy được kẻ giàu có, của nả dư thừa nhưng tâm không an. Lúc chết vẫn còn những điều băn khoăn áy náy... Tội! Những chuyện dì Ba ôm nặng bọc giấu trong lòng, chỉ mở ra một lần cho Hai Hậu hay mãi sau này, khi mụ nhà này biết chắc bệnh tình mình khó qua mới lại kêu tôi tới, thều thả đứt nối kể lại cho nghe. Còn dặn mãi rằng phải giữ kín... - Năm Bào quay qua, chợt hỏi. - Vẫn nghe tôi nói đó chớ?

– Thời gian trôi đi nhanh thiệt, phải vậy không anh Năm? - Sáu Sinh đáp và nghĩ rằng chuyện Năm Bào đang nói cũng chỉ xoay quanh mối tình của ông và Ba Hương. Việc ấy đã lâu và có những điều được giữ kín chỉ trời biết, đất biết và hai người biết. Rồi trước khi qua đời, Hương có lẽ muốn thêm Hai Hậu biết nữa và sau đó người vợ đã trăng trối lại với Năm Bào... Bây giờ gặp Sáu Sinh, điều kiện thời gian thư thả chắc Năm Bào muốn nhắc tới sự biết ấy như một câu chuyện kín đã không còn bí mật...

– Hồi đứa con trai của dì Ba Hương lên hai tuổi, dì bị bệnh quái qủy gì đó không ai hay. Chỉ thấy quằn quại ôm bụng kêu đau. - Ông Năm say chuyện, kể tiếp. - Mấy cha xì xằng làm thuốc trong làng sờ sờ nắn nắn một lát rồi lắc đầu. Không còn cách chi khác, thằng chồng dì ấy đành cuống quýt đặt dì lên võng, kêu người khiêng lên Lân Cồ hi vọng vào nhà thương trên ấy... Đường xa nên mãi gần sáng người và võng mới rồng rắn tới ngã ba Lân Cồ, nơi ngày nay Năm Hồng mở quán nước. Lúc đó dì Ba đã đuối lắm. Dì làm hiệu dừng võng và phào phào nói rằng muốn gặp chị Hai Hậu. Mụ nhà này lúc ấy đứng ngay cạnh liền sà xuống. “Gắng lên nghe em, chỉ quãng nữa tới nhà thương rồi đốc tơ thăm bệnh cho.” Dì Ba run ró quờ tay tìm bàn tay mụ nhà này, đặt vào lòng, nói rất khẽ: “Em sắp đi rồi... Con em còn nhỏ dại... Em muốn nói với chị một việc và trông cậy cả vào chị... Chị ơi, cúi thấp xuống chút nữa để nghe em nói cho rõ nè...”. Nghe xong, khuôn mắt mụ vợ tôi thất sắc, nước mắt trào ra, miệng lảm nhảm như người điên: “Trời đất! Vậy thì em phải sống... Phải sống. Em không được chết.” Song lúc đó bàn tay lạnh ngắt của dì Ba đã buột ra khỏi bàn tay Hai Hậu... Chuyện cũng đã trên mấy mươi năm rồi đó, Sáu Sinh.

Sáu Sinh gắng nén tiếng thở mạnh. Đôi mắt vẫn mở to hướng lên mái nhà. Phải, chuyện đã hai ba mươi năm có dư và cả Năm Bào, cả Sáu Sinh chưa ai quên. Nó như thể mới xảy ra ngày qua ngày kia lận... Người xưa nói hồng nhan bạc phận, trường hợp Ba Hương quả như vậy. Xinh đẹp nhất làng và cũng lận đận bất hạnh nhất làng. Bị ép duyên lấy chồng giàu, thôi cũng đành, nhưng khi sinh hạ được đứa con trai ngỡ rằng thế là có chỗ an ủi bấu víu, ai dè con bắt đầu bi bô biết gọi má, lại từ bỏ cuộc sống người đời vẫn cho là sung sướng mà ra đi. Ba Hương mất còn quá trẻ. Năm ấy mới xấp xỉ hai lăm... Nhưng những chuyện ấy mãi sau này Sáu Sinh mới hay. Khi Ba Hương phải mặc áo mới, đội khăn để về nhà người an phận làm vợ, rồi sinh con và qua đời, Sáu Sinh còn ôm hận rúc rủi nơi quê ngoại. Ông lên đó nhằm ẩn trốn nỗi đau, cũng là biểu hiện sự yếu đuối, sự chán nản để rồi suốt cuộc đời còn lại đành cay đắng cõng mối tình đầu cùng nỗi hận bất lực không cách chi bảo vệ được người yêu níu bám trên lưng...

Mảnh mai như một giải lụa nhưng tâm hồn gợi mở rộng lớn tựa đại dương, Ba Hương là hun đúc kết tinh của những gì tốt đẹp nhất trời đất phú cho vùng cát nóng và nắng rang rang này. Da trắng. Môi mỏng và đỏ. Đôi mắt luôn mở to ngơ ngác. Ba Hương với những gì trời ban tặng như thể không phải sinh ra tại dải cát ven biển gió mặn hun da hun thịt này. Yếu ớt như một cọng rêu, cô dễ tạo cho người đời ý thức che chở... Hồi đó cậu Sáu cũng bạch diện thư sinh, nói năng nhỏ nhẹ, thưa gửi lịch sự nên được Hương chú ý. Cô thường lúng túng ngấp nghển giả bộ vô tình tạt qua con đường cậu vẫn đi học, lúc dúi cho gọi kẹo, lúc gửi chiếc khăn... Họ quý mến tình ý phải mặt nhau từ bao giờ, cả hai không hay. Nhưng một ngày không nhìn thấy nhau là xốn xang mong nhớ chẳng yên. Bởi vậy thường tạo ra cớ để được thấy mặt. Và cũng chỉ cần thoáng nom thấy bóng nhau là thoả mãn...

Hôm ấy là đêm rằm, Ba Hương hẹn Sáu Sinh ra bãi biển. Trăng rất sáng, nhóng nhánh dát bạc xuống nước, xuống cát. Sóng cùng ánh trăng nhè nhẹ mơn man vỗ lên bãi, âm thanh ì ao đơn điệu tựa lời hát ru buồn thảm gợi cảm ở những người đàn bà xa chồng khuya về ôm con nằm trên võng cất lên tâm trạng nhớ thèm của mình... ánh sáng mỏng mảnh dìu dịu nhẹ tênh trong đêm khơi gợi cảm giác buông xuôi... Phảng phất đâu đấy vẫn hương vị nồng đượm quen thuộc của các loại cá ướp muối khi lên men. Có cái gì đó chòng chành, cởi mở trong không gian ngàn ngạt gió biển.

