← Quay lại trang sách

⚝ II ⚝

Chiếc xe Jeep cua gấp một vòng, lượn xuống chân đèo. Mặt biển thấp thoáng phơi mình trong nắng, xanh ngăn ngắt... Chưa đâu biển xanh như vùng biển dưới chân đèo Cả. Xanh đến ngỡ ngàng. Xanh đến bâng khuâng. Khó có thể không hướng mắt nhìn ra xa, nơi mặt trời đang nhấp nhánh phả nắng xuống thảm nước biêng biếc, bao la, nơi gió mặn đưa lên mát rượi. Đèo Cả uốn lượn trong mênh mang hư thực của trời, núi và biển, của nắng và gió... Khác với lệ thường, mỗi lần có công chuyện chạy qua khúc lộ này, Hai Rạng đều chiềng mặt qua cửa xe hứng nắng hứng gió và ngắm ngó cái khối nước khổng lồ kỳ ảo mênh mông trải ra phía dưới, hôm nay anh không thế.

– Đi gấp, nhưng phải cẩn thận nghe!

Hai Rạng nhắc người lái xe rồi bỏ mũ, đeo kính mát, đổ người ra chiếc ghế sau, lim dim mắt ngồi lặng. Cú điện thoại gấp gáp từ Bộ chỉ huy Quân đoàn sáng nay gọi tới vẫn ám ảnh khiến anh không yên lòng. Vừa bước chân vào phòng làm việc, đã nghe chuông điện thoại giục giã đổ liên hồi. Kế đó là tiếng của đại tá Hưng, Phó Tư lệnh Quân đoàn Hai oang oang khi ống nghe vừa nhấc lên:

– Vũng Rô đã không thuộc quyền kiểm soát của tiểu đoàn Rồng Biển từ bao giờ vậy, ông thiếu tá?

Hai Rạng không hiểu, ngớ ra:

– Thưa đại tá, Vũng Rô thuộc địa phận Phú Yên... Và chúng tôi... Người nói trong máy ngắt lời:

– Tôi bất biết nó thuộc tỉnh nào, khu nào... Tôi chỉ nói rằng các anh hình như đang thoả mãn, không rành quản lý...

– Thưa...

– Ngay chín giờ sáng nay anh phải có mặt tại Sở chỉ huy Quân đoàn. Tới đó sẽ rõ. Nên nhớ, tôi không ưa sự trễ nải nghe...

– Thưa đại tá, thời gian gấp quá... E rằng...

– Đó là việc của anh!

Sau đấy là tiếng tút liên hồi trong ống nghe. Biết thượng cấp đang bực, đã bỏ máy, Hai Rạng vội vàng gọi xe.

– Vô Nha Trang! Đi lẹ nghe.

Anh nhào vào xe, thả người xuống chiếc ghế sau và ra lệnh. Chiếc Jeep trườn nhanh khỏi doanh trại. Bây giờ nó đã vượt qua đèo Cả và đang tăng tốc độ. Gió từ biển tạt vào hai bên sườn ràn rạt và những chiếc xe chạy ngược chiều hối hả cứ như đi hôi của, phải cướp thời gian, vun vút lướt qua. Hai Rạng nóng lòng xem đồng hồ rồi lại ngả người về phía sau, khuôn mặt nhăn nhó tựa kẻ bị bệnh đường ruột buồn đi tháo. Chẳng rõ đã có việc gì khẩn mà cấp trên triệu anh vào Sở chỉ huy Quân đoàn gấp vậy. Tin tức tình báo cho hay, Việt Cộng đã rục rịch điều động quân, nhưng địa dư nằm trong khu vực tiểu đoàn của Hai Rạng có trách nhiệm kiểm soát so với trước yên tĩnh hơn, không có những dấu hiệu bị đe doạ. Chẳng lẽ lại là sự cố tên du kích thân tín của Sáu Sinh được du kích giải thoát khiến cấp trên không hài lòng? Chắc không phải. Việc đó Hai Rạng chưa hề báo cáo, với nữa xảy ra đã mấy hôm và không nặng nề tới mức khiến đại tá Hưng phải giận dữ nói theo kiểu dằn mặt trong điện thoại. Vậy việc gì ta? Chẳng lẽ nỗi nghi ngờ rằng người làng Cát và vùng quanh đó hớn hở đi tiếp tế cho Cộng sản đã làm cấp trên bực bội? Nhưng lấy gì làm chắc họ đi công vụ cho Cộng sản? Đó chỉ là những phỏng đoán vu vơ, thường là bệnh nghề nghiệp, nhìn đâu cũng thấy địch của Ba Hoàng và đám sĩ quan cộng tác với CIA. Hai Rạng đang gắng làm rõ sự việc để tường trình lên trên. Thôi, mặc. Không giận dữ quát tháo và luôn quan trọng hoá kể cả những chuyện đơn giản như một gã lính nào đó chẳng may bị bệnh giang mai, đâu còn là đặc trưng của cấp trên. Chỉ là viên đại uý quèn, Ba Hoàng còn luôn nhặng xị la rầy với cấp dưới huống hồ những người nhiều bông mai hơn... Nghĩ thế để trấn an song Hai Rạng vẫn thấy canh cánh, không bình tâm. “Tới đó anh sẽ rõ... tôi không ưa sự trễ nải nghe.” Viên thiếu tá khẽ thở dài rồi cố lục lại những chi tiết có liên quan tới lời đe doạ sáng nay trên điện thoại của người sĩ quan được giao làm công tác quân báo... Nhưng nghĩ không ra. Hình như đã có cái gì đó rất khó hiểu trong việc này... Hai Rạng nhắm mắt, cố xua đi những phán đoán. Anh đã làm hết phận sự. Anh đã phụng sự Quốc gia hết mình với ý thức chống chủ nghĩa Cộng sản tuyệt đối. Nếu có những điều ngoài ý muốn thì đó là do lực bất tòng tâm. Thế của Cộng sản đang lên, và quân lực Quốc gia bị tổn hao là bởi thời vận. Khổng Tử đã nói, người quân tử phải biết chữ thời. Không ai nằm ngoài vòng tròn vận hạn!...

Gần tới Nha Trang xe chạy mỗi lúc một nhanh. Hàng dừa bên đường lướt qua loa loá. Và biển lại hiện ra. Màu xanh bao la trải rộng, ngút tầm nhìn. Gió hào phóng mang muối mặn của đại dương phả vào mát dịu. Sự thoáng rộng trong lành của không gian nơi đây hình như phần nào làm vơi tan những băn khoăn của Hai Rạng. Anh nhìn ra, hít thật sâu không khí vào lồng ngực và thấy dễ chịu hơn. Đã khá lâu Hai Rạng không về lại Nha Trang. Nơi đây với anh ám ảnh những kỷ niệm buồn, nhưng dẫu sao đó vẫn là thành phố du lịch kề bãi biển đẹp, thơ mộng và dịu dàng. Từ ngày gặp lại Tư Nhâm, hình ảnh về người phụ nữ này như những tín hiệu điện tử không có tạp âm đè chồng, làm lu mờ mối tình xưa trong cuốn băng quãng đời trước đây khiến Hai Rạng đã không còn mấy mặc cảm với thành phố biển này nữa. Tư Nhâm không một biểu hiện phô bày, cô lặng lẽ, thỉ thảo như mạch nước ngầm mát ngọt trong lành, nhỉ nhả tự nhiên nhưng vô thức ngấm thấm hết sức bạo liệt vào cuộc đời anh. Hai Rạng ngày càng ý thức rõ ràng điều hệ trọng đó, điều anh vẫn gọi là duyên phận may mắn của mình. Sau những gì xảy ra trong cái ngày mưa tầm mưa tã ấy ở nhà Tư Nhâm, Hai Rạng chạnh buồn nhưng lại thấy yêu Tư Nhâm hơn, trân trọng và quý mến cô hơn. Tư Nhâm với những gì anh cảm nhận và chứng kiến quả là báu vật. Mấy ngày liền sau cái buổi anh không kìm chế nổi tình cảm đã tỏ ra suồng sã ấy, Hai Rạng mặc cảm, anh cố gìm giữ tình cảm, không lui tới căn nhà hết sức hấp dẫn gần gũi có khu vườn khá rộng, kín đáo đó nữa. Anh muốn có thời gian để tĩnh tâm nhìn nhận hết thảy mọi điều, cộng với đấy là công việc người lính trong chiến tranh, lại ở vị thế như anh không mấy nhiều thời gian...

