Chương Ba ⚝ I ⚝
Đêm. Từ trên cao nhìn xuống, Vũng Rô tối nhờ, mông lung u tịch giống như cái chảo nước khổng lồ lặng phắc mờ nhoà trong sương khuya. Nhưng ở cuối vũng, nơi bãi Chình giáp chân núi vốn tứ thời hoang lạnh, không khí nhộn nhịp, náo nức. Con tàu tựa khối đá đen trũi đã nghếch được vào giáp bờ cát. Kề mũi tàu, một cầu cảng ghép bằng gỗ dềnh lên trên mặt nước.
Dân công, du kích và bộ đội đổ tới. Bãi cát nơi mép biển phút chốc sôi động. Người đứng trên tàu, người ngâm mình dưới nước. Kẻ nâng. Người đỡ. Rộn rạo, lao xao. Những hòm nặng vũ khí được thuỷ thủ và thanh niên chuyển từ hầm tàu xuống bãi, xuống xuồng... Điều ngỡ chỉ có trong tưởng tượng đang hiển hiện trước mặt. Như trong thần thoại, con tàu tựa có phép lạ từ xứ sở xa xăm nào đó bỗng dưng xuất hiện. Nó mang theo nhiều hòm, nhiều bó với những súng những đạn... Người Phú Yên đã thực sự đang cầm khẩu súng trên tay mà vẫn chưa dám tin đó là thật. Ông Năm Bào ngồi bệt, cúi xuống ấp người trên một thùng đạn, cười mà nước mắt trào ra, miệng lẩm bẩm:
– Đây là súng, là đạn thiệt sao?
– Chú Năm, tàu to hè? Mấy anh đưa được vô đây, giỏi quá.
Năm Bào không quay lại, say say tỉnh tỉnh:
– Từ khi cha sinh mẹ để tới giờ mới thấy cảnh này là một... Mười Bàng đứng trên một tảng đá giáp mép nước hô lớn:
– Theo kế hoạch, các bộ phận vô việc nghe. Lẹ lên! Tranh khủ khi còn tối trời.
Khuya, thung lũng càng rậm rịch. Du kích đổ tới ngày mỗi đông. Người vác. Người gùi. Nguời khiêng. Không gian trở nên chật chội, bé nhỏ. Mười Bàng chạy chỗ này, la hét chỗ kia, miệng quát tháo:
– Số này đưa đi cầu Cây Khế... Đội Hai hả, cho hàng xuống bãi Tiên. Cứ tới đó, đội kho có người tiếp nhận.
Bên mạn tàu, những chiếc xuồng chất đầy hàng, lặng lẽ khua mái chèo cắt nước. Xuồng ra, xuồng vào hối hả.
Trên con đường từ bãi Chình sát mép nước tới Bãi Môn, Bãi Tiên, núi Bia, dốc Cọ... đặc người. Đi ra. Đi vào. Những khuôn mặt hơn hớn, thoả mãn. Nơi sườn đá chênh vênh, người đứng dưới phải nâng hòm hàng lên cao cho kẻ ở trên đỡ. Người này đạp lên đầu kẻ kia... Năm Bào vừa chuyển thùng hàng cho Sáu Quyên, chợt trượt chân lăn xuống dốc...
– Chú Năm! - Sáu Quyên bỏ thùng đạn, tuột theo. Ông Năm nằm nghiêng, nơi trán có vệt máu.
– Để cháu dìu chú về lán.
– Khỏi, mày vác thùng đạn đi lẹ lên kẻo tắc đường... Tiếng Mười Bàng choang choác ngay cạnh:
– Chịu bao hiểm nguy, tốn bao công sức mới đưa được khẩu súng, viên đạn vô tới đây, cẩn thận nghe bà con... Ủa, chú Năm, sao vậy nè...
Ông Năm gượng đứng lên:
– Còn xa ruột mà...
– Trời ơi, chú ở đội thuyền, tới chi đây. Leo trèo là phần việc của thanh niên. Chú về đội thuyền cho tôi nhờ.
– Mày đuổi tao, Mười?
– Không đuổi, mà mệnh lệnh...
– Mệnh lệnh hả? Vậy được, tao chấp hành. Tao cũng rành kỷ luật nhà binh chớ bộ.
Từ dưới chân núi có tiếng con gái hát vọng tới: Anh ơi giữ chí cho bền - Dù ai xoay hướng đổi nền mặc ai. Kế đó là gịong con trai: Anh về báo nghĩa sinh thành - Chừng nào bóng xế rủ mành sẽ hay...