Mảnh mai như một giải lụa nhưng tâm hồn gợi mở rộng lớn tựa đại dương, Ba Hương là hun đúc kết tinh của những gì tốt đẹp nhất trời đất phú cho vùng cát nóng và nắng rang rang này. Da trắng. Môi mỏng và đỏ. Đôi mắt luôn mở to ngơ ngác. Ba Hương với những gì trời ban tặng như thể không phải sinh ra tại dải cát đen biển gió mặn hun da hun thịt này. Yếu ớt như một cọng rêu, cô dễ tạo cho người đời ý thức che chở... Hồi đó cậu Sáu cũng bạch diện thư sinh, nói năng nhỏ nhẹ, thưa gửi lịch sự nên được Hương chú ý. Cô thường lúng túng ngấp nghển giả bộ vô tình tạt qua con đường cậu vẫn đi học, lúc dúi cho gọi kẹo, lúc gửi chiếc khăn... Họ quý mến tình ý phải mặt nhau từ bao giờ, cả hai không hay. Nhưng một ngày không nhìn thấy nhau là xốn xang mong nhớ chẳng yên. Bởi vậy thường tạo ra cớ để được thấy mặt. Và cũng chỉ cần thoáng nom thấy bóng nhau là thoả mãn...

Hôm ấy là đêm rằm, Ba Hương hẹn Sáu Sinh ra bãi biển. Trăng rất sáng, nhóng nhánh dát bạc xuống nước, xuống cát. Sóng cùng ánh trăng nhè nhẹ mơn man vỗ lên bãi, âm thanh ì ao đơn điệu tựa lời hát ru buồn thảm gợi cảm ở những người đàn bà xa chồng khuya về ôm con nằm trên võng cất lên tâm trạng nhớ thèm của mình... ánh sáng mỏng mảnh dìu dịu nhẹ tênh trong đêm khơi gợi cảm giác buông xuôi... Phảng phất đâu đấy vẫn hương vị nồng đượm quen thuộc của các loại cá ướp muối khi lên men. Có cái gì đó chòng chành, cởi mở trong không gian ngàn ngạt gió biển.

– Ngồi gần vô chút nữa được không? - Hương nhìn Sáu Sinh và nói.

Hai người đang ngồi bên mép nước, cùng nhìn ra biển. Sáu Sinh ngoan ngoãn dịch người, ngồi sát lại.

– Em hỏi nè, anh thương em thiệt chớ?

– Sao hỏi vậy, ngày nào không gặp nhớ đứt ruột... Thương nhau mới nhớ quằn nhớ quại vậy.

Hương chợt thở hắt ra. Khuôn mặt thoáng nét buồn và lại hướng ra xa.

– Giả dụ bây giờ anh không có em, anh tính sao?

– Chết luôn!...

– Không đúng!...

– Thiệt! Anh thương em nhiều lắm. Nhiều như nước biển lận. Hương buồn rầu:

– Rồi anh sẽ quen. Rồi anh chịu được... Cuộc đời phù phiếm lắm... -

Một lát, lại hỏi: Anh có ý định cưới em không?

– Trời đất, em là đặc ân tạo hoá ban cho, anh sung sướng muốn có em làm vợ chớ. Nhưng thư thả để anh học hết đã...

Lại thở dài:

– Hôm nay chúng mình là vợ là chồng nghe. Em muốn... ngay đêm nay.

Sáu Sinh ngạc nhiên quay qua nhìn Hương. Khuôn mặt cô lạnh khô, buồn rười rượi. Mọi bận cô rụt rè e thẹn, vô tình chạm tay vào người Sáu Sinh đã run lên như dẽ và vui tươi hay nói hay cười, đâu xỉu xo lại nói những câu mạnh bạo như vậy chớ.

– Anh không ưng?... Hay sợ?... Đưa tay đây em bảo.

Sáu Sinh chưa kịp phản ứng, Hương đã chủ động cầm bàn tay anh rồi bất ngờ luồn nhanh qua lần áo mới mở cúc, đặt vào ngực cô. Vừa chạm vào bầu vú căng tròn mát mịn của người con gái, bất chợt Sáu Sinh sung sướng và hoảng sợ rúm người lại tựa chạm vào lửa, rồi run bắn và nóng sực như lên cơn sốt. Anh chưa ý thức chuẩn bị cho tình huống này. Anh hoang mang toan rụt lại nhưng bàn tay đã được Hương giữ chặt. Thêm mấy chiếc cúc áo nữa buột ra. Khuôn ngực trinh nguyên trắng ngần với hai ốc đảo tươi non dồ lên lồ lộ dưới ánh trăng. Đúng hơn khuôn ngực ấy cũng là một vầng trăng. Nó đang toả ra ánh sáng, cũng là thứ ánh sáng dìu dịu mát rượi, trong trẻo đa đoan, gợi cảm tình tứ. Sáu Sinh giật mình choáng ngợp, vừa tò mò vừa ngạc nhiên gần như không hiểu gì nữa. Máu dồn lên mặt nóng phừng. Đầu óc quay rối hoang mang... Nhưng thoáng đó qua đi rất nhanh. ý thức được tình yêu nơi Hương, tình yêu nơi mình cùng sự háo hức đàn ông, Sáu Sinh cuống quýt rồi vụng dại úp khuôn mặt vào vầng trăng ngẫn ngà thánh thiện trong veo như thuỷ tinh đó. Và sau phút thăng hoa ấy anh nhanh chóng trở thành người đàn ông mạnh mẽ, táo bạo và quyết đoán... Hương sung sướng nhận ra sự vụng về trong những cử chỉ e dè mà bạo liệt có cái gì táo tợn đáng ngạc nhiên nơi anh. Cô cũng mạnh dạn dần lên. Có cái gì đó giật dột thúc bách từ những điểm nhạy cảm lan toả khắp cơ thể khiến Hương cũng run rẩy, cuống cuồng. Ngây dại và đam mê trong ý thức và bản năng, cô cà khuôn mặt mình lên khuôn mặt anh. Đôi môi và bàn tay hăm hở lần tìm, lần tìm...