Rồi một hôm anh chợt thấy nóng lòng và như thể có một linh cảm nào đó mách bảo rằng Tư Nhâm đang gặp chuyện chẳng lành, gạt công việc sang bên, anh tuông tới. Tư Nhâm bị cảm từ cái ngày mưa gió ấy. Nhìn chị gầy xọp, võ vàng, Hai Rạng tự trách mình vô tâm, cố chấp. Anh thấy lo lắng, rồi để chuộc lỗi, đã tự mình ra chợ mua thực phẩm, chui vào bếp nấu cháo, và làm những việc vặt vặt trong nhà. Một sĩ quan từng quen có người phục vụ, nay phải làm những việc như Hai Rạng đang làm là quá sức, nhưng anh vượt qua được. Những ngày Tư Nhâm còn yếu, hầu như tối nào anh cũng tới và chăm sóc hết sức chu đáo. Anh mua sữa, mua hoa quả, ép ăn. Một lần anh bảo:

– Chị Năm Hồng nói đúng, em sống một mình trong ngôi nhà mà

chòm xóm khá xa thế này rất không tiện. Hình phạt lớn nhất của con người là sự cô đơn...

– Đã mười năm nay... quen rồi...

– Tư giống má anh, cái gì đã ngoắc vào đầu là khó gỡ ra... - Hai Rạng nói và đưa cho cô cốc nước cam anh vừa vắt. Tư Nhâm đỡ lấy, cảm động nhìn.

– Anh tốt quá, Hai Rạng ạ... Nhưng anh có biết như thế là làm khổ em không?... - Cô nói, rồi đặt cốc nước cam xuống bàn, ngồi lặng, mắt rơm rớm.

Hai Rạng ngạc nhiên. Nhưng anh thấy sung sướng. Đã mấy chục năm kể từ ngày còn cởi trần bắt dế ở làng, Hai Rạng mới lại nghe Tư Nhâm xưng hô với mình như vậy. Tiếng “em” ngọt lịm bật ra một cách vô thức từ miệng người phụ nữ khiến Hai Rạng ngất ngây. Có cái gì rạo rực lâng lâng trào lên trong lòng khiến anh sững sờ, anh ngây thộn nở nụ cười thoả mãn. Anh rõ đây cũng là lần đầu tiên Tư Nhâm thật lòng với tình cảm của mình.

– Anh và em... Có lẽ chúng ta không có duyên phận đâu. - Tư Nhâm nói, chắc cô đã gắng lắm mới bật ra được như vậy, bởi nói xong câu ấy khuôn mặt cô thừ ra, đọng một nét gì đó hết sức khổ tâm.

– Có chứ!... Thượng đế chẳng đã cố tình bày đặt sao? - Hai Rạng vẫn hết sức vô tư - Anh tin vào sự có lý đó.

– Thượng đế bày đặt ư?... Trời ơi, nếu như có thượng đế!... Nhưng tại sao Thượng đế lại thích đùa, gây ra nhiều phiền toái rắc rối như vậy? Thượng đế không để con người được yên, được thanh thản. Em không tin có thượng đế. Từ nhỏ, em đã được người ta răn dạy như thế... Không có thượng đế. Không có...

– Cộng sản vô thần. Họ chỉ chấp nhận cái đã biết mà không có khả năng chấp nhận cái chưa biết. Bởi thế họ cứng nhắc, sai lầm và trở nên hết sức nguy hiểm.

Tư Nhâm khẽ thở dài, đôi mắt lơ đãng nhìn ra ngoài.

– Ví thử em là kẻ vô thần, anh có đối với em thế này không? - Cô chợt hỏi.

Hai Rạng cười thành tiếng:

– Anh yêu một Tư Nhâm cụ thể, cô gái có đôi bàn chân bé xíu, không giầy dép đã từng lon ton chạy theo anh bắt dế trên bãi cát, nơi hai đứa có thời thơ dại rất đẹp... Cô bé đó đa cảm, biết mủi lòng trước cái chết của một con dế, sao vô thần được...

Tư Nhâm không trả lời, cô ngồi lặng, tư lự cười buồn.

– Anh thương em thực lòng mà, Tư... - Một lát, Hai Rạng nói.

– Đừng nói vậy nữa... Anh không hiểu gì cả... Không hiểu gì cả. Em xin anh đừng chăm sóc, lo lắng cho em nữa... Đừng làm khổ em thêm.

– Nghĩa là sao, anh vẫn không rành...

– Em là một phụ nữ đã có con... Đã có con. - Tư Nhâm bỗng dưng nói to. - Anh là người đàn ông thông minh cơ mà... Trời ơi, tại sao anh cứ không chịu hiểu vậy?

– Anh hiểu chớ...

– Hiểu cái gì? Anh không hiểu gì cả, anh không biết gì cả... Anh là gã ngốc, về đi...

Tư Nhâm chạy thốc vào giường, ôm mặt khóc nấc lên. Hai Rạng bối rối đứng như chôn chân giữa nhà... Lúc này nghĩ lại quả anh vẫn không rõ đã có điều gì đã khiến Tư Nhâm ứng xử khó khăn đến thế... Anh chấp nhận quá khứ, tự nguyện chấp nhận sự lỡ làng của cô kia mà! Anh yêu cô và sẽ yêu những gì thuộc về cô, kể cả bé Thảo. Chính Tư Nhâm vì quá mặc cảm và tự trọng nên đã chẳng chịu hiểu anh...

... Nha Trang đã hiện ra trước măt. Hai Rạng lại nhìn đồng hồ.

– Đến Bộ Chỉ huy Quân đoàn.

Chiếc xe ngoắt trái, lượn sát mép biển, cuối cùng dừng lại bên toà nhà khá lớn. Hai Rạng nhảy vội xuống, bước nhanh vào phòng làm việc của đại tá Hưng. Đã vài ba sĩ quan có mặt ở đó, họ ngồi quanh chiếc bàn lớn. Đại tá Hưng ngồi đầu bàn, đang chăm chú ngó nghiêng vào mấy tấm ảnh cầm trên tay...

– Thưa, tôi, thiếu tá Nguyễn Văn Rạng có mặt theo lệnh đại tá.

Mọi người ngước lên. Đại tá Hưng nhìn đồng hô đeo ở tay, rồi nhìn anh:

– Mời ngồi!

Hai Rạng vẫn chưa hiểu điều gì sắp xảy ra, e dè thả mình xuống chiếc ghế đại tá Hưng chỉ.

– Thiếu tá biết chuyện xảy ra ở địa phận do tiểu đoàn của ông kiểm soát chớ?

– Thưa,... xin đại tá nói rõ hơn...

– Có những nghi vấn ở chân Đèo Cả, tập trung là Vũng Rô... Thiếu tá coi mấy tài liệu máy bay trinh sát mới chụp sáng nay đi. - Đại tá Hưng nói rồi đẩy về phía Hai Rạng mấy tấm ảnh. Không mấy khó khăn anh nhận ra địa hình những khu vực trong ảnh. Hình chụp từ trên cao, nhưng khá nét.

– Thưa, đây là ảnh chụp ở Vũng Rô...

– Điều ấy hẳn rồi... Thiếu tá hoạt động ở đấy lâu, không phát hiện ra điều gì mới lạ sao?

– Thưa, tôi vẫn chưa hiểu ý đại tá...

– Đại uý Cường có thể trình bày để thiếu tá Rạng rõ hơn. Người đại uý có tên là Cường bước tới đứng sau Hai Rạng.

– Đây là ảnh chụp Vũng Rô hôm mười lăm tháng hai. - Viên đại uý cúi xuống chỉ vào một tấm ảnh và nói, rồi chỉ tiếp tấm thứ hai. - Còn ảnh này máy bay trinh sát chụp được lúc sáu giờ sáng nay. Thoáng nhìn, hai bức giống như nhau, nhưng nếu quan sát kỹ, bức ảnh chụp sáng nay khác bức ảnh chụp hôm qua một chi tiết nhỏ. Đó là ở cuối Vũng Rô, chỗ kề bãi Chùa bỗng dưng xuất hiện một mỏm núi nhỏ nhô ra bên vách đá, chính điểm này... - Viên đại uý di ngón tay lên một vị trí trên tấm ảnh đã được phóng to quá cỡ. - Theo chỗ phòng Hai biết, nơi đây thuyền đánh cá của dân quanh vùng ít vào... Mà giả dụ có vào, là thuyền đánh cá sao phải nguỵ trang...

– Thiếu tá nhận rõ chứ? - Viên đại tá hỏi.

– Thưa, tôi sẽ điện về cho người xuống đó xác định...

Đại tá Hưng phẩy tay:

– Vào được Vũng Rô không dễ. Đấy là vùng hoạt động của du kích. Với nữa chờ người của thiếu tá xác định sẽ mất tính kịp thời... Tôi kêu thiếu tá tới không phải vì việc ấy. Xác định vật mà đại uý Cường gọi là “mỏm đá lạ” bên không quân đảm nhận. Máy bay đã xuất kích và bom xăng sẽ được thả xuống. Mọi nghi ngờ rồi sáng rõ khi có thông tin báo sang...