Thuyền trưởng Thanh đang đi về phía lán chỉ huy của Sáu Sinh, nghe tiếng hát, chợt dừng lại. Cách chỗ anh không xa, tiếng ai đó rất quen, đúng là giọng người làng Cát, tỏ ra sành nghe: “Hát sai nhịp. Luyến láy chưa đúng...”. Tiếng người khác: “Hai Liên, sao nẫu hát hay nẫu không chịu hát, chê chi...”. Tiếng chao chát đáp lại: “Tao giã chạt vào mặt mày. Lên đây chở súng chở đạn chớ lên để thử giọng sao?”. Thanh run người, lặng đi. Hơn chục năm mới lại được nghe hai tiếng nẫu, giã chạt, đặc trưng ngôn ngữ Phú Yên. Quen quá, thương quá! Bình dị, hồn hậu, chất phác mà gần gũi làm sao!... Có cái gì đó rất đỗi thân thiết rạo rực khiến anh xúc động, chỉ chực khóc. Trời ơi, quê hương đây thật rồi mà choáng ngợp như thể nằm mơ... Lúc cho tàu chạy chậm trong Vũng Rô, Thanh hồi hộp nơm nớp, và kế đó được gặp lại thầy giáo Sáu Sinh, lại ngạc nhiên bàng hoàng, nhưng anh không khóc, sao lúc này nước mắt lại ứa ra vậy chớ.
Không đi bậu nhắc bậu trông - Đi thì lại sợ Cù Mông Xuân Đài - Cù Mông là một, dốc chùa Rởi là hai - Dốc Giăng dốc Quýt dốc Xuân Đài là Năm... Anh nguyện với em tại bữa trăng rằm - Ai làm nên nỗi con tằm xa dâu?... Giọng người con gái có tên Hai Liên vừa trách ai đó hát sai nhịp chợt cất lên, trong veo. Tiếng hát vút vào không gian, quyện vào núi đồi, lan trên cát, tan trong gió biển có cái gì gợi nhớ gợi thương, da diết...
– Hai Liên vẫn là người hát hay nhất làng mình. - Có tiếng đàn ông tấm tắc.
Thanh tần ngần một lát rồi gạt nhanh những giọt nước mắt vừa rịn ra, bước vào ngôi lán của Sáu Sinh. Có chừng năm sáu cán bộ trong Ban chỉ huy bến và chính trị viên Chiêu, thuyền phó Thơm đang chờ ở đó. Thanh ngồi xuống, bóc bánh lương khô chia cho mọi người.
– Mời chú Sáu, mời các anh!
Ba Tánh đón thanh lương khô, mắt sáng lên:
– Đã mấy hôm rày không còn gạo, anh em mình chỉ ăn trái sung...
– Rồi bẻ miếng lương khô, cho vào miệng nhai ngon lành.
– Quê mình cũng thiếu lương thực vậy sao? - Thanh ngạc nhiên hỏi.
– Phú Yên có mấy khi thiếu ăn, nhưng lệnh của anh Sáu là nội bất xuất, ngoại bất nhập. Với nữa địch làm găng lắm, mọi ngả đường đều bị ém chặt.
Người ngồi cạnh tham gia:
– Nay có súng đạn miền Bắc đưa vô, bọn tôi sẽ mở rộng địa bàn. Có dân khắc có cái ăn.
– Báo cáo chú Sáu và mấy anh - Thanh nói - Thời gian không nhiều, hàng còn non nửa. Làm sao bốc hết trong vài giờ đây?
Khuôn mặt Sáu Sinh nhíu lại. Một lát, ông nói:
– Mấy anh có kinh nghiệm, đề nghị cho ý kiến trước...
– Báo cáo anh Sáu - Chính trị viên Chiêu mau mồm - Theo chỉ thị của trên, tàu phải rời bến trước ba giờ sáng...
– Kẹt ha... Nghĩa là sắp tới giờ mấy anh cho tàu nhổ neo? - Có ai đó hỏi.
– Thưa các anh, tàu còn vũ khí mà phải ra khơi chúng tôi cũng ái ngại lắm. - Chiêu nói tiếp - Mất bao công sức mới đưa được con tàu vào được đây. Nhưng... lại phải tính tới công việc lâu dài... Không ra tới vùng biển quốc tế trước khi trời sáng, tôi sợ rằng...
– Tàu ở lại rồi nép vô sát chân núi và ngụy trang cho kín không được sao? - Người vừa hỏi, hớp háp.
– Phải đó! Mỗi khẩu súng, mỗi viên đạn đối với dân Khu Năm và dân Phú Yên chúng tôi là... sinh mạng. Tôi đề nghị cho tàu ở lại, tiếp tục lấy hàng, đêm mai ra khơi. Được không mấy anh? - Ba Tánh tham gia.
Thanh lúng túng đưa mắt nhìn qua Chiêu. Người chính trị viên ngồi lặng. Anh cũng thấy phân vân. Cho tàu nhổ neo hay ở lại, lý nào cũng có cái thuận và không thuận.
– Lệnh trên là vậy, nhưng tàu đã vô đây, đề nghị anh Sáu cho ý kiến cuối cùng. - Chiêu đưa đẩy.
