← Quay lại trang sách

Chương 3

Thảm họa ở Aracataca vừa lắng xuống. Ông ngoại đã chết và đương nhiên, những quyền lực không rõ ràng của ông cũng chẳng còn nữa, chúng chỉ tồn tại trong nỗi nhớ nhung của những người vốn sống nhờ vào đó như chúng tôi mà thôi. Căn nhà như kẻ mất hồn vì không còn những người khách đến từ các chuyến tàu hỏa. Bà ngoại và bà bác Francisca Simodosea được Elvira Carrillo, con rơi của ông ngoại chăm sóc và che chở tận tình như một người hầu. Khi bà ngoại bị mù và mất trí nhớ, bố mẹ tôi liền đưa bà đến ở cùng để ít nhất người cũng có cuộc sống tốt đẹp hơn, chuẩn bị cho cái chết. Bà bác Francisca, vẫn nguyên trinh tiết và đức hy sinh, tiếp tục nói những lời khiếm nhã khác thường và những câu tục ngữ thô bạo, không chịu trao lại chìa khóa nghĩa trang và xưởng làm bánh thánh để hiến mình cho Đức Chúa. Một ngày nọ, bà ngồi ở cửa phòng tự khâu tấm vải liệm cho mình bằng mấy chiếc ga trải giường sạch sẽ. Bà chăm chú khâu vá đến mức thần chết phải chờ đợi thêm hai tuần nữa cho đến khi bà làm xong. Tối hôm ấy bà đi nằm mà không chào từ biệt ai cả và cũng không hề có bệnh tật hoặc đau đớn gì. Bà chết khi cơ thể vẫn hoàn toàn khỏe mạnh. Sau đó mọi người mới để ý là đêm trước bà đã viết ra giấy các thủ tục tang lễ cho mình. Elvira Carrillo, người con rơi của ông ngoại, một phụ nữ luống tuổi chưa hề biết đến mùi đàn ông, sống thui thủi một mình trong nỗi cô đơn mênh mông của căn nhà. Nửa đêm, dì lại chợt bừng tỉnh vì những tiếng ho vĩnh cửu từ các phòng bên vọng lại. Không bao giờ dì để ý đến chúng vì đã quen với nỗi khắc khoải của cuộc sống siêu nhiên rồi.

Ngược lại, người anh song sinh của dì, Esteban Carrillo vẫn giữ được sáng suốt và năng động cho đến tận tuổi già. Có lần, khi cùng ăn điểm tâm, tôi kể chi tiết cho cậu Esteban nghe vụ một số kẻ nhấc bổng ông ngoại lên định quẳng xuống đầm lầy. Lúc đó ông ngoại đã chết rồi nên tôi mới nhắc lại vụ này như một câu chuyện vui. Cậu đứng bật dậy, tỏ ý tức giận vì không có ai nói với mình lúc chuyện đó xảy ra và muốn biết người đã nói chuyện với ông ngoại lúc đó để hỏi xem những kẻ nào định dìm chết ông. Cậu cũng không hiểu tại sao ông ngoại, một tay thiện xạ đã từng nhiều phen vào sinh ra tử trong hai cuộc nội chiến, một người lúc nào cũng ngủ với khẩu súng ngắn dưới gối, và ngay trong thời bình cũng đã bắn chết kẻ đối địch trong cuộc đấu súng, lại không biết tự vệ.

Cậu Esteban nói với tôi là lúc đó vẫn chưa muộn để cậu và những người anh em khác dạy cho những kẻ láo xược đó một bài học. Đó là luật của người nông dân: nếu xảy ra việc xâm hại đến một thành viên của gia đình thì tất cả những người đàn ông của gia đình kẻ gây chuyện phải đền tội. Cậu Esteban quyết chí đến mức rút ngay khẩu súng đeo bên hông để lên bàn và tiếp tục tra vấn tôi. Từ đó, mỗi lần gặp tôi ở đâu đó, cậu lại buộc tôi nhớ lại chi tiết chuyện kia. Có đêm vào thời kỳ mà tôi đang bới tung quá khứ của gia đình để đưa vào cuốn tiểu thuyết đầu tiên, thì cậu mò đến phòng ngủ của tôi ở tòa báo, đề nghị tôi cùng tham gia cuộc điều tra vụ mưu sát ông ngoại. Không bao giờ cậu chịu đầu hàng. Lần cuối cùng tôi gặp cậu ở Cartagena de Indias, lúc này cậu đã già lắm rồi. Cậu chia tay tôi bằng nụ cười buồn bã:

- Cậu không thể hiểu nổi tại sao với trí nhớ kém cỏi như vậy mà cháu vẫn trở thành nhà văn được.

Khi không còn gì để làm ở Aracataca, bố lại đưa cả nhà đến sống ở Barranquilla và mở một hiệu thuốc mà không có một đồng vốn liếng nào ngoài số tiền những bạn hàng trước đây cho vay. Đây không phải là hiệu thuốc thứ năm như mọi người trong gia đình vẫn nói, mà thực ra chỉ là một hiệu thuốc duy nhất được di chuyển từ thành phố này sang thành phố khác theo nhịp độ kinh doanh của bố: hai lần ở Barranquilla, hai lần ở Aracataca và một lần ở Sincé. Ở chỗ nào cũng chẳng thấy lời lãi đâu mà nợ nần cũng vừa phải. Không có ông bà, các cậu các dì và những người làm công, gia đình bây giờ chỉ còn lại bố mẹ và bầy con - chín năm sau ngày cưới - sáu đứa, ba trai và ba gái.

Tôi đâm lo lắng cho sự thay đổi cuộc sống lần này. Trước đây khi còn nhỏ, tôi đã đến Barranquilla nhiều lần để thăm bố mẹ, nhưng kỷ niệm của tôi về thành phố này rất vụn vặt. Chuyến đi đầu tiên lúc tôi mới lên ba tuổi là nhân dịp mẹ sinh em gái Margot. Tôi còn nhớ mùi bùn hôi thối ở bến cảng lúc trời mới sáng, chiếc xe một ngựa kéo mà người đánh xe phải dùng roi da để xua đuổi những người khách định bám theo dọc con phố vắng lặng và bụi bặm. Tôi nhớ những bức tường màu vàng son và những cửa gỗ màu xanh của nhà hộ sinh ngập mùi thuốc nơi đứa em gái ra đời. Đứa bé mới sinh nằm trên chiếc giường sắt rất đơn giản ở góc phòng vắng vẻ chỉ có một người phụ nữ chắc là mẹ tôi, người mà tôi không thể nhớ mặt đã chìa bàn tay xanh tái ra phía tôi và thở dài nói:

- Con không nhận ra mẹ rồi.

Không có gì khác. Mãi mấy năm sau tôi mới có được hình ảnh cụ thể đầu tiên của bà: trong sạch và mạnh khỏe, nhưng tôi vẫn không thể xác định chính xác được vào thời gian nào. Có thể trong một cuộc viếng thăm ở Aracataca sau khi em gái thứ hai của tôi, Aida Rosa, ra đời. Tôi đang ở ngoài vườn chơi với con cừu mới sinh do Santos Villero ôm từ Fonseca đến cho thì bà bác Francisca vừa chạy vừa hét toáng lên làm cho tôi giật bắn mình:

- Mẹ cháu về rồi kìa.

Bà lôi tôi đến tận phòng khách nơi đã có mặt tất cả những người phụ nữ trong gia đình và một vài bà hàng xóm ngồi trên ghế xếp thành hàng dựa vào tường như trong buổi lễ tang. Cuộc nói chuyện bị ngưng lại khi tôi đột ngột vào trong phòng. Tôi thì đứng như trời trồng ở ngay cửa vì không biết ai trong số những người phụ nữ có mặt là mẹ mình cho đến khi chính bà giang rộng cánh tay cất tiếng nói dịu dàng nhất mà tôi còn nhớ:

- Con trai tôi đã thành người lớn rồi đấy nhỉ!