Chừng mười giờ sáng có cuộc họp khẩn cấp tại sở chỉ huy Quân đoàn Hai. Dự họp có tướng lục quân Mỹ Uyliam và nhiều sĩ quan cao cấp thuộc khu vực miền Trung, không quân, hải quân, pháo binh... Sự mẫn cán và tinh nhạy của các sĩ quan quân báo và tính khẩn trương, kịp thời của không quân được đền đáp. Mở đầu, Trung tướng Tư lệnh Quân đoàn Hai chủ trì cuộc họp thông báo:

– Kết quả thả bom xăng của không quân vào khu vực bãi Chùa đã thiêu trụi nhiều cây cỏ, khiến “mỏm đá lạ” lộ nguyên hình là một chiếc tàu. Chiếc tàu bị phát hiện là chiếc tàu vận tải giả dạng tàu cá, dài khoảng một trăm ba mươi “phít”, có lượng giãn nước chừng một trăm tấn. Nó xuất phát từ một cảng ở miền Bắc mấy ngày trước đó. Lộ trình của nó là, ngược lên phía Bắc nhằm nghi binh, ra đến vùng biển quốc tế thì vòng xuống phía Nam, giống hành trình một chiếc tàu đánh bắt hải sản. Khi ngang qua Hải phận Việt Nam cộng hoà, nó lựa thời cơ, bất ngờ chuyển hướng, lợi dụng yếu tố bất ngờ ban đêm, táo bạo đâm vào bờ. Và đã vào được Vũng Rô. Phải công nhận rằng thuỷ thủ đoàn trên tàu Bắc Việt là những người rất lão luyện, thuộc luồng lạch. Về điều này, hải quân Việt Nam cộng hoà chưa thể bằng... Mục đích thâm nhập của chiếc tàu là bí mật tiếp tế chiến cụ cho Việt Cộng khu vực miền Trung và Tây nguyên. Phát hiện này khẳng định một điều rất quan trọng đã ngờ vực từ lâu rằng, hình như có một con đường ma nào đó đã hình thành trên biển của Cộng sản nhằm vận chuyển vũ khí từ Bắc vào Nam, việc xuất hiện nhiều loại vũ khí, cả vũ khí hạng nặng quanh các mặt trận nơi đồng bằng sông Cửu Long và quanh miền Đông Sài Gòn nói lên điều đó, nhưng chưa đủ bằng chứng. Bởi vậy để làm sáng tỏ cụ thể mọi điều về con đường này, vấn đề cấp bách là tìm cách chiếm tàu, thu hồi vũ khí và tài liệu... Nhiệm vụ cụ thể và huy động lực lượng, Bộ chỉ huy quân đoàn giao cho đại tá Hưng... Mời đại tá!

Viên đại tá nặng nề đứng dậy. Cũng có thể lão cố tình như vậy. Kết quả của việc phát hiện ra tàu Bắc Việt ở Vũng Rô khiến lão hưng phấn. Lão nói chậm rãi, sau một thôi giải trình những điều trùng lặp mà Trung tướng Tư lệnh Quân đoàn đã nói, đại tá Hưng cho rằng việc phát hiện ra tàu vận tải ở Vũng Rô là một chiến tích rất to lớn có ý nghĩa chiến lược của cơ quan quân báo. Ai cũng rõ rằng viên đại tá này phụ trách cơ quan ấy.

– Trọng trách của chúng ta là bắt giữ con tàu đó cùng vũ khí nó chở vào. - Cuối cùng, đại tá Hưng chỉ lên bản đồ khu vực Vũng Rô và hí hửng. - Được uỷ quyền của Trung tướng Tư lệnh, tôi yêu cầu tiểu đoàn Rồng Biển bao vây chặt các triền núi phía bắc khu vực Vũng Rô. Đồng thời cho một đại đội đi theo hai tàu SLM. 405 và DCB.08 của Hải quân tiến vào bãi Chùa, bãi Chình bằng đường biển. Cần khép chặt mọi con đường ra vào nơi đây. Quân đoàn sẽ tăng cường một tiểu đoàn của sư 23 phong toả từ đèo Cả trên quốc lộ Một đến Tuy Hoà. Lực lượng đặc biệt sẽ do máy bay trực thăng đổ xuống khu vực Đại Lãnh. Không quân sẽ yểm trợ tối đa. Nhiệm vụ của người nhái, của Hải quân, tiểu đoàn Rồng Biển và những đơn vị phối thuộc nơi Đèo Cả là bắt sống tàu Bắc Việt, truy tìm chiến cụ quanh khu vực. Để vũ khí lọt vào tay Việt Cộng, địa bàn miền Trung và Tây Nguyên sẽ hết sức nguy hiểm... Các anh ý thức được chớ? Phải vào Vũng Rô trước khi vũ khí được chuyển đi.

– Rõ, thưa đại tá! - Hai Rạng chợt bật dậy và nói. - Chúng tôi sẽ phối hợp để triển khai ngay.

– Tôi nhắc lại, vấn đề không phải ở chỗ tiêu diệt, mà là bắt sống. Bắt sống tàu vận tải Bắc Việt và thu hồi số vũ khí con tàu ma đó chuyên chở vào. Phương án tác chiến và hợp đồng sẽ được soạn thảo ngay lúc này, tại đây.

– Thưa rõ!

*

Cuộc họp của chỉ huy bến Vũng Rô với cán bộ chỉ huy tàu diễn ra cùng thời điểm có cuộc họp tại sở chỉ huy Quân đoàn Hai ngụy. Sáu Sinh nói:

– Tình hình thế nào, các đồng chí rõ cả rồi. Tàu chở vũ khí ngoài Bắc vào đã bị lộ. Không ai lường được hết mọi sự. Nhưng sự đã đến lại phải tìm cách đối phó. Địch có thể dùng máy bay, tàu thuỷ, pháo và bộ binh cùng đánh vào. Phương châm chỉ đạo của Tỉnh uỷ lúc này là tìm mọi cách đưa gấp số vũ khí đêm qua chưa chuyển kịp ra khỏi khu vực Vũng Rô. Chiến đấu đẩy lui địch để bảo vệ tàu, bảo vệ vũ khí. Trường hợp không chuyển kịp, khi có lệnh sẽ phá huỷ. Kiên quyết không để lọt vào tay địch. Tình hình gay go đó, đề nghị các đơn vị có phương án cụ thể khẩn trương thực hiện theo phương châm vừa nêu...

– Báo cáo anh Sáu - Ba Tánh nói - tôi cho rằng không cần chờ trời tối, ta cho triển khai chuyển hàng ngay...

– Đúng thế, chẳng còn gì bí mật nữa. Chúng ta ngửa bài. Nhưng đề phòng máy bay nghe. Tôi đề nghị làng Cát, Hiệp Hoà, Hoà Xuân... kết hợp với bộ đội K.83, K.84 chuyển vũ khí. Chuyển cả ban ngày và ban đêm. Lực lượng còn lại triển khai chiến đấu. Máy bay có thể quần, K.60 lấy súng mười hai ly bảy mới chuyển vào để đánh trả. Lực lượng du kích chốt chặn ở bãi Chùa, bãi Chình, và những con đường vào Vũng Rô, không cho bộ binh địch nống tới...

– Thưa chú Sáu - Thuyền trưởng Thanh nói - Cán bộ chiến sĩ trên tàu đề đạt hai việc. Một là cần hủy tàu gấp kẻo xử trí không kịp, địch chiếm được. Việc này đã có trong phương án ở mỗi chuyến đi. Hai là anh em thủy thủ có mang theo vũ khí, xin được cho tham gia chiến đấu bảo vệ hàng.

– Việc huỷ tàu các anh cứ chủ động, cần gì bến sẽ hỗ trợ. Tôi nhất trí để thuỷ thủ tham gia chiến đấu với du kích làng Cát, du kích Hiệp Hoà nhằm bảo vệ các bãi không cho tàu hải quân từ biển ủi vào đổ bộ...

– Rõ!

– Vậy ta triển khai nghe.

Cuộc chiến đấu ở Vũng Rô diễn ra quyết liệt. Mười một giờ máy bay ném bom vào bãi Chùa, bãi Chình và các lán trại, các điểm quanh khu vực. Khói bụi mù mịt khắp vùng. Vũng Rô vốn tĩnh lặng hoang vắng bỗng chốc rầm rĩ tiếng động cơ máy bay. Bom đạn trút xuống ầm ào. Nhiều cột nước dựng lên bao quanh khu vực con tàu neo đậu. Nơi sườn núi, hai khẩu mười hai ly bảy và súng bộ binh hướng lên nhả đạn...