– Của anh, tất cả là của anh đó... đừng ngại. - Hương thấp thả trong hơi thở đứt nối của sự mãn nguyện thực hiện ý định nơi mình.

Đêm ấy hai người đã dành hết cho nhau. Họ chuầy choà trên cát. Ngỡ ngàng. Cuồng nhiệt. Bất chấp. Không có gì phải kìm giữ. Bản năng và ý thức đã thuộc về nhau của hai cơ thể khỏe mạnh khiến họ đam mê, dai dẳng, xoắn bện. Cát bết lên mặt, cát dính vào tóc, cát bám vào mọi ngóc ngách... Hôm ấy bầu trời chỉ còn là một khum tay bé tẹo và biển trở nên đơn điệu vô duyên trơ trẽn. Chỉ còn sự đồng loã của ánh trăng, bãi cát và nỗi khát thèm...

Gần sáng hai cơ thể trong veo bết cát nhoà ánh trăng say đắm dính vào nhau như thể họ đã hoà quyện, kẻ nọ tan ngấm vào da thịt kẻ kia...

Nước bắt đầu cường. Những con sóng nhã nhặn trườn lên vỗ về nhè nhẹ vào hai cặp chân trần như an ủi, đánh thức... Hai cơ thể ướt sũng nước và dấp dính cát co ro và tiếc nuối lặng thinh ngồi bên nhau một lúc nữa. Khuôn mắt Hương chợt trở lại trạng thái xa xăm khó hiểu. Rồi cô nói, giọng rất tỉnh. Có nỗi đau vô phương cứu vãn khiến con người trở nên hoá băng chai sạn tỉnh táo dửng dưng.

– Anh ơi, ngày mai em phải lấy chồng! - Gắng nén nỗi lòng, giọng cô mỏng như hơi thở.

Đó là thông điệp cuối cùng, lời nói cuối cùng của người con gái ở nghĩa nào đấy đã trở thành vợ Sáu Sinh...

“Anh ơi, ngày mai em phải lấy chồng!”, nhiều năm rồi, chưa lúc nào Sáu Sinh bằng yên nguôi ngoai câu nói cuối cùng ấy của người mình yêu. Nỗi đau giằng xé trái tim mềm yếu của Sáu Sinh khiến ông xót buốt nghẽn đắng suốt khúc đời còn lại. Không thể san vơi cùng ai, ông câm lặng chịu dựng, một mình mình biết, một mình mình hay. Nỗi đau càng bị nén như thể càng phồng lên nhức rát... Khi hay tin Hương qua đời, ông chuếnh choáng bàng hoàng như kẻ nhận ra mình đang sa xuống vực. Xót xa, tiếc nuối, ông hối hả thu xếp việc nhà rồi nhanh chóng trở lại vùng cát nhiều đa đoan lắm mưa, sẵn nắng đó làm anh giáo làng. Ông không thật rõ tại sao mình hành động như vậy. Cuộc sống có những điều chẳng dễ lý giải gọi tên... Nhớ tiếc, bù đắp, ân hận, thù giận... và cả những gì nữa ông không thật rõ. Chỉ thấy rằng cứ có cái gì đấy thúc gọi phải về làng Cát, vậy thôi. Ông bọc giữ nuôi dưỡng những kỷ niệm như báu vật. Không cách gì quên được người con gái mảnh mai mềm như dải lụa và cái đêm trăng loã thể toả ánh sáng dìu dịu xuống bãi cát ướt... Nhiều năm rồi, vẫn vậy. Vẫn tươi nguyên nỗi nhớ và tình cảm mơn mởn diệu kỳ ấy...

Cuộc sống dù dư tràn nỗi bất hạnh vẫn không bao giờ dừng lại. Nó là dòng chảy bất tận của thời gian, giống như dòng nước con sông Thạch Bàn về mùa lũ triền miên xuôi ra biển... Năm năm tháng tháng qua đi, cũng như lũ trẻ trong làng, đứa con trai của Hương lớn lên lại long nhong cắp sách đến trường để thầy Sáu Giáo dạy chữ... Thằng bé may mắn thừa hưởng nhiều nét đẹp của mẹ. Cao ráo, khuôn mặt dễ coi, da trắng, mịn. Và đôi mắt to, ánh nhìn tinh nghịch. Chỉ tính nết là giống bố, chưa đầy chục tuổi đã tỏ ra cao ngạo, kẻ cả. Nó thường dựa thế con nhà giàu để bắt nạt anh em nhà Tư Đởn và lũ trẻ cùng lứa... Sáu Sinh không mấy cảm tình với nó, nhưng cũng không ghét bỏ. Ông đối xử bình đẳng công bằng như trẻ khác trong lớp. Học thuộc bài, ông thưởng. Nghịch ngợm, lười biếng và đến lớp trễ giờ, bị phạt. Thằng nhỏ biết thầy giáo nghiêm lại công minh nên cũng kiêng dè, tôn trọng. Nó chỉ quậy nghịch ngoài đường còn khi đã vào lớp biết học chăm chỉ và tỏ ra nghe lời... Ai dè lớn lên, thâm thù cố hữu với những người cùng làng cùng xã, những người nó được tiêm nhiễm rằng đã dựa thời thế mà cướp trắng tài sản ruộng vườn, hành hạ gia đình nó, và vẫn đang tìm cơ hội giành giật những gì bố con nó cũng nhờ vào lợi thế ở giai đoạn mới mà lấy lại được, nó trở thành kẻ tàn nhẫn, cuồng tín và bất chấp...

... Sáu Sinh trở người. Tiếng gà gọi sáng lao xao khắp xóm. Năm Bào cũng bật dậy. Ông bước khỏi giường, ra cửa ngó nghiêng nhìn trời rồi quay vào. Chợt ông hỏi:

– Ở đời cái gì là quý nhất, Sáu Sinh? Lão già này thì cho rằng cái tình đồng chí Bí thư ạ. Chớ không phải vậy sao? Của nả, chức vị, tiền tài... vô nghĩa hết. Chết có mang theo được không?

– Trời sáng rồi hả anh Năm?