Bà có chiếc mũi cao, thẳng rất đẹp, dáng cao cao với làn da tái xanh và trông rất quý phái với bộ trang phục đúng mốt của năm đó: bộ đồ bằng lụa trắng ngà thắt eo ở ngang lưng, cổ đeo mấy vòng ngọc trai, đi giày da cao gót và đội mũ rộng vành mỏng tang như các minh tinh màn bạc trong phim câm. Trong vòng tay của mẹ, tôi ngập trong cái mùi đặc trưng thường trực ở bà. Nỗi ân hận vì lỗi lầm bỗng làm xôn xao thể xác và tâm hồn tôi vì tự biết mình đã không làm tròn nghĩa vụ yêu thương mẹ.

Ngược lại, ký ức sớm nhất mà tôi nhớ được về bố mình thì rất cụ thể và rõ ràng, đó là ngày 1 tháng Mười Hai năm 1934 vào ngày sinh nhật lần thứ ba mươi ba của ông. Tôi thấy ông đi rất vội và vui vẻ vào nhà của ông bà ngoại ở Cataca, vận đồ vải lanh trắng và đội mũ vành thẳng. Có ai đó sau khi ôm hôn và chúc mừng đã hỏi bố được bao nhiêu tuổi. Câu trả lời của ông thì không bao giờ tôi quên được mặc dù lúc đó tôi không hiểu rõ:

- Bằng tuổi Đức Chúa Giêsu.

Tôi vẫn thường tự hỏi tại sao kỷ niệm đó mình lại coi là sớm nhất dù cho đến lúc đó tôi đã ở với bố nhiều lần.

Cho đến lúc đó chúng tôi không sống chung dưới một mái nhà, nhưng sau khi em gái Margot ra đời, ông bà ngoại bắt đầu có thói quen đưa tôi đi Barranquilla, tức là khi em Aida Rosa ra đời thì tôi không còn là người xa lạ nữa. Tôi tin đó là mái nhà hạnh phúc. Ở đấy có một hiệu thuốc và sau đó bố mẹ còn mở thêm hiệu khác ở trung tâm thương mại. Chúng tôi còn gặp lại bà nội Argemira - thường gọi Mama Gime - và hai người con của bà là chú Julio và cô Ena. Cô Ena rất xinh đẹp nhưng trong gia đình cô là người bạc phận. Cô chết lúc mới hai mươi lăm tuổi mà không ai biết chính xác vì sao; mãi gần đây người ta còn nói là vì bùa ngải của kẻ yêu cô mà không được cô yêu lại. Càng lớn, chúng tôi càng thấy bà nội càng dễ thương và với cái tật lắm điều.

Vào chính thời kỳ này, bố mẹ gây cho tôi một cú sốc tình cảm đã để lại vết sẹo khó có thể lành được. Ngày hôm đó, mẹ nổi hứng ngồi vào chơi piano bản “Khi điệu nhảy kết thúc” - điệu valse lịch sử trong cuộc tình bí mật giữa hai người - còn bố thì dám cả gan thả hồn lãng mạn, phủi bụi chiếc đàn violon đứt một dây để hòa tấu với mẹ. Mẹ dễ dàng hòa vào phong cách nhạc của những buổi rạng sáng lãng mạn, và chơi hay hơn bao giờ hết, rồi âu yếm nhìn lại qua bờ vai thấy mắt bố đẫm lệ. “Anh đang nhớ đến ai thế?”, mẹ hỏi bố với vẻ ngây thơ tàn nhẫn. “Anh đang nhớ lần đầu tiên chúng mình cùng chơi đàn với nhau”, bố trả lời trong khi đang say bản valse. Mẹ giận dữ đập mạnh cả hai tay lên bản phím đàn:

- Không phải anh nhớ đến em, đồ dối trá - mẹ hét thật to. - Anh quá biết là mình đang chơi đàn vì ai và khóc vì con nào.