– Địch có ý đồ bắt sống tàu của ta thiệt... Chúng chỉ rải bom đạn xung quanh. - Sáu Sinh nói. Ông và chính trị viên Chiêu cùng thuyền trưởng Thanh đang đứng nơi một hốc núi nhìn ra, quan sát.

– Đề nghị chú Sáu cho huỷ tàu gấp. Trên tàu đã cài sẵn thuốc nổ nhằm phá tàu khi cần thiết. Chỉ cài kíp rồi hẹn giờ...

– Tôi nhất trí!

Mười một giờ ba mươi, tổ phá tàu do thuyền phó Tư Lăng phụ trách lách qua các khe đá tiến vào bãi Chùa. Một quả bom nổ gần, họ vội nằm xuống. Đất cát phủ lên người. Máy bay vòng ra xa, Tư Lăng vẫy đồng đội rồi bật dậy vọt qua các bụi rậm, qua các tảng đá lớn. Họ tới được mép nước. Nhưng một sự cố đã xảy ra. Bom dội xuống khiến chiếc tàu nghiêng lệch sang một bên. Tư Lăng lo lắng, cảm được có cái gì đó bất ổn. Và linh tính của anh đã đúng. Khi bơi ra bám được vào thành tàu, đu người lên boong rồi lần lại buồng máy, buồng lái, các cánh cửa sắt những nơi đó bị ngậm chặt, một nửa đã nằm dưới nước. Tổ phá tàu loay hoay mãi vẫn không có cách gì mở được. Tư Lăng thần mặt, rồi nói:

– Ta lặn xuống phía dưới, tìm cách bậy...

Một lát, ba người ngoi lên, họ vuốt nước trên mặt, nhìn nhau, thất vọng.

– Các cánh cửa đều kẹt cứng - Máy trưởng Quý nhìn Tư Lăng và nói - Không phá được, chúng sẽ cướp tàu...

Tư Lăng không đáp, ra hiệu bơi trở lại bờ.

– Báo cáo chú Sáu và mấy anh - Tư Lăng nói khi tới hốc đá, nơi tổ vừa xuất phát. - Bom nổ gần, tàu nghiêng, cánh cửa các khoang đều bị đóng chặt, không thể vào phía trong...

Trần Sinh lặng đi, ông hỏi:

– Chúng ta có thể áp bộc phá vào, cho nổ tàu được không?

– Báo cáo, chỉ còn cách ấy. Nhưng bộc phá...

– Tôi sẽ điều ngay...

Người cán bộ của Bí thư tỉnh đứng bên chợt lên tiếng:

– Báo cáo anh Sáu, có thuốc nhưng dây cháy chậm...

– Sao?

– Đêm qua đã cho chuyển hết về Bừng Bàn.

– Vậy nữa?... - Sáu Sinh thừ ra suy tính một lát rồi nói: Tình hình gấp rồi, ngay bây giờ anh tổ chức để đưa dần một tấn thuốc nổ ém sát tàu, chú ý an toàn, đồng thời cho người của K.60 lên Bừng Bàn lấy kíp và dây cháy chậm. Đi ngay, nội trong đêm nay phải có mặt tại đây. Mệnh lệnh khẩn cấp đó.

– Rõ!

Đêm ấy đã xảy ra một việc mà sau đấy Bí thư Tỉnh uỷ Sáu Sinh, chính trị viên Chiêu, và thuyền trưởng Hai Thanh đều hết sức bàng hoàng, ân hận. Chính trị viên Chiêu thậm chí bị xốc, choáng váng hoảng loạn như kẻ tội nhân biết mình sắp bị ném vào vạc dầu... Khi bộc phá vận chuyển tới và đã áp được vào tàu, dây cháy chậm đã điểm hoả, tất thẩy mọi người đều hồi hộp, lắng đợi, nhưng chẳng rõ vì lý do gì, chờ mãi vẫn không nghe tiếng nổ. Chính trị viên Chiêu là người phụ trách trực tiếp công việc điểm hoả khẳng định rằng đã không có sai sót.

Mọi người thấp thỏm nhìn ra. Bom đạn vẫn xả xuống quanh tàu không ngớt và ngoài xa, hai chiếc tàu của hải quân ngụy trưng đèn dập dình chờ cơ hội tiến vào.

– Trên tàu còn rất nhiều tài liệu, hải đồ hành trình chưa kịp huỷ...

Có ai đó nói bâng quơ. Hình như mọi người hiểu điều hệ trọng ấy nên cùng im lặng nhìn về phía bãi Chùa...

– Liệu dây cháy chậm có bị ẩm? - Một lát Tư Lăng hỏi, giọng lo lắng.

– Để tôi ra kiểm tra... - Chiêu ngó trước ngó sau rồi lò dò bò trong bóng tối. Một lát, anh quay lại, giọng run run, không được tự nhiên:

– Một mảnh đá do bom ném vào chân núi văng ra đã vô tình chặt đứt dây cháy chậm. Tôi đã nối lại... và điểm hoả...

Mãi những năm sau này, cả lúc hoà bình đã trở lại, Chiêu vẫn không thôi day dứt về những gì xảy ra trong thời khắc rất ngắn ngủi đó. Những năm tháng còn lại của cuộc đời, anh sống trong nỗi dằn vặt mỗi khi nghĩ tới đêm hôm ấy ở Vũng Rô, cái đêm khốc liệt, cái đêm định mệnh, cái đêm đầy thử thách, là nơi bộc lộ bản lĩnh mỗi cá thể trong chiến tranh, trước cái chết và sự sống...

Quả có một mảnh đá sắc như dao văng tới, cứa mạnh đã khiến dây cháy chậm bị đứt, nhưng vị trí đó quá gần con tàu, nếu điểm hoả lại, người thực hiện công việc mạo hiểm ấy khó có khả năng không tan ra cùng con tàu. Chí ít cũng bị sức ép và mảnh vụn của sắt thép gây thương vong. Sự sống sót chới với tựa hòn đá lớn treo trên sợi tóc mảnh. Bởi vậy Chiêu đã chần chừ, đã buông xuôi, đã tặc lưỡi rồi mặc hậu quả sau đấy, trong lòng đầy những sợ hãi, lập cập bò trở lại. Trước cái sống và cái chết con người chợt trở nên vị kỷ và thấy cần phải toan tính, cần phải cân nhắc đo đếm. Không ai dửng dưng trước sự mất còn của tính mạng mình. Mà sự toan tính cân nhắc đó chỉ ngắn ngủi diễn ra trong vài tích tắc. Sống cũng trong mấy giây mà chết cũng trong thời gian của hai ba cái nháy mắt. Vào thời điểm ấy Chiêu tự dưng thấy cái chết trở nên vô nghĩa, vô lý nên đã quyết định rất nhanh. Sẽ không ai hay điều đó, (nhưng lương tâm Chiêu thì soi rõ)... Mọi sự hèn nhát vị kỉ đều để lại những hậu quả khôn lường, những bi kịch dây chuyền, nối tiếp nhau, giống như trò chơi đô mi nô, bi kịch này kéo theo bi kịch khác, trở thành chuỗi dài thảm hoạ...

Tư Lăng nóng lòng nhìn sang, nhận ra chính trị viên Chiêu biểu hiện sự lóng ngóng đồng thời cố tình đánh mặt, lảng tránh ánh mắt mình, thấy chột dạ. Hình như đã có điều gì bất ổn, nghĩ vậy, vừa lúc ngớt đợt bom, Tư Lăng bật dậy.

Mọi người chưa kịp ngăn lại, Tư Lăng đã nhào vào bóng đêm, hướng về phía con tàu. Bóng anh nhoà vào biển, nhoà vào núi... Rồi mấy phút sau, một cột lửa hình nấm bùng cao, kế đó là tiếng nổ lớn. Không gian bung nở, nóng sực... Mọi người lặng ngắt, cùng hướng về phía có tiếng nổ, hết sức bàng hoàng. Chính trị viên Chiêu đứng lặng như cây nêu trồng nơi sân đình làng, khuôn mặt đẫn đờ, khô dại. Một lát, có tiếng ai đó nấc lên:

– Thuyền phó Tư Lăng! Trời ơi... Sao lại có thể như vậy!

Mọi người cùng nén tiếng thở dài, hiểu điều gì đã xảy ra...

Vào thời khắc ấy, thời khắc ngắn ngủn nhưng bao điều đã chồng xếp lên nhau, Sáu Quyên đang đưa Tư Nhâm hí hới đi tìm Sáu Sinh.

– Chú Năm, thấy chú Sáu mạn nào không? - Cô hỏi khi đi qua bãi Chình, thoáng nom thấy Năm Bào đang nhấp nhổm trên bãi rê rê khẩu AK hướng mặt ra biển...