Người bến trưởng gõ gõ ngón tay lên khúc gỗ dùng làm chỗ ngồi, rồi ông nói, giọng chùng xuống:
– Trên đã có chỉ thị vậy, ta chấp hành thôi...
Thuyền phó Thơm ngồi ở góc khuất, đứng lên, bước tới gần chỗ Sáu Sinh.
– Thưa anh Sáu và mấy anh - Thơm nói, giọng xúc động - Tôi, thuyền phó, cũng là chi uỷ viên chi bộ tàu xin được phát biểu. Tôi nhớ trong lần dặn dò trước lúc vô đây, Tư lệnh hải quân có nói rằng trong trường hợp xảy ra những việc ngoài dự kiến, cho phép chi uỷ cùng bàn bạc với chỉ huy bến rồi tuỳ tình hình cụ thể mà quyết định, đừng cứng nhắc quá... Vậy nên ý kiến của tôi là, nên cho tàu ở lại, gắng lấy hết hàng trong đêm nay, gần sáng ta đưa tàu tới chân núi, nguỵ trang thật tốt, đêm mai quay ra biển... Tàu còn súng đạn mà phải trở lại miền Bắc xót xa lắm, tiếc lắm... Tôi xin hết.
Ý kiến của Thơm tựa chiếc chìa khoá mở ra một lối thoát khiến mọi người xôn xao.
– Ngay bãi Chùa có vũng nước sâu, quanh đó là núi đá...
– Mình cho tàu nép vô rồi đẵn cây, chặt lá tấp lên là ăn.
– Nhưng phải canh gác cho ngặt, không để người qua lại.
– Trời ơi, ở Bãi Chùa xưa nay có ma nào dám bén mảng tới. Du kích làng Cát xin bảo đảm việc canh gác, được không anh Sáu? - Ba Tánh phát biểu như thể mọi việc đã định đoạt...
Cuối cùng, sau khi cân nhắc trao đổi hết lẽ, mọi người nhất trí phương án của thuyền phó Thơm. Ai cũng thấy vui, phấn chấn. Sáu Sinh nói:
– Bây giờ vầy, mọi người về đơn vị, động viên lực lượng gắng lấy hết hàng trong đêm. Gần sáng ta cho tàu ém vô bãi Chùa. Các anh trên tàu thấy vậy đã ổn chưa? ổn thì ta thực hiện.
Sau này, khi sự việc đã xảy ra, mặc dù trên đánh giá rất cao thắng lợi của việc hàng trăm tấn vũ khí đã vào được mặt trận Phú Yên cùng mấy tỉnh Khu Năm, song nghĩ lại Sáu Sinh không khỏi áy náy và nhức nhối dằn vặt. Về đại cục, đã đành là thắng lợi, thắng lợi trên cả dự kiến. Có súng đạn, mạn Tua Bông, mạn đèo Nhông quân ta đã đánh nhiều trận lớn, tiêu hao nhiều sinh lực địch. Nhưng xét trên bình diện riêng tư, có những mất mát không khỏi không băn khoăn...
... Khi cùng chính trị viên Chiêu xuống tàu gặp gỡ và động viên thuỷ thủ, chợt có ai đó cất lên phía sau:
– Tiếng ai quen quen... Cho hỏi, có phải chú Sáu Sinh không? Trần Sinh quay lại, ngạc nhiên:
– Ủa, ai hè? Sao biết tên tôi vậy cà?
– Đúng tiếng chú Sáu rồi! - Người ấy reo to - Con là Tư Lăng, chồng của Tư Nhâm đây mà, chú Sáu!...
– Hả, Tư Lăng thiệt sao?
– Dạ phải, Tư Lăng vẫn theo chú đi đánh đồn Hòn Rọng đây!
– Trời đất! - Ông Sáu xúc động choàng tay ôm lấy Tư Lăng. - Chuyện cứ như trong mơ, hí.
– Được đưa vũ khí về quê, con nôn nao, mấy đêm rồi thao thức không sao ngủ được... Có phải chú là người phụ trách lấy hàng ở đây không?...
– Được về quê, ai không mừng... Tư Nhâm dò hỏi, và nhắc luôn đó... Trời ơi, cứ như không phải chuyện có thật
– Vợ và con con thế nào, chú? Nóng lòng quá.
– Tư Nhâm khoẻ! Tội, bao năm nay bị o ép, vẫn kiên gan cắm sào chờ chồng. Biết tin mày, mừng lắm đây.
– Còn bé Thảo, con của con, chú?
– Lúc đi nó chưa sinh phải không? Bây giờ bé Thảo sắp thành một thiếu nữ rồi. Cháu giống mày hồi nhỏ như đúc.
– Vậy hả chú Sáu?