Hôm đó và mãi mãi sau này, mẹ không nói tên cô gái, nhưng tiếng thét của mẹ đã làm chúng tôi chết lặng vì sợ hãi. Như mọi khi, mỗi lần lo sợ Enrique và tôi lại tìm cách lẩn trốn, lần này chúng tôi chui xuống gầm giường. Aida thì trốn sang nhà hàng xóm và Margot bị lên cơn sốt đột xuất mê man bất tỉnh trong ba ngày. Mặc dù những đứa con vốn quen với những cơn ghen bùng phát của mẹ - đôi mắt mẹ đẫm lệ, chóp mũi thẳng nhọn như biến thành một mũi dao. Chúng tôi đã từng thấy mẹ gỡ từng bức tranh, ảnh treo trên tường, quăng mạnh xuống sàn giữa tiếng kính vỡ loảng xoảng. Chúng tôi cũng đã từng thấy mẹ ngửi từng chiếc áo, quần của bố trước khi vứt vào sọt để đi giặt. Không có gì xảy ra sau cái đêm song tấu bi thảm đó, nhưng người thợ sửa đàn đã đến mang chiếc piano đi bán và chiếc violon - cùng với khẩu súng ngắn - thì mục rữa trong kho đồ cũ.

Thành phố Barranquilla lúc đó đi đầu trong sự tiến bộ dân sự, chủ nghĩa tự do hiền lành và song song tồn tại các xu hướng chính trị. Những yếu tố quyết định cho sự phát triển và phồn thịnh của thành phố chính là việc chấm dứt một thế kỷ nội chiến kể từ khi đất nước giành được độc lập từ Tây Ban Nha, rồi sau đó là sự sụp đổ của khu vực trồng chuối do hậu quả của trận đàn áp tàn bạo những người công nhân sau trận tổng đình công.

Cho đến lúc đó, không có gì ngăn cản được tinh thần sẵn sàng đi tiên phong của những cư dân trong thành phố. Năm 1919, Mario Santodomingo, nhà công nghiệp trẻ - cha của Julio Mario - đã vinh dự là người khai trương dịch vụ bưu chính hàng không quốc gia bằng cách ném một túi vải bạt đựng năm mươi bảy bức thư từ chiếc máy bay - thường do người Mỹ William Knox Martin lái - xuống bãi biển Puerto Colombia, cách thành phố Barranquilla năm dặm. Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, một toán phi công Đức - trong đó có Helmuth von Krohn - lập các đường hàng không với loại máy bay Junkers F-13, xe lội nước chạy trên sông Magdalena như những con châu chấu khổng lồ may mắn chở sáu người hành khách quả cảm cùng với những túi đầy thư tín. Đó chính là tiền thân của Công ty Vận tải hàng không Colombia - Đức - SCADTA, một trong những hãng hàng không sớm nhất trên thế giới.

Việc chuyển về sinh sống ở Barranquilla đối với tôi không chỉ là thay đổi từ thành phố này sang thành phố khác và thay đổi nhà ở mà là sự thay đổi người cha đỡ đầu vào lúc mới mười một tuổi. Người cha mới này là một người đàn ông cao lớn, nhưng trên phương diện quyền lực người cha thì khác hẳn với người đã làm cho tôi và Margot hạnh phúc trong thời gian ở nhà ông bà ngoại. Trước đây chúng tôi vốn quen tự mình làm chủ bản thân nên lần này rất khó hòa hợp thích ứng với một chế độ làm chủ của người khác. Về khía cạnh học hành, thì bố là người rất đáng khâm phục vì bố là một người tự học hoàn toàn, một người ham đọc hơn bất cứ ai mà tôi đã quen biết, nhưng cũng là người bạ cái gì cũng đọc, từ khi từ bỏ trường y để tập trung tự học cách điều trị bằng tiểu vi lượng đồng căn (homeopatía) mà thời ấy chưa được dạy trong trường và lấy được giấy phép hành nghề. Ấy thế mà, bố không có được ý chí để vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống như mẹ. Vào những giờ phút khó khăn nhất thì ông lại nằm trên võng đọc bất cứ cuốn sách nào có trong tay hoặc chơi ô chữ. Thái độ này của ông đối với thực tế là căn bệnh vô phương cứu chữa. Ông rất nể phục những người giàu có, nhưng không phải là những kẻ phất lên một cách mờ ám mà là những người kiếm tiền nhờ tài năng và có lòng tự trọng.