Ông Năm quay lại:

– Bom đạn rắc như vãi phân, bộ mày chán sống hay sao mà chạy loăng quăng vậy?

– Cháu tìm chú Sáu có việc...

– Tao đâu quản ông Bí thư... Ai đi cùng vậy, Sáu?

– Việc quân sự, không tò mò nghe...

– Chà, bọn trẻ lúc này, đứa nào cũng xí xởi lên mặt dạy người già... Sáu Sinh ở chỗ vừa có tiếng nổ đó...

– Cám ơn chú Năm nghe!

Sáu Quyên nói rồi bước gấp về phía bãi Chùa. Tư Nhâm kéo chiếc khăn che mặt, hấp hởi bước theo. Sáu Quyên đâu ngờ rằng sự sốt sắng của mình đã đẩy Tư Nhâm vào hoàn cảnh tột cùng của bi thương và đưa Bí thư tỉnh ở vào thế bối rối như thể bị dẫm phải than củi. Những ngày kế đó, Sáu Quyên luôn ám ảnh bởi hình dáng Tư Nhâm, tựa một cái bóng không hồn, rủn rưởi trong đêm, lần tới từng người hoảng loạn dồn hỏi, giọng thoảng thốt: “Đồng chí ơi, chồng tôi đâu?... Chú ơi, chồng con đâu?... Mọi người ơi, ba bé Thảo đâu?”. Sáu Quyên cũng bị choáng, chỉ khi Sáu Sinh lay vai cô, nói như van nài, giọng tắc nghẽn: “Sáu ơi, con giúp chú đưa Tư Nhâm trở lại nghe”, cô mới tỉnh ra... Sáu Quyên cũng không thật rõ rằng bằng cách nào, ngay trong đêm hai chị em đã dìu díu đưa nhau về lại được Lân Cồ...

*

Từ bãi Chình nhìn ra, biển sẫm đen. Sau tiếng nổ lớn khiến mặt nước cồn lên, nóng sực, lúc này lại giống như con thú no nê thu mình lại lim dim ngủ. Nhưng gần sáng, biển bị khuấy động. Từ giữa Vịnh, hai con tàu đổ bộ nổ máy lừ đừ đi vào. Bên mép nước, các tay súng của du kích làng Cát, du kích Hiệp Hoà lặng lẽ rê nòng về hướng đó. Khi tàu địch vào gần, Mười Bàng hô bắn. Hơn chục khẩu súng các loại nhất loạt nhả đạn. Những vết đạn đan chéo vào nhau như hoa lửa. Hai chiếc tàu địch chững lại, khạc đạn lên bãi đáp trả. Mười Bàng hét to:

– Nằm nguyên vị trí nghe. Trời tối, chúng không dám vào gần đâu.

Từ phía Đèo Cả, pháo hiệu, pháo sáng thi nhau vọt lên. Cách đấy không xa, nhiều bóng người vác những thùng gỗ lớn nối nhau vượt qua Quốc lộ Một. Có tiếng ai đó hối:

– Nhanh lên mấy đứa, đạn dưới bãi còn nhiều...

Kế đấy là một tiếng “ối”, người vừa nói trượt chân, dúi dụi ngã. Ba Tánh đi bên cạnh vội cúi xuống, đỡ lên. Có tiếng động cơ máy bay. Trên không bung ra chùm pháo sáng. Ba Tánh ngẩng nhìn, hô lớn:

– Tất cả đứng yên, không vượt qua đường nữa!

Có người theo lệnh, nhưng không ít người vội tản vào các bụi cây cạnh đấy. Pháo sáng tắt, Ba Tánh lại hô:

– Vượt!

Từ các hốc núi, bụi rậm, từng tốp người túa ra, hối hả băng qua con lộ. Chỉ thoáng sau họ mất hút vào các khe núi, đi về phía Tây... Vũ khí lần lượt được chuyển về cứ.

Cũng đêm ấy, tiểu đoàn Rồng Biển hạ trại nơi lưng chừng núi,

cách Vũng Rô không bao xa. Khuya khuya, thiếu tá Hai Rạng nhận được điện đàm từ Bộ chỉ huy Quân đoàn. Đại tá Hưng không hài lòng, cho rằng tốc độ hành quân của tiểu đoàn quá chậm. Rồi viên đại tá lệnh cho Hai Rạng phải cướp thời gian tiến vào các vị trí mà theo nhận định là chỗ cất giấu vũ khí tạm thời của Việt Cộng. Mờ sáng hôm sau, lính Rồng Biển đổ xuống núi. Cùng lúc, pháo từ biển bắn vào, rốc két từ may bay xỉa xuống. Bãi Chình và khu vực xung quanh khói bụi mịt mù. Anh em thuỷ thủ và du kích làng Cát dưới sự chỉ huy của Xã đội trưởng Mười Bàng nấp trong các hốc đá, nhìn ra. Mười Bàng lách từ chỗ này qua chỗ kia, nói luôn mồm:

– Để chúng vào thiệt gần mới bắn nghe. Ngớt bom, ngớt đạn là nó

đổ quân đó.

Ông Năm Bào ôm khẩu súng trường, mắt vẫn hướng ra biển:

– Bộ tụi tao không rành sao mà nhắc hoài, mày.

– Chú ý tụi bộ binh trên núi đó, chú Năm...

– Tao rành bọn Rồng Biển này, mày yên tâm!...

Từ chân núi phía sau, bộ binh địch dưới sự chỉ huy của đại uý Ba Hoàng bất chợt đánh úp vào bãi Chình... Năm Bào quay nòng súng, lia một loạt, la lớn:

– Chúng xuống đó!

Đạn du kích bắn tới. Lính Ba Hoàng nằm rạp xuống... Nhân đó, hai tàu từ ngoài vịnh tiến vào. Mười Bàng nói:

– Tổ một đánh địch ở chân núi. Tổ hai kết hợp với anh em thủy thủ đón đánh địch đổ bộ từ biển.

Ông Năm và Hai Liên nép sau một mô đá, bắn từng loạt. Thằng Hoàng nấp dưới một cái hốc, nhòm lên. Khẩu súng ngắn nhăm nhăm trong tay. Sau hắn, thằng lính thông tin đeo bộ đàm, nói liến thoắng:

– Chim sẻ gọi chim ưng! Chim sẻ gọi chim ưng! Yêu cầu yểm trợ... Chim sẻ đang kẹt...

Lập tức, đạn pháo từ biển lại rót vào bãi Chình. Đất đá văng khắp nơi. Một quả đạn rơi gần thuyền phó Thơm, mảnh bắn ra, cắm vào chân anh. Người thuyền phó ối lên một tiếng. Mười Bàng quay lại:

– Đưa anh ấy vào hốc đá!

Hai du kích, người cõng, người đỡ, dìu Thơm đi. Đá vẫn văng rào rào xung quanh. Hết pháo, Ba Hoàng vẫy tay, bọn lính tràn lên... Chúng bắn như mưa. Một thuỷ thủ trúng đạn. Anh xỉu xuống, khẩu súng tuột khỏi tay... Hai Liên quay lại, la lên:

– Có anh thuỷ thủ...

Mười Bàng và Hai Thanh cùng nhào tới.

– Anh Quý, tỉnh lại đi! - Hai Thanh gọi.

Người máy trưởng mở mắt, giọng rất nhỏ:

– Thuyền trưởng... Tôi đi đây...

Nói rồi, anh ngoẹo đầu, tắt thở trên tay Hai Thanh...

Thi thể máy trưởng Quý được chôn sát chân núi. Chính trị viên, thuyền trưởng và vài ba thuỷ thủ ngồi lặng bên phần mộ. Đôi mắt thẫn thờ, Thanh rầu rầu:

– Anh Quý ơi, anh đang nằm lại trên đất Tuy Hoà đó. Từ đây vào Nha Trang không bao xa. Hoà bình trở lại, chúng tôi sẽ vào để đưa anh về quê. Xin vĩnh biệt...

Phía sau núi, tiếng động cơ máy bay trực thăng chở quân đổ bộ xuống Vũng Rô nghe rất rõ. Thanh ngẩng nhìn rồi nói:

– Anh em về vị trí tiếp tục chiến đấu!

... Đêm thứ ba, du kích và thuỷ thủ được lệnh rút khỏi bãi Chình. Mười Bàng phân công:

– Thương binh và thuỷ thủ đi trước, du kích bảo vệ phía sau...

– Rút hả, anh Mười? - Có ai đó hỏi.

– Tàu nổ rồi, vũ khí chuyển gần hết, ở đây chi.

Đoàn người lặng lẽ rời bãi. Các thủy thủ đi đầu. Thuyền phó Thơm được thuyền trưởng và chính trị viên dìu, lắc nhắc bước. Qua khỏi bãi Chình, toán người gặp du kích, dân công từ hang Vàng ào tới. Nhiều người trên vai vẫn vác đạn, hối hả vượt lên. Hai tay bám vào vai Thanh và Chiêu, thuyền phó Thơm hỏi:

– Có ai đồng hương Sông Cầu đó không?