– Chuyện tình cảm còn dài, ta nói sau, bây giờ tập trung vào công việc lấy hàng, hí. Nom khoẻ, lại rắn rỏi ra nhiều lắm... Tao sẽ gắng bố trí để vợ chồng gặp nhau...
– Thiệt nghe, chú Sáu!
Sau này Sáu Sinh cũng nhận ra rằng vào thời điểm ấy, tình cảm của ông đã lấn lướt lý trí để khi sự đã rồi, những lúc rảnh rang ông lại ngẫm nghĩ mà vấn mình rằng chẳng rõ làm vậy đúng hay sai.
Khi lên bờ, Sáu Sinh cho người tuông đi gọi Sáu Quyên:
– Chú cho tìm con? Trời sắp sáng đó, chú. - Sáu Quyên tới, hớt hải nói.
Kéo Sáu Quyên ra một góc, giọng Sáu Sinh rất nhỏ:
– Mày về Lân Cồ kêu Tư Nhâm ra đây, gấp lên... Nhưng phải cẩn thận nghe.
– Có việc gì quan trọng vậy chú? - Sáu Quyên ngạc nhiên.
– Trên cả quan trọng! - Sáu Sinh thầm thì - Tư Lăng, chồng Tư Nhâm đi trên “tàu không số”...
– Mèng ơi, có chuyện ấy thiệt hả, chú?
– Lẹ lên một chút. Thời gian không có nhiều đâu.
– Bao năm nay chị Tư mong, chị Tư chờ... Trời có mắt... Con đi ngay đây.
– Nè, đừng lộ ra nghe, hết sức cẩn thận.
– Dạ, con hiểu.
*
Hai người, Trần Sinh và Hai Thanh ngồi trên tảng đá sát mép n- ước. Phía sau họ, con tàu ém dính vào chân núi được ngụy trang nom như chú nhím đang xẹp lông vào để ngủ. Ngoài tấm lưới tựa một lùm cây che phủ phía trên, nơi boong tàu, nhiều cây dứa dại đựợc cắm xuống.
Chuyện của mười năm nhiều nhiều như nước biển, nhưng sao khó nói. Cả hai đều dè chừng, không dám nhắc tới những điều mà lẽ thường, trong hoàn cảnh này được quan tâm. Gần sáng. Phía đằng đông, nơi giáp nối trời và biển, một mảng tím nhờ mỏng mờ ửng lên...
Cuối cùng Thanh chủ động lên tiếng:
– Tối qua tới giờ, con hỏi chuyện gia đình mà chú Sáu lần lữa hoài...
– Thì cũng định cho xong xuôi công việc... lựa lúc thảnh thơi đã... Còn thuốc không Thanh?
– Trước đây đâu thấy chú xài.
Thanh móc bao thuốc, Sáu Sinh tỉa một điếu, gõ gõ lên bàn tay:
– Những lúc căng thẳng, bập vài hơi... Nè, ông già ngoài đó khỏe chớ?
– Dạ, dịp này cũng đỡ. Nhưng nhớ quê lắm. Ba con ước ao một lần được về lại Phú Yên, về lại làng Cát... Ông đâu rành giờ này thày trò mình đang ngồi trên bờ đá Vũng Rô...
– Kỷ luật chiến trường mà... Thanh nè, nhưng phải bình tĩnh nghe...
– Chú Sáu khỏi áy náy... Chuyện má hy sinh, hồi hôm anh Ba Tánh đã cho con hay... Con thương má con lắm... Thời còn ở nhà, má chiều con với em Thành quá trời...
Sáu Sinh buông tiếng thở dài:
– Thím Tư thiệt là người phụ nữ ít ai bì...
Hai người lại ngồi yên. Một lát, Thanh hỏi:
– Sao tối qua con không thấy Ba Thành tham gia lấy hàng, chú Sáu? Lại cũng đã có chuyện gì phải không?
– Có chuyện... Song ổn rồi...
Thanh lo lắng quay sang. Sáu Sinh rủi rải:
– Mấy hôm trước, Ba Thành không may bị địch bắt... Nhưng du kích làng Cát đã phối hợp với cơ sở của ta giải thoát...
– Hèn chi... Em Thành giờ ở đâu, chú Sáu...
– Đã được đưa về nơi an toàn... Có bị tra tấn. Cũng không nặng lắm...
– Chú ơi, con có thể...
– Ta đã nghĩ tới chuyện đó, nhưng thời gian chẳng còn nhiều... e không kịp... - Ngừng một lát, ông Sáu nói tiếp - Mười năm mà lâu lắc như cả trăm năm, phải chưa?
– Dạ! Mười năm ba tháng... - Thanh nói nhỏ. - Hồi con theo ba đi tập kết, em Thành còn nhỏ xíu...
– Lúc này đã là một cán bộ chững chạc của cách mạng rồi...