Nằm trên võng thao thức giữa ban ngày, ông xếp vô vàn tài sản khổng lồ trong tưởng tượng với những công ty thật dễ dàng mà không hiểu tại sao trước đó mình chưa hề nghĩ ra. Bố thường thích dẫn chứng trường hợp giàu có lạ lùng đã được nghe kể ở Darien: hai trăm dặm đầy lợn cái đang đẻ. Tuy nhiên, những trung tâm buôn bán sầm uất lạ lùng như vậy không hề có ở những nơi chúng tôi đã từng sống, mà chỉ có trong những thiên đường thất lạc đâu đó qua câu chuyện nghe được của các điện tín viên. Tính phi hiện thực định mệnh của ông làm cho chúng tôi sống lơ lửng giữa những thất bại và sự khởi đầu mới. Suốt một thời gian dài, chẳng ngày nào chúng tôi nhận được một mẩu bánh mì nào tự nhiên từ trên trời rơi xuống. Dù sao thì bố mẹ vẫn dạy chúng tôi biết phục tùng và tự trọng như một người có đạo theo lối cổ cả khi hưởng phước lành cũng như khi chịu đựng nỗi khổ.

Thử thách duy nhất mà tôi còn thiếu là một mình đi xa với bố và dịp đó đã đến khi bố đưa tôi đi Barranquilla để giúp ông mở cửa hàng thuốc và chuẩn bị điều kiện cho cuộc đổ bộ của cả gia đình. Tôi rất ngạc nhiên thấy khi chỉ có hai bố con, ông cư xử với tôi như với một người lớn, vừa thương yêu vừa tôn trọng, đến mức giao cho tôi những việc không dễ làm đối với một đứa trẻ ở tuổi của tôi. Tôi vui vẻ làm những việc này thật tốt mặc dù không phải được bố hoàn toàn nhất trí. Bố thường có thói quen kể cho chúng tôi nghe chuyện ngày bé khi còn sống ở quê hương, nhưng ông cứ lặp đi lặp lại năm này qua năm khác cho những đứa mới đẻ nên các câu chuyện trở nên nhạt nhẽo đối với những đứa lớn đã biết hết cả rồi. Có những lúc, mấy đứa lớn chúng tôi đứng phắt dậy khi bố bắt đầu kể chuyện ngay sau bữa ăn. Một lần, em Luis Enrique đã xúc phạm bố bằng câu nói trước khi đi khỏi bàn ăn:

- Nhờ các vị báo cho tôi biết khi nào ông chết lại lần nữa nhé.

Phản ứng bộc phát này khiến bố nổi giận và cùng với những lý do khác, ông đưa Luis Enrique vào trại giáo dưỡng ở Medellín. Nhưng với tôi ở Barranquilla ông là người bố khác hẳn. Bố sưu tập được một kho giai thoại dân gian và kể cho tôi nghe những chuyện lý thú về cuộc sống khó khăn với bà nội, về tính keo kiệt huyền thoại của ông nội và những khó khăn trong việc học hành của mình. Những kỷ niệm đó giúp tôi chịu đựng tốt hơn những thói thất thường của bố và hiểu được lý do tại sao nhiều khi bố không thông cảm với mình.