– Anh xã nào, tôi người Sông Cầu đây! - Một du kích từ hướng hang Vàng tới, bước đến cạnh và đáp.

– Tôi ở Hoà Thanh, còn anh? - Thơm hỏi.

– Tôi sinh ra ở Hoà Xuân, nhưng mấy năm rồi chuyển về Hòa Thanh sinh sống... Anh ra Bắc lâu chưa?

– Năm tư... Nè, cho hỏi chút, sống ở Hoà Thanh, anh biết gia đình ông bà Cót chớ?

– Năm nay chừng bảy mươi?...

– Đúng rồi!

– Vẫn còn mạnh. Anh là... Có phải con trai ông bà Cót? Nghe nói ông bà có người con ra Bắc tập kết.

– Trước khi đi, tôi... ngu quá, đã không tạt qua nhà chào ba má một câu... Với nữa hồi đó nghĩ chỉ hai năm rồi về... Nghĩa là ba má tôi vẫn khoẻ... Biết được vậy là mừng quá rồi!... ở Hoà Thanh, anh còn biết một người có tên là Hiệp nữa không?

– Hoà Thanh có những ba người tên Hiệp lận. Một Hiệp cà nhắc, một Hiệp đã hi sinh sau trận càn năm ngoái, anh Hiệp nữa lên cứ từ sau khi Ngô Đình Diệm bị đảo chính...

– Không, phụ nữ... Năm nay trên ba lăm, có lẽ gần chạm bốn mươi...

– Vậy chắc là cô Hiệp ở ấp Bốn, người phụ nữ xinh đẹp nhất làng. Cô ấy đã có con, năm nay nhỏ đó đã mười tuổi...

– Con gái hay con trai?

– Hỏi thiệt đừng tự ái nghe. Có phải anh là bố đứa trẻ?

– Cô ấy nuôi con một mình hay sao mà hỏi vậy?

– Nghe dân làng thóc mách rằng trước đây cô Hiệp yêu một anh bộ đội người cùng làng. Họ đã định tổ chức đám cưới nhưng chẳng rõ lý do gì, lại hoãn. Anh bộ đội đi ra Bắc được nửa năm thì cô Hiệp ở nhà sinh con. Từ đó ở vậy... Cũng nhiều người muốn làm bạn nhưng cô không nghe. Hình như vẫn nấn ná, có ý chờ người trai cùng làng... Có cái gì gợi mở dội lên đánh thức, Thơm im lặng. Người du kích hỏi:

– Có phải anh thuyền phó hy sinh khi phá tàu đêm qua cũng là người Sông Cầu mình?

– Anh Tư Lăng người xã Tân Thanh...

– Tội, về đến đất quê lại chết...

Chính trị viên Chiêu đang bước chợt vấp phải hòn đá, dúi về phía trước. Người du kích huyện Sông Cầu vội chạy tới:

– Anh để tôi dìu đỡ đồng hương một lúc... - Nói rồi vắt tay Thơm lên vai mình, bước đi. Một lát lại hỏi:

– Anh ấy có vợ con chưa?

– Ai?

– Người phá tàu ấy...

– À, có rồi... Nè, hai mẹ con cô ấy vẫn sống ở quê?

– Anh hỏi mẹ con cô Hiệp hả? Vẫn sống ở quê. Hai mẹ con giống nhau như đúc... Hỏi thiệt, là con anh, phải chưa?

– Không!

– Sao biết rõ cô ấy và quan tâm dữ vậy...

Phía hang Vàng, dội tới tiếng nổ lớn. Mọi người cùng dừng lại, quay nhìn. Mười Bàng nói:

– Ba Tánh đã cho huỷ vũ khí chưa chuyển hết ở đó. Ta đi lẹ kẻo sáng nghe, bà con...

Đoàn người lại bước tiếp. Một cô gái khoác trên vai tới ba khẩu súng hỏi người thuỷ thủ cũng lặc lè mấy khẩu AK trên người đi bên cạnh:

– Em thứ ba nè, còn anh tên gì?

– Tôi là Hùng, Hùng hàng hải.

– Hùng hàng hải, tên kỳ cục vậy? Mấy nữa các anh ra lại miền Bắc?

Hùng đùa:

– Bao giờ cô Ba hết gạo, tụi tôi đi.

– Phú Yên là vựa lúa của miền Trung đó anh ơi.

– Vậy thì ở lại dài dài.

– Ra Bắc, mấy anh tính lội bộ?

– Cô Ba có ý bố trí để tụi này cưỡi máy bay? Tiếng Mười Bàng thúc phía sau:

– Nhanh chân chút nghe. Sáng trời là máy bay tới đó.

*

Lính Rồng Biển thất thểu khênh những chiếc băng ca có người bị thương và nhiều xác chết lử đử đi về phía mép biển. Nơi đó tàu “há mồm” đã chờ sẵn để chở vào Nha Trang. Vũng Rô lại yên tĩnh như thể những ngày qua nơi đây chưa hề có chiến sự xảy ra. Từ trên cao, mấy con diều hâu thính mũi chờn vờn lượn quanh. Trời nắng gắt. Đâu đó đưa tới mùi lờm lợm, tanh tưởi của thứ thịt nhiều đạm đã thối rữa. Thiếu tá Hai Rạng đi phía sau, thỉnh thoảng nhìn từng tốp lính đang mệt mỏi lê bước trên cát. Bản thân Hai Rạng cũng thấy oải. Mấy ngày mấy đêm không hề chợp mắt. Đã vậy đại tá Hưng còn gọi tới la chửi om xòm, trách cứ rằng vô dụng, bất lực. Thất bại trong mục đích thu thật nhiều vũ khí của Việt Cộng để đưa vào Sài Gòn triển lãm nhằm khuếch trương chiến tích phát hiện ra con đường biển của Bắc Việt chở vũ khí tiếp tế cho Việt Cộng không đạt được như ý muốn khiến các cấp chỉ huy cáu giận. Hai Rạng lau mồ hôi, dừng lại nghỉ một lát. Ba Hoàng đi cạnh đó đưa chiếc bình tông nước:

– Họ táo bạo hơn ta tưởng. - Viên đại uý nói rồi hướng đôi mắt thiếu ngủ lờ đờ nhìn ra biển.

– Trước những kẻ khôn ngoan, liều lĩnh như vậy, nếu đại tá Hưng thân chinh chỉ huy cũng trở nên vô dụng và bất lực... - Giọng Hai Rạng uể oải. Một lát sau, nói thêm: Cái còn lại của cuộc chiến này là gì vậy? Chẳng là gì ngoài hận thù...

Ba Hoàng không đáp. Hơn ai hết gã thấm điều ấy. Trần Nhũng bị giết bởi hận thù. Và Ba Hoàng bao phen chết hụt cũng từ hận thù... Qua mỗi lần đụng độ, dù thắng hay thua, Cộng sản và Quốc gia càng nghĩ ra nhiều mưu kế để tiêu diệt nhau... Không thể hoà thuận, không có một gầm trời chung cho đôi bên... Nếu không tiêu diệt Cộng sản, Cộng sản sẽ tiêu diệt lại...

Sau sự kiện phát giác tàu Bắc Việt thâm nhập Vũng Rô, tiểu đoàn Rồng Biển được tăng cường thêm hai đại đội để càn xuống Làng Cát, Hiệp Hoà, những vùng quanh khu vực Vũng Rô và càn vào núi ẩn, nơi Bộ Chỉ huy Quân đoàn Hai cho là đầu não Cộng sản khu vực miền Trung, nơi bắt đầu những hiểm hoạ... Chiến sự liên miên, sống chết bất định nên được giây phút rảnh rỗi nào, lính Rồng Biển lại kéo nhau ra phố, ra quán xá. Địa chỉ hấp dẫn nhất vẫn là chỗ Năm Hồng.

... Hôm nay quán đó chật lính. Những kẻ vừa thoát chết đưa nhau đến để mừng rằng mình còn may mắn sống, còn hiển hiện trở về. Gân cổ kéo căng, họ tranh nhau xả hơi rượu vào mặt người ngồi xung quanh. Gã nào cũng muốn hét thật to. ồn ĩ. Nhộn nhạo. Chẳng rõ khi ra trận có hăng hái như vậy...

– Thằng Ba Tân chết thảm quá, một mình ăn trọn một băng đạn của du kích. Xác hắn tướp tơi...

– Nhìn thằng Bảy Tép không còn chân, lềnh phềnh nổi lên mặt nước, ghê quá.