Thanh lặng im, nhìn ra biển. Anh rõ rằng ông Sáu chưa bố trí để hai anh em gặp nhau được chắc vì điều kiện không thuận. Ông vốn là người hết sức tình cảm và tâm lý. ông cũng là người biết nên làm gì và chưa nên làm gì. Rành vậy nhưng sao lúc này thấy nhớ, thấy thương thằng em quá chừng! Nó với Thanh không chỉ là cùng khúc ruột của má rứt ra mà còn là hình là bóng của nhau. Thời còn nhỏ sống ở làng, có bao giờ thằng Thành rời Thanh nửa bước. Những ngày tết ngày giỗ, nếu Thanh có việc, nó đâu chịu một mình theo má sang ông bà ngoại, hoặc nếu đi cũng trong thoáng lát là nhớn nhác mắt trước mắt sau giục má, đòi về. Nó sợ Thanh ở nhà một mình buồn, mà không có Thanh bên cạnh nó cũng buồn. Nhà ngoại có xa ngái gì, chỉ cách nhà Thanh có cánh đồng và con kênh nhỏ. Một lần má sai Thanh sang bên đó biếu ngoại mấy quả mướp đầu mùa. Thanh định bụng chạy ù rồi về kẻo thằng Thành mong. Ai dè sang đến nơi thì mưa như cầm chĩnh mà trút. Trời đất âm u, sụp sập. Nước ngập tràn con kênh, láng trắng cánh đồng. Tối đến mưa cũng chẳng dứt. Thanh đành ngủ lại. ở nhà, thằng Thành thao thức, trằn trọc xoay qua xoay tới. Quờ chân tìm hơi ấm của Thanh, không thấy, nó không ngủ được. Nửa đêm, đợi má thiêm thiếp, nó lén dậy lấy nón, khoác áo tơi, đội mưa, lểnh khểnh lội nước lần mò trong đêm sang nhà ngoại. Ông bà và Thanh hối hải bùng dậy khi nghe tiếng thằng Thành gọi ở cổng. Ngoại lo ngại, ngỡ rằng đêm hôm má ốm đau gì cho thằng Thành sang kêu, luống cuống châm đèn, chập chờn chạy ra. Nhưng khi vừa trông thấy Thanh thì thằng Thành nhếch cặp môi bợt trắng vì lạnh ra cười. Trước sự ngạc nhiên của mọi người, nó nói gọn lỏn, tỉnh không: “Con sang ngủ với anh Thanh!”. Đêm ấy hai anh em ôm nhau ngủ một giấc đến sáng bảnh mới lồm cồm bò dậy.
Hồi thày giáo Sáu Sinh trở về mở trường dạy chữ, má cho hai đứa theo học. Cùng học có hơn chục trẻ trong làng, toàn những thằng nghịch như quỷ. Tan học, ra khỏi lớp là thể nào cũng trêu chọc, chia bè, phân cánh đánh nhau. Thằng Thành ít tuổi hơn nhưng lúc nào cũng kè kè bên Thanh. Nó sợ rời nó ra, Thanh bị bọn bạn cùng học bắt nạt. Và điều ấy đã xảy ra đúng hôm Thành bị cảm, phải nghỉ.
Trong lớp, thằng Ba Hoàng là đứa hay ăn hiếp bạn học. Cậy thế con nhà giàu nên đứa nào không làm nó vừa ý là tìm cách gây sự. Mỗi buổi học Ba Hoàng bắt một đứa tìm lá khoai lang và nhọ nồi để nó chùi cái bảng đen vẫn đeo lẹt phẹt bên hông. Lá khoai lang vò nát, xát đậm nhọ nồi rồi phết lên bảng gỗ thì trơn, mịn, đen, viết phấn trắng vào rất ăn nên rõ lắm. Hôm đến lượt Thanh, anh không mang. Chẳng hẳn Thanh quên. Mấy luống khoai má mới trồng đang mơn mởn vươn những cái mầm măng tơ, ngắt đi sao đặng. Ba Hoàng nhìn Thanh, hất hàm:
– Sao, bộ nhà mày vụ này đất để cho chó ỉa mà không trồng khoai?
Thanh cự:
– Khoai chưa có lá. Nhà mày có, sao không hái? Ba Hoàng trừng đôi mắt to nhìn Thanh:
– Cãi tao là hối không kịp nghe mày.