Thời kỳ này chúng tôi đã nói về những cuốn sách đã đọc và sẽ đọc và ở ngay chỗ hủi nhất ngoài chợ, chúng tôi cũng thu hoạch được một đống truyện về Tarzan, truyện trinh thám, truyện về chiến tranh vũ trụ. Suýt nữa thì tôi cũng trở thành nạn nhân của tính thực dụng của bố, nhất là khi ông quyết định mỗi ngày chúng tôi chỉ nấu cơm một lần. Va chạm đầu tiên giữa chúng tôi xảy ra khi bố bắt gặp tôi đang nhồi nhét nước giải khát và bánh ngọt vào cái bụng đã rỗng vào buổi chiều tối, bảy giờ sau bữa ăn trưa. Tôi đã không thể giải thích cho ông biết đã lấy tiền ở đâu để mua các thứ đó. Tôi không dám để lộ việc mẹ đã lén cho một vài đồng để mua thực phẩm đối phó với chế độ hà khắc kiểu thầy tu mà bố áp dụng khi đi đường. Kiểu thông đồng bí mật này mẹ còn dùng cho đến khi nào còn rủng rỉnh tiền trong túi. Lúc tôi vào học trường trung học, mẹ cũng nhét vào va ly đồ dùng tắm giặt, gương lược và một tài sản mười peso đựng trong hộp xà phòng Reuter với ảo tưởng là tôi chỉ mở ra dùng khi có nhu cầu bức thiết. Đúng như vậy, khi học xa gia đình, lúc túng bấn mà có được mười đồng thì thật không gì bằng.

Bố tìm mọi cách không để tôi ở lại một mình vào ban đêm trong hiệu thuốc ở Barranquilla, nhưng các giải pháp của ông không phải lúc nào cũng dễ chịu đối với một đứa trẻ mười hai tuổi như tôi. Ban đêm khi cùng ông đi thăm lại gia đình các bạn gái, tôi cảm thấy rất khổ sở, bởi vì các bà bạn ấy cũng có con bằng tuổi tôi và thường bắt chúng đi ngủ từ lúc tám giờ còn lại mình tôi phải chịu trận trong câu chuyện tào lao của người lớn, trong khi đôi mắt cứ díu lại vì buồn ngủ.

Một buổi tối khi cùng bố đi thăm gia đình một người bạn làm nghề thuốc, có lẽ tôi đã ngủ quên và tôi không biết bằng cách nào và vào lúc mấy giờ tôi bỗng bừng tỉnh đi lang thang ngoài một đường phố xa lạ.

Tôi hoàn toàn không có ý niệm gì về nơi mình đang đứng, và làm sao đến được đây, tôi cho đó là bệnh mộng du. Trong gia đình chưa từng ai bị mắc bệnh này và cho đến nay cũng chưa ai bị cả, nhưng đó là cách giải thích duy nhất cho hiện tượng xảy ra trong buổi tối nọ. Khi tôi bừng tỉnh, điều đầu tiên làm tôi ngạc nhiên là tấm kính của tiệm uốn tóc có treo tấm gương lớn và có ba hoặc bốn khách hàng ngồi dưới chiếc đồng hồ chỉ tám giờ mười phút, thời khắc mà không một đứa trẻ nào ở độ tuổi tôi được có mặt một mình ngoài phố. Lo lắng và hoảng sợ, tôi đã nhớ nhầm tên chủ gia đình mà bố con tôi đến thăm và cũng nhớ sai địa chỉ của nhà họ, nhưng một số người đi đường cũng đoán ra và đưa tôi quay lại đúng chỗ cũ. Tôi gặp lại những người hàng xóm đang đứng đoán già đoán non về sự mất tích của tôi. Họ chỉ biết là trong lúc mọi người đang mải nói chuyện thì tôi đứng dậy và họ nghĩ là tôi đi vệ sinh. Lời giải thích về bệnh mộng du đã không thuyết phục được ai, nhất là bố, ông coi đó là trò nghịch ngợm trẻ con mà thôi.