– Ăn trọn băng đạn rồi chết ngay là may. Sa vào bãi chông, ngoắc ngoải không sống cũng chẳng chết mới là kinh hồn.

– Không nói chuyện chết chóc nghe. Mang được cái xác chân tay còn biết ngo ngoe về ngồi đây và còn được nhìn thấy mông đùi với bẹn chị Năm Hồng là đại phúc rồi... Chị Năm, cụng với tụi này một ly!

Có tiếng phanh gấp của chiếc Jeep. Hai Độ, vệ sĩ của Ba Hoàng từ ngoài xộc vào, hét to:

– Tất cả nghe đây, lệnh của đại uý, hai tiếng nữa có mặt tại trại để chuẩn bị hành quân. - Nói rồi, Hai Độ biến nhanh như khi xuất hiện.

– Tức là hai giờ đồng hồ kế theo chắc chắn chúng ta vẫn sống. Còn sau đó thì... phó mặc trời... Nào, dô, chị Năm... Trông chị Năm ngày càng ngon ha...

– Nói gì bi quan vậy? - Năm Hồng bước tới và vui vẻ cụng ly với những người lính ngồi quanh chiếc bàn xế góc quán.

– Chị Năm không rõ, Việt Cộng táo tợn lắm... Không phải bi quan mà sự thật... Tụi này chỉ lo chết trẻ, chưa biết mùi đời, uổng phí...

– Thiệt chưa biết? - Năm Hồng lườm ngang. - Về chuyện này mấy chú còn táo tợn hơn Cộng sản ngoài chiến trận...

– Chị Năm nói vậy tội nghiệp, chưa biết thiệt mà...

– Vậy tranh thủ biết đi! - Năm Hồng chớm chơ, rồi suồng sã uống cạn ly rượu, và lại bước về phía quầy.

– Nào anh em, hãy sống cho hôm nay, ngày mai còn xa lắm. Trăm phần trăm nghe.

Những chiếc ly chụm vào nhau. Rượu được dốc vào họng tựa trẻ con múc nước đổ lỗ dế. Một gã đập tay xuống bàn làm nhịp rồi ngoác miệng gào rống lên như bò cái đến ngày động đực, cả tốp lè nhè hát theo. Giọng kim. Giọng trầm. Và giọng mũi. Những khuôn mặt đỏ mọng lắc lư.

... Diệu vợi là diệu vợi ơi - Ngày mai tôi chết hết đời tình tang...

Một gã trẻ tuổi mon men tới bên quầy Năm Hồng, cười nịnh.

– Chị ơi, em chưa hề biết đến đàn bà thiệt, mà mấy tiếng nữa đã phải ra trận rồi... - Giọng sường sượng, gã gạ, có thể rượu đã khiến chàng trai trở nên dũng cảm. - Nghe nói chị Năm rộng rãi hào phóng lắm...

– Cậu người ở đâu vậy?

– Em ở Hòa An.

– Làng nào?

– Đại Đoá. Giáp con sông Cầm.

– Khít bên quê ngoại tôi... Tên gì? Năm nay bao nhiêu rồi?

– Em tuổi con khỉ, sắp mười tám... Em thứ tư, tên Khang.

– Ai biểu với cậu rằng tôi rộng rãi? Toét miệng cười ngượng:

– Nghe mọi người kháo vậy.

– Đã đánh nhau với Việt Cộng trận nào chưa?

– Trận này là lần đầu. Em sợ lắm...

– Sợ bom đạn hay sợ chưa biết đàn bà đã bỏ xác nơi trận mạc?...

– Cả hai... - Lại cười: Chị Năm à, em còn trinh nguyên mà.

– Tội nghiệp ha... Muốn... thiệt chớ?

– Thiệt! Nếu được chị Năm... cho.

– Ngay bây giờ sao?

– Ngày mai chắc gì đã còn được trở về để trông thấy chị Năm... Mấy đứa đồng hương Hoà An đi vô núi ẩn lần trước chết ráo trọi rồi... Chiến tranh, sợ thiệt...

Năm Hồng thương hại nhìn chàng trai:

– Nghe nói cũng thấy mủi... Nè, cậu vô phòng tôi trước đi. Giao việc cho nhân viên rồi tôi chiều.

Khi Năm Hồng bước vào phòng ngủ, và bảo chàng lính trẻ bỏ quần áo ra, cậu ta đỏ mặt, run rẩy, lóng ngóng và luống cuống hệt cậu học trò chưa thuộc bài lại đến lớp trễ bất ngờ bị thầy giáo gọi lên bảng. Nhưng lúc nhìn thấy hình hài Năm Hồng ngồn ngộn, trắng phau phau như bẹ cây chuối mới bóc, nhấp nhô những vùng tối sáng phơi ra trên giường thì con người mới lún phún lông kín này lại háo hức khát thèm giống kẻ bị bỏ đói lâu ngày thấy mâm cỗ đầy phè, hăm hở đòi ăn.

– Từ từ đã... đừng vội. - Năm Hồng vỗ về khi thấy cái cơ thể nóng rực như hòn than vừa lấy trong lò ra ấy thở đứt nối và khác với phút giây sợ hãi ban đầu, cuống cuồng, xấn xổ đòi hỏi. - Nghe nè, cậu nhắm mắt lại và nghĩ tới việc gì khác đi đã...

– Nhưng em không chịu được nữa... Chị ơi, chị cho nghe...

Hệt con thằn lằn, chàng trai cuống quýt trườn lên bụng Năm Hồng, nhưng cái phần nhạy cảm chưa kịp chạm vào bờ giếng râm rì sâu hun hút để người đàn bà cùng nhận biết được sự bung nở cường tráng giống đực ở người đàn ông đã rủn rảo đổ thống đổ tháo, tự đánh mất tinh lực và sức mạnh mình. Nhuệ khí, sự hung hăng ban đầu phút chốc tan chảy như tảng băng gặp nhiệt độ cao.

... Diệu vợi là diệu vợi ơi - Ngày mai tôi chết hết đời tình tang...

Bên ngoài, những gã nát rượu vẫn gào ầm quán...

– Chị ơi... hết mất rồi! - Xọp xẹp như quả bóng bơm căng phút chốc bị xì hơi, chàng trai nuối tiếc rên rỉ.

– Biết!... Tại cậu vội vã, không nghe lời, để hưng phấn quá... Sao lại khóc?

– Tiếc!

– Làm lại được không? Nếu gắng được tôi chiều lần nữa.

– Nhưng phải có thêm chút thời gian... mà em đến giờ phải về trại rồi...

– Vậy hả! - Nhận ra chàng trai đã xỉu xìu, Năm Hồng thương cảm. - Thì nhòm vô đó chút cho đỡ...

Một lát, người lính trẻ nhổm dậy, thở dài:

– Đẹp quá!

– Cái gì đẹp, cậu bé?

... Diệu vợi là diệu vợi ơi - Ngày mai tôi chết hết đời tình tang. Tình tang là cái tính tàng - Ra trận tôi chết nàng thời chơ vơ. Chơ vơ ơi cái thờ ơ - Tôi không về nữa em chờ đợi chi. Du di là cái dù dì -

Tôi không còn nữa em thì cho ai... Của em tựa đoá hoa nhài - Mai tôi xuống mộ xin cài lên bia..

Mấy ngày sau đám lính thất trận của Ba Hoàng lại rệu rạo, xuyệch xoạc kéo vào quán và kháo nhau rằng chàng trẻ tuổi có tên Tư Khang đã tử nạn ở núi ẩn. Một viên đạn xuyên qua bụng và con người bất hạnh đó chỉ kịp hực lên một tiếng: “má ơi”, rồi cong người, loạng choạng đổ vật xuống bìa rừng. Hay chuyện, Năm Hồng thở dài:

– Khổ, vẫn chưa biết hết thế nào là mùi vị đàn bà đã phải chết. Thiệt đáng thương!