– Để tôi tìm bó nhang và hộp quẹt... Thằng khốn đó hung hăng bắn giết nhưng với má nó cũng là thằng con có hiếu. Nó xây mộ má nó to nhất làng Cát.

– Ai vậy, anh Năm?

– Thằng con Ba Hương đó...

– ờ!

– Dì Ba Hương là người hiền lành nhân hậu, nhu mì, sống tình cảm, sao lại sinh ra thằng con chuyên làm những điều thất đức vậy chớ... Dưới suối vàng mà hay chuyện chắc dì Ba buồn lắm... Đồng chí Bí thư cẩn thận giữ mình nghe, nó săn suốt đó.

– Ta đi chớ?

– Sáu Sinh, mặc thêm chiếc áo, ngoài bãi dương sáng sớm sương xuống trời lạnh!

IV

Tư Lăng trùm tấm áo mưa khá rộng lên chiếc ba lô đeo trên lưng, trầy trượt nơi con đường đất lầy lội, đi về phía quân cảng. Trời lất phất mưa. Mấy hôm nay khí hậu đỏng đảnh, tạnh ráo một lát trời lại lắc rắc đổ nước xuống. Các cụ trong làng nơi Tư Lăng và mấy học viên ở nhờ trong thời gian bổ túc cấp tốc lớp cán bộ thuyền gọi là mưa rươi. Mấy hôm rồi chợ bán ê hề, giá lại rẻ. Chị chủ nhà trưa nay xách về nửa cân với dụng ý làm bữa ăn tươi chia tay với Tư Lăng và mấy anh em ngày mai mãn khoá trở về đơn vị. Rươi rửa sạch, đập thêm vài ba quả trứng, vỏ quýt thái chỉ, hành, lá gừng, thìa là, thịt nạc vai băm nhỏ trộn vào, khi rán nức mùi, chưa ăn đã biết là ngon. Bữa rượu chỉ có rươi rán, riêu cá, rau sống và đĩa lạc rang nhưng kéo đến quá ngọ. Người chủ nhà khéo nịnh nắc nỏm khen vợ nấu ăn giỏi. Mấy anh chàng ở cùng nhà với Tư Lăng háo hức uống chén này đến chén khác. Họ biết sắp được xuống tàu chiến nên mừng. Riêng Tư Lăng không mấy vui. Một lần nữa số anh lại hẩm hiu, được cấp trên bố trí về làm thuyền phó một tàu vận tải... Lại đành tự an ủi rằng tổ chức biết sắp xếp sao để có lợi cho cách mạng nhất. Không chờ đến sáng hôm sau, chiều nay anh tạm biệt mọi người, đi nhờ ôtô lớp học xuôi xuống Hải Phòng, từ đó cuốc bộ lần về đơn vị mới...

Mưa vẫn đều đều đổ xuống. Tư Lăng kéo tấm áo mỏng, hơi cúi người tránh nước tạt, hướng về phía bờ sông...

Ngôi nhà làm sở chỉ huy giáp cầu cảng không mấy rộng. Đồ đạc sắp xếp lỉnh kỉnh. Hòm, gói bó buộc chồng xếp lên nhau.

– Sắp phải sơ tán nên cũng hơi luộm thuộm. - Người trung úy tự giới thiệu mình là trợ lý tham mưu đơn vị khi Tư Lăng trình giấy quyết định điều động, kéo ghế mời anh ngồi, rồi thanh minh. Giọng anh rất vui, có cái gì thân tình, xởi lởi - Đã được thông báo có cậu bổ sung về nên bọn mình ngóng suốt... Dân Phú Yên hả? Hay rồi! Từ ngày tập kết có tin tức gì quê hương không? Có vợ có người yêu gì chưa, là mình hỏi trong Phú Yên ấy...

Loạt câu hỏi người trợ lý tham mưu cấp tập bắn ra không làm Tư Lăng mếch lòng, anh thấy ấm áp, dễ chịu.

– Này, mình hỏi thật nhé, từ ngày ra Bắc tới nay đã léng phéng với cô nào chưa? Lính đặc công các ông ẩn hiện bất thường lắm... Đã tập kích đột nhập vào đâu là chắc thắng, khi rút ra biết cách không để lại dấu vết... Khi nào có điều kiện truyền kinh nghiệm nhé.

– Tôi đã có vợ và một cô con gái ở quê.

– Con gái à, tuyệt vời. Ruộng sâu trâu nái không bằng con gái đầu lòng... Nghe nói phụ nữ Phú Yên xinh lắm. Vợ cậu, con cậu cũng xinh chứ?...

– Tôi chưa biết mặt con mình. Khi xuống tàu để ra Bắc tập kết, vợ mới cận ngày sinh.

– Vậy mà khoe là con gái.

– Mấy anh em xuống tàu đi chuyến sau thông báo cho hay là vợ đẻ con gái.

– Nghĩa là nán lại thêm chút chút sẽ nhìn thấy mặt con. Hiểu rồi... Này, thế đã sẵn sàng nhận công tác được ngay chưa? Dưới đó anh em đang mong cậu lắm.

– Hình như có việc gì quan trọng, lại gấp phải không anh?

– Tắm rửa rồi tối nay về dưới cảng ngủ với mình... Sáng mai xe đơn vị sẽ đưa cậu ra Đồ Sơn. Tàu đang neo đậu ở đó... Nóng lòng hả, về đấy khắc biết... Chúc mừng.

Đêm ấy Tư Lăng nghĩ mông lung. Lão trung uý phổi bò tốt tính này cứ úp úp mở mở đến khó chịu. Công việc vận tải có quái gì quan trọng mà chúc mừng? Một năm vài ba chuyến đưa hàng ra đảo rồi lại về neo tàu ở bến lê la mài đũng quần mòn cả mông trên boong đánh bài và nói bậy tán tục giết thời gian. Làm thuỷ thủ trưởng hơn ba năm, anh còn lạ gì!