Cũng may là mấy ngày sau tôi đã trở lại bình thường khi bố để tôi một mình ở nhà người bạn để đi tham dự một bữa ăn tối bàn chuyện buôn bán. Cả gia đình này đang say sưa tham gia cuộc thi giải đáp câu đố do đài phát thanh Atlántico tổ chức. Câu đố lần này rất hóc búa: “Con vật nào khi lộn ngược lại sẽ đổi tên?” May mắn làm sao mới chiều hôm đó tôi vừa đọc lời giải câu đố này trong bản in lần cuối của cuốn Lịch Bristol và tôi coi là một trò khôi hài tầm thường: con vật duy nhất thay đổi tên là escarabajo (con bọ hung) vì khi lộn ngược lại nó sẽ thành escararriba (chơi chữ trong nguyên bản: escarabajo là ghép hai từ cái vẩy và phía dưới còn escararriba ghép hai từ cái vẩy và phía trên - ND). Tôi liền nói nhỏ với một trong những cô bé của gia đình này và cô chị cả liền vội vàng nhấc máy điện thoại nói câu trả lời cho đài phát thanh Atlántico. Cô ta được giải nhất, được một trăm peso đủ trả tiền thuê nhà trong ba tháng. Phòng khách tràn ngập người hàng xóm vừa nghe công bố kết quả trên đài đã vội sang chúc mừng những người thắng cuộc. Ngoài chuyện tiền bạc, gia đình này đặc biệt thích thú chiến thắng trong một giải nổi tiếng ở đài phát thanh trên vùng bờ biển Caribe. Không ai để ý sự có mặt của tôi. Khi quay lại đón tôi, bố cũng hòa chung vào bầu không khí vui vẻ của gia đình và uống rượu mừng nhưng không ai nói cho ông biết chiến thắng thực sự trong cuộc thi này.

Một chiến tích khác của thời kỳ đó là giành được sự cho phép của bố để sáng Chủ nhật được một mình đi xem phim ở rạp Colombia. Lần đầu tiên họ chiếu các phim nhiều tập, mỗi Chủ nhật chiếu một tập với một câu chuyện làm cho người xem hồi hộp suốt cả tuần lễ. Cuộc xâm lược của Mongo là cuốn phim về cuộc chiến giữa các hành tinh đầu tiên đã làm trái tim tôi mê mẩn suốt mấy năm ròng, chỉ đến khi được xem cuốn phim Cuộc phiêu lưu trên vũ trụ của Stanley Kubrick thay thế mới thôi. Tuy vậy, cuối cùng chính các phim của Arhentina, đặc biệt là về Carlos Gardel và Libertad Lamarque (hai danh ca nam và nữ nổi tiếng chuyên hát tango - ND), đã đánh bạt tất cả các phim trên.

Trong không đầy hai tháng, bố con tôi đã lắp đặt xong hiệu thuốc và bố trí xong chỗ ở cho gia đình. Hiệu thuốc thì ở ngay góc đường, đông người qua lại giữa trung tâm thương mại và cách đại lộ Bolivar chỉ có bốn dãy phố. Nhà thì ở tít tận đường phố xa xôi nhưng vui vẻ của khu Barrio Abajo. Giá thuê nhà không xứng với tình trạng thực tế mà do người chủ áp đặt: một căn nhà kiểu gô tích sơn bột màu vàng và đỏ có hai tháp cầu kinh.

Đúng hôm người ta bàn giao trụ sở cho hiệu thuốc, hai bố con mắc võng ở sân sau để ngủ trong cái nóng hầm hập khiến người ướt đẫm mồ hôi. Khi nhận nhà ở, chúng tôi phát hiện không có móc để mắc võng đành trải đệm xuống sàn và chỉ ngủ ngon lành sau khi kiếm được con mèo đuổi lũ chuột. Lúc mẹ dẫn một lũ em lít nhít đến thì đồ đạc trong nhà vẫn còn chưa đầy đủ, thiếu hẳn đồ nấu bếp và nhiều thứ khác cần cho sinh hoạt.