Chắc hắn ngạc nhiên vì con nhà Tư Đởn rách rớt lại dám tẩy cái điều vốn đã thành lệ trong lớp. Trên đường về, thằng Hoàng đi sau cứ lầu bầu nói cạnh khoé. Rồi chốc chốc đưa chân ra ngáng để Thanh vấp. Mỗi lần thấy Thanh loạng choạng chúi người về phía trước, thằng con nhà Trần Nhũng cùng bọn trẻ cười ồ. Đến ngã ba nơi có con đường dẫn vào nhà Thanh, thằng Ba Hoàng đá vào chân anh khi bước. Thanh bị hẫng, ngã úp mặt xuống đất. Không nén được, Thanh vớ hòn đá bên cạnh ném vào người Ba Hoàng. Chờ có vậy, thằng con nhà giàu giáng một quả đấm vào mặt Thanh. Không chịu lép, Thanh rướn lên, cũng tống mạnh quả thụi vào ngực nó. Lập tức thằng Hoàng ôm lấy Thanh, vật xuống và cứ thế nện túi bụi. Biết mình sức yếu, khó đánh lại Ba Hoàng, nên Thanh chỉ gắng chống cự, tránh những đòn hiểm. Cuối cùng thằng Hoàng to khoẻ thắng thế, nó lật ngửa Thanh và ngồi lên bụng. Đám học trò gan sứa đứng ngoài xem, có đứa sợ liên lụy đã lảng ra xa. Đang lúc Thanh thất thế, từ lối rẽ về nhà, thằng Thành lũn cũn trong chiếc áo mặc thừa của ba rộng thùng thình đầy những mụn vá lao vút ra... Không nói một câu, rất nhanh, nó húc mạnh đầu vào người thằng Hoàng. Hoàng bị choáng, lại bất ngờ, ngã nhào xuống đường. Hình như thấy vậy vẫn như chưa đủ, thằng Thành liền nhào tới, ôm lấy đầu Ba Hoàng, rồi cắn mạnh vào bả vai. Thằng Hoàng chắc đau, kêu ré lên, đành bỏ Thanh. Nhưng để trả đũa, nó vớ nửa cái bát vỡ cạnh đường giáng mạnh vào đầu thằng Thành, rồi bất chấp hậu quả, vùng dậy chạy biến về nhà. Thằng Thành ngã vật xuống ôm mặt quằn quại. Máu từ đầu chảy xuống hai bên má. Nhưng Thành không kêu, không rên la, chỉ nghiến hai hàm răng vào nhau. Thanh vội xốc em lên lưng, xiêu xiêu vẹo vẹo bươn về. Bọn học trò sợ hãi tản nhanh vào các lối. Thanh thương em lắm, chắc nó đau. Máu trên đầu hắn rơi xuống cổ khiến cuống họng Thanh tắc nghẽn. Thành không khóc nhưng nước mắt Thanh trào ra. Anh bíu chặt hai bắp đùi thằng Thành, cố chạy thật nhanh. Thằng em bám trên lưng, ngắt quãng phả hơi nóng vào gáy Thanh: “'Em đã biểu anh... đừng đi một mình... bọn nó ăn hiếp...”
Hai anh em quý nhau vậy tưởng được ở bên nhau mãi. Ai ngờ hoàn cảnh đưa đẩy để rồi bây giờ, sau hơn mười năm xa cách, nay đã cùng ở trên một vùng cát mà cũng khó gặp...
Một ngày cuối năm năm tư, ba từ trên huyện về. Ông nói:
– Trên phân công tôi đi tập kết đó, bà nghĩ sao? Má đáp:
– Tính sao! Trên phân công, ông cứ đi! Ông đi hai năm rồi ông về chớ lâu lắc gì. Chẳng đã có những lần ông đi biệt đến ba, bốn năm lận.
– Tôi đi đã đành... Là tôi muốn nói đến thằng Thanh, thằng Thành...
Má tặc lưỡi:
– Thì thằng lớn đi với ông, thằng nhỏ ở nhà với tôi...
Nghe vậy, Thành bỏ củ khoai đang bóc dở vào rổ, lại ngồi bên anh, nũng nịu:
– Không, con không cho anh Hai đi... Má không nghe, con theo ba luôn đó.
– Vậy em định để má ở nhà một mình cho tụi nó bắt nạt sao? - Thanh nói.
– Nhưng em không muốn xa anh.
Nói là nói vậy, nhưng sau khi bàn đi tính tới, ba má quyết định thằng anh theo ba ra Bắc, thằng em ở lại với má, thằng Thành có buồn nhưng thấy hợp, phải nghe. Hai anh em đâu muốn ba ra ngoài đó một mình, càng không thể để má lẻ loi cô quạnh ở nhà.
Hôm lên đường, thằng Thành cởi chiếc áo đang mặc đổi cho Thanh:
– Ngoài Bắc lạnh đó, anh Hai.
Rồi hai má con cứ bước gằn theo Thanh và ba hoài. Ba giục mấy bận, má tìm cách lựa:
– Cho má con tôi đi thêm đoạn nữa, biết đến khi nào mới được gặp lại.
Ba thua. Thằng Thành nắm tay Thanh chạy lắt thắt bên cạnh, lúc lúc lại dặn:
– Đi hai năm rồi về nghe, anh Hai. Anh Hai hổng được ở ngoải lâu...
– Được! Nhưng em nhớ chăm học... Đừng đánh nhau để má phải buồn.