Từ đó, hễ chàng lính trẻ nào chưa vợ đến quán có ý muốn nếm chút hương đời trước khi ra trận, Năm Hồng đều dễ dãi lựa cơ hội để... cho. Chị làm điều ấy với tất cả sự nhân hậu hồn nhiên giống cái, cộng với tình cảm như thể tấm lòng bao dung của người mẹ. Lại còn coi đây là sự ban ơn, làm phước. Có người biết chuyện, trách rằng sự dễ dãi của chị đã làm hư đám lính. Năm Hồng thật thà giải thích, chị không hề dẫn dụ, không gạ gẫm, song ít ra cũng đã biết làm một việc có ích, biết dành cho những con người xấu số ấy cái mà mình có khi họ háo thèm để giả dụ nếu như chẳng may trước mũi tên hòn đạn họ không còn cơ hội trở về, bỏ xác một cách vô nghĩa ở chốn nào đó, chị không những đỡ day dứt áy náy, ân hận mà còn cảm thấy như có chút gì đấy được an ủi... Còn trẻ nhưng đám này cũng là đàn ông với đầy đủ nhu cầu bản năng giống đực. Chị hào phóng ban phát sự ấy với ý thức người chứ không vì bản năng con. Hầu như trong số choai choai này đều chẳng mảy may kinh nghiệm, lại thiếu bản lĩnh, chưa kịp đến cửa chợ đã hết tiền, nhưng chị không trách cứ. Chị thấy thanh thản sau mỗi lần những người trẻ tuổi ngượng ngùng và xấu hổ ra khỏi phòng, mặc dù có lúc họ khiến chị ngứa ngáy, khó chịu, bực mình cáu giận vô bờ. Suy cho cùng chẳng mất gì hao gì mòn gì, nếu có mất, chỉ là một khoảng thời gian nho nhỏ. Chị coi đó như việc thiện, việc nên làm, vậy thôi. Thật đơn giản, rất tình, rất người...

Rồi những gã lính trẻ được chị cho mút mát để biết thế nào là đàn bà trở về ngày mỗi ít. Điều ấy cũng khiến Năm Hồng cảm thấy có cái gì đó vô lý, và thoảng buồn. Chiến tranh chẳng khác gì ngọn gió độc, chỉ lăm nhăm làm khô héo những chồi non mới nhú. Chị thường giao quán cho đám nhân viên và la cà đến nhà Tư Nhâm chơi. ở Lân Cồ chị chỉ thích giao du với con người không có đàn ông này. Chị biết Tư Nhâm dịp này nghỉ, không ra chợ và cũng đang buồn. Sau cái chết của người mà Tư Nhâm nói rằng ông bác họ dưới quê, Tư Nhâm suy sụp hẳn. Mắt thâm quầng, thiếu sắc khí, da mai mái, xanh rớt, trông rất mệt mỏi... Cũng là hạng đa sầu đa cảm! Đa sầu đa cảm nên mới phải nghĩ ngợi nhiều. Có lần Năm Hồng khuyên:

– Người chết đã chết rồi, có sầu não cũng chẳng thể sống lại. Phải lo cho cái thân mình, em ạ. Dịp này trông cô chẳng khác gì vỏ con ve sầu sau khi lột... Có ăn được không?

– Em buồn lắm, chị Năm ơi.

– Buồn, hẳn rồi. Mấy đứa nhỏ mới biết sơ sơ, thậm chí còn chưa thuộc tên, nay nó ra trận rồi chết, tôi cũng buồn nữa là. Nhưng phải sống cho mình nữa chớ.

Dưới con mắt Năm Hồng, Tư Nhâm là kẻ đáng thương. Những ràng níu vớ vẩn tựa cái rọ trói chặt con người này đến khô héo, cô đơn. Năm Hồng cũng cô đơn nhưng chị biết sống cho mình, không để những khoảng trống vô nghĩa kịp len vào hành hạ... Hơn ai hết chị ý thức được cuộc đời này chỉ là thoáng chốc, chỉ gang tấc nên phải biết tận dụng, tranh thủ. Không dưới vài ba lần chị truyền cái kinh nghiệm sống ấy cho Tư Nhâm, nhưng như thể nước đổ đầu vịt, những gì đã ăn sâu vào con người này thật khó bật ra...

– Hay em có vấn đề về giới tính hả Tư? - Một lần Năm Hồng hỏi. Tư Nhâm giương đôi mắt thiếu ngủ lên nhìn, ngạc nhiên:

– Là sao hả chị?

– Còn sao nữa. Hỏi thiệt, em còn ham muốn đàn ông không? Cái ấy của em tịt rồi à?

Tư Nhâm ngồi lặng nhìn ra, một lúc sau mới thật thà đáp, đáp rất khó khăn:

– Em vẫn là đàn bà... Em khổ lắm chị ơi...

Nói rồi, nước mắt rơm rớm. Năm Hồng thở dài, có thể chị chưa mấy rõ tâm trạng người phụ nữ này, nhưng nghe giọng nói sầu não của cô cũng thấy mủi.

– Cô thiệt khó hiểu... Cớ chi tự mình làm khó mình chớ.

*

Tư Nhâm không là người khó hiểu. Nhưng quả đã tự mình làm khó mình. Hoàn cảnh đẩy chị vào tình thế ấy... Khi Sáu Quyên hớt hải bươn tới rồi quên cả hiểm nguy, ló khuôn mặt nở tựa cái bánh bao vào cửa hớn hở thông báo rằng Tư Lăng trở về, chị không tin vào tai mình nữa. Chuếnh choáng như người uống quá nhiều rượu, chị cố tình cấu vào đùi và khi nhận ra rằng mình vẫn còn cảm giác biết đau, mới ngỡ ngàng vừa vui mừng vừa sợ hãi trước phép lạ bất ngờ, ngoài tưởng tượng Sáu Quyên đưa tới... Chị kéo nhanh cửa cổng, chân nọ ngoằng vào chân kia, hơ hải gằn theo Sáu Quyên, tâm trạng bồng bềnh như trôi trên mây... Có thật là Tư Lăng, chồng chị đi trên “tàu không số” trở về? Cuộc đời vẫn còn những may mắn kỳ diệu vậy sao? Đã không uổng phí công em đợi, công em chờ, Tư ơi. Hơn mười năm qua có phút giây nào em không nghĩ đến anh! Hễ nhớ tới những kỷ niệm của chúng mình em lại nao cả lòng. Rồi em thổn thức chơi vơi trong mỏng tang hy vọng rằng sẽ có ngày nào đó, thể nào cũng biết được chút tin tức về anh. Nếu có vậy đã thoả, đã là đặc ân rồi chớ đâu dám mơ là còn có hôm nay. Vâng, không dám! Nó lớn lao quá, hạnh phúc quá! Đột ngột quá! Mà đúng anh về thiệt chớ, anh Tư? Đời vẫn nhân hậu, vẫn còn cái để mà tin, để mà hi vọng, để mà bấu víu đặng đủ sức nổi chìm trong nhiều khốn khó nhiễu nhương diệu vợi này, phải không anh?... Thấp thỏm, hồi hộp, Tư Nhâm quýnh quáo bước. Sáu Quyên đi trước, chị như cái bóng lật đật theo sau. Đầu óc rối mù. Vui buồn. Háo hức mong ngóng. Và thon thót lo sợ... Con đường từ Lân Cồ tới Vũng Rô hôm đó sao dài thăm thẳm vậy chớ... Gặp anh, phút giây đầu tiên sẽ sao đây, ông trời? Mười năm về lại trong ít phút, không được khóc nghe!... Tư Lăng sợ nhất nước mắt đàn bà. Hồi chia tay, nước ứ tràn mi mà Tư Nhâm đâu dám sụt sịt, phải làm bộ cứng kẻo mềm lòng người đi. Vậy mà, trời ơi... Chưa có cái cảm giác được gặp chồng sau mười năm, anh đã ra đi. Ra đi mãi mãi. Ra đi vĩnh viễn... Không nhắn gửi, không ánh nhìn, không cả ấn tượng cuối cùng... Sao lại trớ trêu nghiệt ngã làm vậy chớ! Giá như không có cảnh huống này để Tư Nhâm cứ sống trong phấp phỏng đợi chờ, sống trong hy vọng thì đỡ biết bao...

Nỗi đau quá lớn sau cái chết của Tư Lăng như thể là điều không có thật, lại phải lặng thầm chịu đựng và ngày một ngấm lắng khiến chị hụt hơi. Vết thương không được thổ lộ san vơi chia sẻ, cứ canh cánh lặn nặng trong lòng càng tấy đỏ, mưng mủ, xót buốt. Cái đêm ở Vũng Rô trở về, Tư Nhâm không thật rõ cớ sao mình vẫn đủ sức chịu được, và vẫn tồn tại. Sau thông báo của Sáu Sinh, chị choáng loạn chống chếnh có cảm giác chơi vơi như thể bíu trên sợi dây mảnh mỏng lơ lửng giữa trời mà phía dưới là cồn dựng sóng dữ đại dương. Chị không thật rõ rằng lúc ấy mình đã làm gì, nói gì, còn sống hay đang chìm trong chiêm bao. Mất cảm giác, chị như một cái xác vô hồn, cứ thế, trong trạng thái mộng du, theo Sáu Quyên lảo đảo trở lại Lân Cồ. Sáu Quyên kéo đi đâu, bước tới đó...

Mấy ngày kế theo, khi còn lại một mình và đã tỉnh táo trở lại, ngước nhìn lên chiếc bàn có hoa có quả, có khói hương mà Sáu Quyên vội vã lập nên để thờ, chị mới thật sự thấy xốc, thấy hẫng hụt vô