Nhưng sau đó thì Tư Lăng sửng sốt và mừng vui đến ngẩn ngơ khi hiểu rằng mọi điều không như mình nghĩ, số anh may mắn hơn anh tưởng, may mắn hơn cả mong đợi. Khi thủ trưởng Đoàn đọc quyết định, trao nhiệm vụ rồi căn dặn những điều cần thiết, anh ngỡ ngàng ngạc nhiên và bàng hoàng như không tin đó là điều có thật. Nằm mơ Tư Lăng cũng chẳng nghĩ tới việc mình được bổ nhiệm làm thuyền phó trên con tàu mà mấy ngày nữa sẽ nhổ neo đưa vũ khí bí mật về quê hương Phú Yên. Không thể tưởng tượng được! Cha trung uý trợ lý tham mưu vậy mà kín. Lão cứ huỵch toẹt ra mấy hôm trước có phải bây giờ Tư Lăng đỡ choáng... Trời ơi, được trở về quê, trở về quê thật! Trở về trở bằng chính con tàu Tư Lăng đang đứng trên đó...

Những ngày chuẩn bị kế đấy Tư Lăng nôn nao đến phát điên. Ban ngày trằn nhoài vào công việc. Nhận dầu, nhận thực phẩm, lấy nước ngọt, bốc xếp vũ khí, và vô vàn những công những việc tủn mủn không tên khác trước mỗi chuyến đi. Nhưng đêm về lại lên boong tủm tỉm ngồi nhìn ra biển. Chỉ còn mấy hôm nữa tàu rời bến mà cảm giác lâu như vô tận. Nỗi mong ngóng ngày lên đường tràn dâng như nước đại dương... Liếc sang cạnh, đốm lửa trên miệng thuyền phó Thơm chốc chốc lại loé đỏ. Người đồng niên, đồng chức và đồng hương cùng huyện Sông Cầu này hồi hộp chẳng kém Tư Lăng. Mấy hôm rồi Thơm cũng ít ngủ, lên boong ôm gối ngồi đốt thuốc suốt. Thỉnh thoảng lại hỏi:

“Lực lượng nhận hàng là bộ đội hay du kích chớ, liệu có gặp ai quen để hỏi han thăm nom một chút không ta? Thả hàng xong là đưa tàu ra khơi ngay sao?”. Người nào cũng có tâm trạng. Thuyền trưởng Thanh còn trẻ, mấy lần chỉ huy đưa tàu vào Cà Mau, đám lính kháo nhau rằng có kinh nghiệm nhưng lần này xem ra cũng thấp thỏm... Anh khuyên mọi người gắng giữ sức khoẻ song lại là người thức khuya nhất tàu. Máy trưởng Quý hễ thấy đám thuỷ thủ túm tụm trên boong là sán vào khoe:

“Nhà mình giáp thành phố Nha Trang nên quanh năm hưởng gió biển. Không mất tiền mà được ở trong khu du lịch”. Hôm Tư Lăng mới về, đấm vai bồm bộp: “Vợ con trong đó cả hí? Vui rồi... Tuy Hoà cách Nha Trang hơn trăm cây số thôi nghe”. Cán bộ tàu, chỉ chính trị viên Chiêu là dân miền Bắc... Anh thường doạ mọi người bằng con ngoáo ộp: “Đã là nghị quyết chi bộ thì cứ vậy thực hiện, không bàn thêm”. Nguyên tắc ấy với anh là bất di bất dịch. Song đó là con người vui tính và trách nhiệm. Anh lo cho chuyến đi đến xọp cả người. Cũng mong ngày lên đường như hết thảy “anh em quê trong đó”...

Rồi ngày ấy cũng đến. Buổi sáng làm thủ tục xuất phát. Những chiếc thẻ Đảng, thẻ Đoàn được bọc gói, từng người lặng lẽ bước lên trao lại cho thủ trưởng Đoàn. Ngắn gọn nhưng trang trọng thiêng liêng.

Xế chiều, chiếc xe của Tư lệnh quân chủng đột ngột xuất hiện nơi cầu tàu. Ông lặng lẽ bước lên boong. Chính trị viên Chiêu lúng túng chưa rõ nên xử trí thế nào, đứng đực ra, miệng lắp bắp lí nhí những câu vô nghĩa. Tư lệnh cười, nói vui:

– Khỏi thủ tục nữa, nghe đồn tàu ta có rượu ngon, lại biết máy trưởng Quý uống rượu như uống nước lã, hôm nay xuống xin một chén chia tay với anh em thôi.

Chiêu gãi gáy, thở phào, lúc đó mới nhếch miệng thoải mái cười theo... Thuỷ thủ nhanh chóng được triệu tập, ngồi quây trên boong. Hình như Tư lệnh quân chủng cũng đang cố nén một điều gì, ông không hề có ý nói tới chuyến đi của tàu T.35. Ông hỏi han chuyện riêng tư từng người.

– Đồng chí thuyền phó mới bổ sung về ngồi đâu nhỉ? - Chợt ông hỏi.

Tư Lăng vội đứng dậy:

– Báo cáo Tư lệnh, tôi, thuyền phó Tư Lăng đây ạ. Tư lệnh làm hiệu để anh ngồi xuống:

– Như vậy trên tàu đa phần là người Phú Yên mình, đúng chưa? Bộ Tư lệnh có ý là muốn chính các đồng chí chở vũ khí về cho quê hương đánh giặc... Vui chớ?

– Báo cáo, rất vui ạ... - Tư Lăng đáp.

– Vợ con rồi chứ, hả? Thời kháng chiến chống Pháp, có thời gian tôi hoạt động ở mạn đó. Xuýt nữa làm rể Phú Yên. Gái Tuy Hoà mặn mà lắm... Này, Tư lệnh xuống thăm mà không có ý định khao gì à, ông Chiêu? Có rượu thì mang ra đây cùng làm một chén trước khi lên đường. Nhưng phải là rượu ngon, rượu có thể đốt cháy... Nếu không có thì Tư lệnh khao lại vậy. - Ông nhìn sang. Người trợ lý vội đưa chiếc cặp. Ông lấy ra chai rượu trắng. - Loại quốc lủi nút lá chuối này mới đáng uống, rượu Tây nhìn thì sang trọng nhưng nhạt thếch. Cho muợn cái cốc, ông Chiêu. Chúng ta uống chung nhé.

Tư lệnh uống trước. Cốc rượu được chuyển vòng qua từng người. Ai cũng nhâm nhi một ngụm. Không khí trở nên thân tình cởi mở.

– Rượu của thủ trưởng ngon quá! - Máy trưởng Quý tấm tắc.

– Biết uống đấy! - Tư lệnh nói.