– Nhưng thằng Ba Hoàng cậy thế ăn hiếp, em không chịu.
– Em không nghe má vẫn nhắc, một sự nhịn là chín sự lành sao? Thằng Thành nói lảng:
– Bao giờ cây ổi nhà mình có quả, em sẽ để phần anh và ba những quả to nhất. Cây ổi độ năm nữa bói...
Đến con đường rẽ ra biển, ba dừng lại, nói:
– Hai má con có gì dặn dò ba con tôi nữa không... Nếu không, về kẻo xa.
Má dừng lại, rồi ôm lấy ba, ôm lấy Thanh, nước mắt mờ nhoè:
– Cha con đi mạnh giỏi!
Thằng Thành quấn lấy Thanh, không muốn buông, hai tay sờ sờ lên hàng cúc áo ngực của anh, bịn rịn hết mức...
Đi được một đoạn, Thanh quay lại vẫn thấy má và em đứng lặng nhìn theo. Thanh ứa nước mắt, nói to:
– Má ơi, hai năm rồi con về! Hai năm anh về nghe, Thành. Ở nhà đừng để má buồn...
Lúc ấy thằng Thành ra chiều hiểu ý. Nó đưa tay áo bạc phếch quệt ngang mày, gật gật đầu. Thanh quay nhanh và cũng gạt nước mắt, quệnh quạng bước theo ba.
Đêm ấy chưa có tàu, Thanh hơ hải lẽo đẽo chạy một mạch hơn chục cây số về nhà. Tới nơi, khoảng nửa đêm. Mới lần tay lên then cửa, chưa kịp gọi, đã nghe tiếng thằng Thành từ trong nhà la to:
– “Má ơi, má ơi, anh Hai con về. Con biết thể nào anh Hai cũng về với con bữa nữa mà...”.
Kế đó là tiếng lạt xạt mài trên đất của đôi chân trần đang vội vã lao tới. Cánh cửa liếp bật mạnh. Thằng Thành choàng lấy cổ Thanh, đu lên. Hắn hà hít mùi mô hôi chua loét của Thanh như thể anh em xa nhau đã lâu lắm...
Thanh chỉ ở nhà với má với em một lúc, sáng đó đã phải xuống tàu. Tưởng hai năm thì về, ai dè đã mười năm có dư vẫn chưa được gặp lại em, gặp lại má. Trong quãng thời gian đằng đẵng đó, có lúc nào Thanh nguôi thương má, nhớ em. Chẳng lúc nào quên hình ảnh thằng Thành bám níu trên cổ, nói đứt nối: “Em đã biểu... anh đừng đi một mình... chúng ăn hiếp...”.
Thanh gắng nén tiếng thở dài, nhìn ra xa. Mặt biển sáng sớm trong veo, thanh thản và mãn nguyện trải rộng khoan khoái tựa một người ngủ đẫy giấc, bừng thức. Những con sóng lấp loá ánh mặt trời ban mai lướt thướt đuổi nhau, xô nhẹ vào bờ lao xao như lời chào mời vui vẻ nhiều thiện ý trong phiên chợ sớm. Màu tím nhạt nơi chân trời đang chuyển thành màu phớt hồng. Biển xanh dần... Chợt đâu đó trong thinh không có tiếng ầm ì lẫn trong âm thanh của sóng. Rồi tiếng động cơ rõ dần. Sáu Sinh vội ngẩng lên.
– Chà, cớ chi hôm rày bọn trinh sát lượn lờ sớm vậy hè? - Ông nói và nhìn theo chiếc máy bay từa tựa con chuồn chuồn đá đang vè vè trên nền trời, vòng quanh Vũng Rô. ánh mắt người Bí thư thoáng chút lo lắng. - Ngồi đây nghe Thanh, để kiểm tra coi vũ khí đã chuyển vô hang tới đâu.
Ông Sáu đi rồi, ngồi lại một mình Thanh cảm thấy cô đơn lạ. Thay cho niềm vui hồi hôm khi đưa được vũ khí về quê là nỗi buồn của sự mất mát. Theo Ba Tánh kể lại thì má chết thảm quá. Trời ơi, sao ba con thằng Trần Nhũng, Trần Hoàng ác vậy chớ! Tụi nó học ở đâu cách hành hạ con người nhẫn tâm thế? Người làng Cát có câu: trông mặt mà đặt hình dong... nhưng mặt mũi thằng Ba Hoàng đâu đến nỗi. Khác với Trần Nhũng, da bì bì, trán ngắn tủn, người thấp tè như cây nấm, khuôn mặt Ba Hoàng sáng sủa, mắt to, tinh nhanh. Da mịn và trắng như da con gái. Môi mỏng và đỏ. Nhiều người nói rằng hắn được thừa hưởng những điều đó ở người mẹ. Lại cao ráo, dáng dấp thư sinh như một cậu giáo. Trông bề ngoài không ai nghĩ rằng Ba Hoàng là con trai Trần Nhũng... Thừa hưởng hình thức của má, người phụ nữ được coi là dịu hiền xinh đẹp nhất làng Cát, sao mày không thừa hưởng tâm hồn của bà, Ba Hoàng? Cớ chi tâm địa thúi thiu, đen ngòm vậy?... Má ta có tội gì? Bà là người phụ nữ rất mực nhân hậu, chưa hại đến con sâu cái kiến. Cả cuộc đời chưa một ngày sống cho mình, sống vì mình. Coi việc quan tâm chăm nom đến người khác như là bổn phận, như là căn duyên ở đời. Với chòm xóm láng giềng hết sức chu tất vị tha. Vậy mà...
Má ơi, con là thằng Hai Thanh, con trai của má đây. Mười năm rồi con mới có cơ hội được đặt chân lên đất quê ta. Con mừng lắm! Trên đường vượt biển trở về con thấp thỏm mong ngóng ước ao rồi cầu trời khấn phật cho sự may mắn ấy nhân lên: con được gặp má, dù chỉ trong chốc lát... Gặp để sà vào lòng má mà hưởng chút hơi ấm và nũng nịu như thuở thơ dại; để được má xoa nắn hai bên bả vai mà hỏi han mà trách móc, dặn dò... Nhưng cay nghiệt quá, má ơi!... Má không còn, con thấy mình như kẻ bộ hành chơi vơi chới với trên đường đời. Phía trước là gì, mấp mô đá nhọn hay sình lầy cạm bẫy, không có má lấy ai là người đồng hành chỉ dắt con, đặng đo lường lượng sức để bước thấp bước cao?... Hồi ra đi, con mới chỉ là chàng thiếu niên bé dại, nay con trai của má đã là thuyền trưởng, chỉ huy một con tàu rồi. Nhưng đối với má lúc nào con cũng cảm thấy mình là đứa trẻ nít nhỏ dại khờ khạo cần được dạy dỗ bảo ban, cần được ủ che, ấp đỡ... Má ơi, cách chỗ má nằm chỉ vài tiếng đi bộ mà con không có cách chi đến được để thắp cho má nén nhang. Con thật có lỗi, con thật bất hiếu, con thật vô tích sự... Má tha lỗi cho con nghe má! Tối nay con đã phải ra biển để trở lại ngoài đó, nơi ba và con mười năm qua sống trong đợi chờ lo lắng, sống trong thấp thỏm và nỗi đau đáu khôn nguôi mong ngóng tin tức của má, của em Ba. Con xin má điều này nữa, má chớ trách cứ nếu như khi trở lại miền Bắc con đành nói dối. Ba yếu lắm rồi, đêm nằm cạnh, con biết ba rất ít ngủ, phần vì thắt thẻo thương nhớ má, nghĩ về má, phần vì bệnh hen không thuyên giảm, ba vẫn ho sù sụ, bởi vậy ba sẽ không chịu thấu nếu hay tin dữ này. Ba thương má vô chừng. Người vẫn nói với con rằng đời ông trở nên có ý nghĩa và làm vài việc gì đó có ích là bởi may mắn được trời ban cho điều vô giá, làm bạn với má. Nếu có kiếp sau ba nhất quyết vẫn đi cùng trời cuối đất tìm má để xin được làm chồng... Không nói ra nhưng con biết ba vẫn giấu kín điều băn khoăn nhức buốt rằng chẳng rõ sức khoẻ có cho ông ở tới ngày nước nhà thống nhất để được gặp má, sống bên má trong khoảng thời gian còn lại của tuổi xế chiều... Ai dè sự đời trớ trêu, má lại bỏ ba mà đi trước, má ơi!... Đêm nay con ra khơi, sống khôn chết thiêng má phù hộ cho con thuận lợi mọi bề má nghe. Từ Vũng Rô này con xin hướng về làng Cát vái vọng hương hồn má để tạ tội. Con hứa không làm điều gì thất đức đặng xứng là đứa con ngoan của má... Hoà bình trở lại, con sẽ về quê để được ở bên má...
Gió từ biển thổi mạnh, đẩy sóng đập vào chân núi tung bọt nước phủ bạc trắng những tảng đá ven bờ. Mặt trời hồng rực tựa chiếc mâm đồng nung lửa từ biển nhô lên khiến cả một vùng sáng bừng... Đại dương phô mình trong sự sảng khoái mạnh mẽ giống như chàng trai cường tráng no giấc vươn vai hớn hở đón bình minh. Không khí ban mai thoáng đãng trong lành có cái gì đó hết sức gợi cảm... Thanh ngồi thêm một lát rồi nhảy từ tảng đá này qua tảng đá khác đi về phía hõm núi, nơi anh em thủy thủ đang nghỉ tạm chờ đợi ở đó...