Tư lệnh thường cặp kè chai rượu trong cặp, lúc làm việc căng thẳng lại mang ra nhấp một ngụm. Thói quen uống rượu có từ thời ông còn trẻ. Ngày đó, cách đây đã khá lâu, ông làm chân chạy long toong sai vặt trong mấy đồn lính Pháp nơi Đà Nẵng. Nhanh nhẹn, tháo vát lại xởi lởi, vui vẻ và biết giao dịch bằng tiếng Tây nên mấy viên sĩ quan khoái ông lắm, đi đâu cũng cho theo, và buổi tiệc nào cũng được gọi đến phục dịch. Thậm chí những lúc hứng khởi, chúng ném cả chiếc chai còn già một phần rượu về phía ông, lúc đó đang đứng khép nép chờ sai bảo nơi góc phòng, và khi thấy chai rượu được ông vươn tay ra đón rất diệu nghệ, đám sĩ quan thích chí, nháy mắt cười hi hí rồi hô: uống! Không cần ly, ông đưa chai rượu lên miệng. Đầu tiên phải uống theo kiểu đó làm ông khó chịu, thậm chí nhiều lúc bị sặc, mặt đỏ bừng... Nhưng được bọn lính khích lệ dần dà đâm quen, thậm chí nghiện, không có lại nhớ... Hồi vào rừng theo kháng chiến đã có lần ông suýt mất mạng vì rượu. Hôm đó đơn vị tổ chức trinh sát đồn La Chà. Ông còn lạ gì cái đồn này, mụ đầm vợ viên quan ba nơi đây đêm nào chẳng vào phòng riêng ườn tấm thân xồ xề trắng như bột lọc trong bộ váy ngủ, rồi kêu ông tới bắt xoa bóp. Phần thưởng thường là nửa chai rượu mác tanh vợ chồng viên sĩ quan uống chưa hết. Chân mụ như hai cái bắp chuối, tay ông cố dõng ra bóp, vẫn không ôm khít. Mỗi lần mụ nằm úp xuống giường, cặp vú thộn thện lài ra cạnh sườn trông như miệng con trai thè lè khi tìm mồi. Mụ khoái vén áo lên để ông đấm đấm bóp bóp quanh lưng. Còn ông thì mỗi lần thế là một lần bị tra tấn. Cặp mông to bè sau lớp vải mỏng vổng lên và cái mùi gây gây của đàn bà xứ Tây lẫn mùi nước hoa hăng hắc làm ông bối rối, khó chịu... Những khi như vậy chẳng rõ sao ông thường dừng lại, dốc ngược cái chai, tớp cạn. Rượu hun cho nóng ran, ông xoa càng dẻo. Mụ đầm khoái chí, lim dim mắt hưởng thụ. Mụ nghiện ông mân mê còn ông khoái nốc rượu của mụ... Lần ấy sau khi tổ trinh sát vẽ xong sơ đồ, đang định rút thì bỗng dưng ông nhận ra hương rượu Tây thơm nồng quyến rũ từ phòng ngủ của viên quan ba đưa tới. Không cưỡng được, ông mon men lần đến bên cửa sổ kiễng chân lé mắt nhìn vào. Thân hình phốp pháp với những ngấn thịt trắng hồng của người đàn bà Tây tênh hênh trên giường giống như những bức tranh khỏa thân các họa sĩ thời Phục hưng vẽ, bọn sĩ quan Pháp vẫn treo trên tường nơi phòng làm việc và chai rượu vật nghiêng cạnh đó đã mở nút khiến ông háo hức nuốt nước bọt. Chẳng rõ ông thèm cái cơ thể nẫn nà của người đàn bà kia hay thèm rượu. Có lẽ cả hai. Một thoáng chần chừ rồi ông quyết định vọt qua cửa sổ, luồn vào phòng...

Đưa chai rượu lên uống, ông uống ực một ngụm. Mụ đầm thấy động, hình như nhận ra điều gì liền thức giấc. Mụ hoảng loạn nhìn ông rồi líu ríu xổ một tràng tiếng Tây. Ông vội ngửa cổ tu hết chỗ rượu, ném chai vào tường rồi toài nhanh qua cửa sổ co chân chạy đuổi theo đồng đội. Sau lưng đạn vãi như lúa giống rắc ruộng mạ. Lần đó ông bị kiểm điểm và người ta có ý đuổi ra khỏi đơn vị, nhưng nhờ trận đánh vào đồn La Chà mấy hôm sau ông đã dẫn đường để đại đội lập công to nên mọi chuyện êm xuôi. Song trận đó đã có một bí mật không ai hay, lại chính ông đã cứu bà đầm đó. Khi tên quan ba Pháp bị bắn chết, mụ vợ hãi sợ giãy lên đành đạch như con cá chuối bị sống dao mấy bà nội trợ đập vào đầu vội chui xuống gầm giường tránh đạn, ông đã lao tới lôi mụ ra, vừa làm hiệu vừa nói nhỏ vào tai bằng tiếng Tây, ý rằng muốn sống đừng cuống lên như vậy, hãy giả vờ chết. Hiểu ý, mụ liền duỗi chân dang tay ẹp xuống sàn nhà, cứng đờ như con gián bị lật ngửa. Còn ông vừa xoạc chân phóng qua, vừa bắn vu vơ và hô xung phong... Biết phô chuyện ấy ra thể nào cũng bị rắc rối và chắc chắn khó tránh khỏi kiểm điểm lập trường và khó thoát kỷ luật nên ông ỉm đi. Chỉ sau này, khi đã là Tư lệnh hải quân, những lúc thư giãn với đám trợ lý ông mới vui vẻ nửa đùa nửa thật mang ra kể. Có người tin có người không tin, chẳng sao, kỷ niệm của một thời ấy mà...

– Đàn ông không rượu như kỳ vô phong... Nói vậy thôi, tuổi trẻ các cậu không nên gần rượu. Hả, để mình làm ly nữa nhé. - Ông nhìn người trợ lý như thể có lỗi rồi đưa ly rượu lên, uống cạn. Ông nói tiếp: “Thế này nhé, tôi chẳng căn dặn gì đâu. Mọi điều mấy ngày qua chỉ huy Đoàn đã làm việc với các đồng chí. Nói thêm là thừa. Hôm nay chỉ xuống chơi và chia tay với mọi người thôi. Đây là lần đầu ta đưa vũ khí vào khu Năm nên Bộ Tư lệnh và tôi lo lắm. Nhưng tôi tin vào bản lĩnh, sự thông minh của hết thảy mọi người trên con tàu này. Tôi hứa khi tàu trở về, sẽ xuống thăm và lúc đó chúng ta sẽ uống thật say. Được không ông Chiêu?”

– Báo cáo Tư lệnh được ạ... Chúng tôi hứa cố gắng hoàn thành nhiệm vụ...

– Mọi người biết câu này chứ, rượu có bạn hiền ngàn chén thiếu, lời mà không hợp nửa câu thừa. Do vậy khi trở về, cán bộ tàu phải chuẩn bị nhiều rượu đấy. Lúc đó nếu không đủ uống là phải phạt nặng.

Tư lệnh nói vui vậy nhưng khi đã ngồi trên xe quay về Bộ Tư lệnh, ông trở nên trầm tư. Hơn ai hết ông rõ khó khăn, những phức tạp của chuyến đi lần này. Bến mới, địa hình lạ, địch nhiều thủ đoạn. Đây thực sự là cuộc đấu trí, ai khôn ngoan hơn, thông minh hơn sẽ thắng. Thế mạnh của con tàu là ở yếu tố bất ngờ. Nhưng không ai dám chắc mười mươi rằng địch đóng trên Đèo Cả chủ quan. Hôm qua ông vẫn nhận được thông tin từ Vũng Rô báo ra: “bến yên”. Song ngày mai, ngày kia và những ngày tiếp sau nữa liệu còn yên? Tin tức cho hay cả một tiểu đoàn quân chủ lực ngụy túc trực quanh khu vực sẵn sàng bao vây khi có động tĩnh. Chỉ cần một lực lượng nhỏ của chúng ém nơi cửa vũng là mọi sự trở nên khó lường... Không ai khẳng định chuyến đi nhất định thành công. Đó chỉ là ý muốn... Sáng nay Tư lệnh đã định xuống tàu để có thể nói chuyện được nhiều hơn với anh em, nhưng ông sợ mình không thắng sự yếu đuối khi chứng kiến cảnh các thành viên trên tàu lặng lẽ trao lại tất cả giấy tờ tuỳ thân cho tổ chức. Việc làm ấy nhằm giữ bí mật, đã đành, nhưng ai cũng rõ đấy còn là hành động tự nguyện, một hình thức làm lễ truy điệu mình trước. Ra đi là xác định cảm tử...

Tư lệnh nhìn ra phía biển qua cửa xe rồi chợt hỏi:

– Ở con người cái gì là đáng quý giá nhất?

– Lý tưởng, phải không ạ? - Người trợ lý ngồi ghế trên đáp.

– Không đúng. Sự sống!

– Sự sống?

– Phải!... Chết là điều tồi tệ nhất... Cho xe dừng lại nhé. Mình muốn được đi bộ một vòng.

Chiếc U oát nép sát biển. Tư lệnh bước xuống. Ông đủng đỉnh như người đi dạo. Rồi ông dừng lại trên cát, mắt hướng ra biển. Gió bật tung mái tóc lưa thưa khiến khuôn mặt ông trông già hẳn... Hình ảnh Vũng Rô chợt hiện ra... Vào giai đoạn cuối cuộc kháng chiến chống Pháp, khi làm tiểu đoàn trưởng một tiểu đoàn bộ đội chủ lực Quân khu Năm ông đã nhiều lần dẫn đơn vị luồn lên đường Một tổ chức đánh giao thông nơi Đèo Cả. Đèo Cả khá cao, hiểm trở, một bên nối với Trường Sơn, phía còn lại là biển. Vũng Rô nằm dưới chân đèo. ở đó nước sâu, vách đá đổ ra chênh vênh. Từ trên đèo nhìn xuống, Vũng Rô giống như một cái nong lớn chứa đầy nước, thẫm xanh, ngăn ngắt, lặng phắc có cảm giác như khối nước khổng lồ ấy đặc quánh, dẻo quẹo, có thể xắn ra được. Núi Bia và mũi Mác như hai càng cua ôm lấy vũng nên lối vào rất hẹp, chỉ một tàu địch chắn ngay cửa là tàu ta khó vào... Nhưng quả nơi ấy có địa hình lý tưởng để bốc hàng, lấy hàng, ém tàu... Chọn Vũng Rô, các anh trong đó chắc đã tính toán kỹ... Đưa tàu vào Vũng Rô ngoài những thuận lợi khác, chắc còn muốn khai thác triệt để yếu tố bất ngờ, chủ quan của địch...

– Ta về chứ ạ? - Người trợ lý nhắc.

– ừ, về thôi!

Chiếc xe con ra khỏi Đồ Sơn, trời gần tối. Không khí đã dịu hơn. Tư lệnh uể oải ngả người tựa vào chiếc ghế hàng sau, hai mắt nhắm lại, cố thả lỏng toàn thân cho đầu óc thư giãn. Nhưng có bao điều đan xen chen lấn hiện về... Tư lệnh nhớ hôm ông và đồng chí Cục phó Cục Tác chiến lên báo cáo với Quân uỷ phương án đáp ứng yêu cầu và nguyện vọng của Khu Năm muốn có vài ba chuyến tàu chở vũ khí bằng đường biển vào các tỉnh Trung Trung Bộ, nghe xong Đại tướng Tổng Tư lệnh đã nhắc nhở: “Đường biển là con đường dành cho đồng bằng sông Cửu Long!”. Lúc này ngẫm lại, ông thật sự thấu hiểu điều lo lắng nơi người chỉ huy... Khu Năm dẫu vô vàn khó khăn vẫn còn cơ hội nơi con đường bộ. Con đường xuyên Trường Sơn đang gắng tìm nhiều phương cách để có thể vươn tới khu vực này. Nhưng nếu lộ con đường biển là Nam Bộ hoàn toàn cắt đứt mọi chi viện. Năm ngoái, lúc chiếc tàu gỗ đầu tiên chở hơn ba mươi tấn vũ khí cập bến Cà Mau thành công, ông lên báo cáo với Đại tướng, không ngờ Tổng Tư lệnh mừng vui đến vậy. Đại tướng ôm choàng lấy ông, xúc động: “Cám ơn, cám ơn, vậy là vùng cực Nam không cô lập nữa, trong đó đã có vũ khí...”, và hình như từ khóe mắt ông, dấp dính những giọt nước mắt. Không mừng vui sao được khi một chủ trương được chuẩn bị lâu dài, chuẩn bị công phu với biết bao nhọc nhằn lao tâm khổ tứ, hy vọng rồi thất vọng... đã thắng lợi. Kể từ ngày những chiếc thuyền gỗ của Nam Bộ vượt biển ra miền Bắc xin vũ khí đến khi những khẩu súng đầu tiên được chở vào trong đó, không chỉ tính bằng ngày, bằng tháng mà tính bằng năm. Trong những năm ấy đã có biết bao lo toan, biết bao tính toán và biết bao phương án đã vạch ra; thất bại có, chưa phù hợp có, và nhiều lúc nao núng tưởng chừng như không thể thực hiện được... Trong lãnh đạo không phải đã không có người hoài nghi. Sự hoài nghi ấy có căn cứ. Liệu có mạo hiểm quá khi hải quân ngụy với sự viện trợ của Mỹ dàn hàng ngàn tàu chiến trên biển như lá tre, với rất nhiều phương tiện hiện đại quản lý mặt biển, và liệu những chiếc thuyền nhỏ bé của ta có chống chọi được với sức mạnh biển cả? ấy là chưa kể nơi tàu vào có đủ những điều kiện an toàn và yếu tố địa hình để thực hiện?... Bao khó khăn, bao tình huống... Vậy mà... sau chuyến mở đường thắng lợi, những tháng ngày kế đó vũ khí liên tục vào Nam Bộ, không chỉ chở bằng tàu gỗ, con đường vận chuyển ấy đã có tàu sắt. Không chỉ chở vài ba chục tấn mà đã có thể chở một chuyến vài trăm tấn. Vũ khí nhỏ và cả vũ khí loại lớn. Vũ khí đánh bộ binh và cả vũ khí đánh xe tăng, xe bọc thép, đánh máy bay trực thăng, đánh đồn bốt... Tư lệnh chợt nhớ lại những ngày đầu, khi manh nha hình thành chủ trương không ít người hoài nghi thì đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn đã khẳng định: Trong chiến dịch Điện Biên Phủ ta đã thắng thực dân Pháp bằng những chiếc xe thồ thì nay ta sẽ thắng Mỹ bằng những chiếc thuyền gỗ... Vũ khí cho chiến trường Nam Bộ đang là đòi hỏi có tính cấp thiết, một yêu cầu mang tính sống còn của cách mạng vùng này.

Tư lệnh rõ rằng để hình thành con đường vận chuyển trên biển, quyết tâm của Bộ Chính trị, của Quân ủy rất cao. Sau chuyến ra khơi của chiếc tàu gỗ xuất phát tại Quảng Bình với ý định chở năm tấn vũ khí vào vùng biển Hải Vân hồi năm sáu mươi thất bại, Trung ương đã chỉ thị cho các tỉnh ven biển Nam Bộ tiếp tục chuẩn bị bến bãi, và cho thuyền vượt biển ra Bắc vừa để báo cáo tình hình vừa để trinh sát, nắm địch trên biển. Những chiếc thuyền ấy đã tới hậu phương và đó là tiền đề cho những chuyến chở vũ khí vào Nam sau đó.

Làm một con tính đơn thuần những người khó tính dễ hoài nghi cũng có thể thấy ngay hiệu quả lớn lao của những chuyến vượt biển đưa súng đạn vào Nam Bộ. Trong lúc con đường bộ vượt Trường Sơn khó khăn lắm, kỳ công lắm, chật vật gian nan lắm vào thời điểm này cũng chỉ mới men tới ngã ba biên giới, còn khả năng vươn tới Khu Năm, miền Đông là không thể định thời gian. Còn để vào được Nam Bộ là điều hoang tưởng, không một ai dù hăng hái nhiệt tình tới mấy khó có cơ sở để mơ tới... Mà con đường bộ Trường Sơn kết quả rất hạn chế. Do sử dụng phương cách vận chuyển thô sơ nên hiệu quả không cao. Mỗi chiến sĩ gắng hết sức cũng chỉ gùi được 20 ki lô gam hàng. Muốn chở 10 tấn hàng cần có năm trăm cán bộ chiến sĩ, ấy là chưa kể ốm đau, bệnh tật, địch đánh phá và số người phục vụ cho năm trăm con người đó, và những tổn thất do nhiều nguyên nhân không tên khác. Vậy muốn chở một trăm tấn hàng, một ngàn tấn hàng, một vạn tấn hàng phải cần bao nhiêu nhân lực và phải tiến hành trong vòng bao nhiêu năm? Song, khi thông con đường biển, để có một trăm tấn vũ khí cho Nam Bộ, chỉ cần mười lăm thủy thủ trong khoảng thời gian không quá một tuần là vùng cực Nam đất nước có súng đạn. Đó là bài toán không phải trong tưởng tượng mà đã trở thành hiện thực. Những con tàu của hải quân đã làm được cái điều thần kỳ không dám mơ tới ấy... Thắng lợi vượt ngoài cả dự kiến, vượt ngoài mong đợi...

Súng đạn đã vào được Khu Chín, Khu Bảy và sắp tới sẽ là Khu Năm. Hơn ai hết ông rõ những phức tạp, những khó khăn khi cho tàu bí mật chở vũ khí vào khu vực này. Cung đường so với nơi mút cùng đất nước có ngắn hơn, song việc chọn bến rất không thuận. Suốt dải đất miền Trung không chỗ nào có kênh rạch và cây um tùm phủ xuống như ở Nam Bộ. Tàu muốn vào, chỉ có thể cập vào bãi ngang. Bãi ngang thường thoai thoải cát, nước cạn, gần bờ sóng to, địa hình trống trải nên nếu vì nguyên nhân nào đấy tàu phải ở lại, rất dễ lộ. Chưa kể nơi đây giáp vùng giới tuyến, giáp Quốc lộ Một nên địch canh phòng gắt... Càng nghĩ càng thấy việc chọn Vũng Rô làm bến là thuận về nhiều mặt. Đã từng hoạt động ở vùng này, ông có thể hình dung địa hình quanh khu vực. Vũng Rô khít Quốc lộ Một, đó là khó khăn cũng là thuận lợi. Vũ khí bốc lên bờ, vư?