Mặc dù có mang ý đồ nghệ thuật, nhưng căn nhà cũng rất bình thường và vừa đủ rộng cho gia đình chúng tôi, gồm phòng khách, phòng ăn, hai buồng ngủ và một sân nhỏ lát đá. Thực ra nó không đáng một phần ba giá thuê nhà mà chúng tôi phải trả. Vừa nhìn thấy căn nhà, mẹ đã hoảng sợ, nhưng bố cố trấn an bằng cách nói về một tương lai lấp lánh ánh vàng. Đó là chuyện xảy ra thường xuyên. Khó mà nghĩ rằng hai con người khác hẳn nhau lại có thể hiểu và yêu thương nhau đến như vậy.

Dáng vẻ của mẹ lúc đó làm tôi rất xúc động. Mẹ đang mang thai lần thứ bảy và hình như mí mắt và mắt cá chân của mẹ cũng phồng to như eo lưng vậy. Mẹ đã ba mươi ba tuổi và đây là căn thứ năm mà mẹ phải lo mua sắm đồ đạc. Tôi rất lo lắng cho thể trạng tinh thần của mẹ, mà ngay buổi tối đầu tiên đã có dấu hiệu khá trầm trọng, do nỗi sợ hãi vì câu chuyện tự mẹ nghĩ ra một cách vô cớ về một người đàn bà X. nào đó, đã từng sống ở căn nhà này trước khi bị giết bằng dao. Tội ác đó đã xảy ra từ bảy năm trước lúc bố mẹ còn ở Barranquilla và nó rùng rợn đến mức mẹ đề nghị đừng bao giờ quay về sống ở thành phố này nữa. Có lẽ khi quyết định về đây mẹ đã quên mất chuyện đó, nhưng ngay buổi tối đầu tiên trong căn nhà tối tăm này, mẹ bỗng cảm thấy bầu không khí giông giống như trong lâu đài của bá tước Dracula (ma cà rồng hút máu người - ND).

Tin tức đầu tiên về người đàn bà X. là việc người ta phát hiện ra một thi thể trần truồng và thối rữa không thể nhận dạng được. Người ta chỉ có thể xác định đó là một người phụ nữ dưới ba mươi tuổi, tóc đen và có nhiều nét hấp dẫn. Người ta tin là bà bị chôn sống, bởi lẽ bàn tay trái nạn nhân đang che mắt vì sợ hãi và cánh tay phải thì giơ cao trên đầu. Dấu hiệu duy nhất để có thể xác định được danh tính là hai dải băng buộc đầu màu xanh lam và một chiếc lược hình cung giữ mái tóc đuôi sam. Trong số nhiều giả thiết có lẽ đáng tin nhất là ý kiến cho rằng người đó là cô gái nhảy người Pháp sống buông thả và bị mất tích đúng với thời gian xảy ra tội ác này.

Barranquilla vốn nổi tiếng là thành phố mến khách và thanh bình nhất nước nhưng năm nào cũng xảy ra một vụ giết người thảm khốc. Tuy vậy, chưa có tội ác nào gây xúc động và làm dư luận xôn xao một thời gian dài như vụ giết người bằng dao dã man này. Nhật báo La Prensa, một trong những tờ báo quan trọng nhất nước vào thời gian đó, vốn đi tiên phong trong việc in các truyện tranh ở phụ trương chủ nhật - như Buck Rogers, Tarzán - nhưng ngay từ đầu cũng là một trong những tờ báo lớn có đăng các bài phóng sự đó. Trong suốt mấy tháng liền, tờ báo này đã làm cho cả thành phố phải hồi hộp theo dõi qua các tít lớn và những phát hiện mới kinh hoàng, có đúng, có sai về vụ án nổi tiếng toàn quốc này.

Các nhà chức trách tìm cách hạn chế việc đưa thông tin với lý do sợ cản trở quá trình điều tra, nhưng độc giả đâm ra tin tưởng hơn vào các phát hiện của La Prensa so với thông tin của cơ quan nhà nước. Cuộc chiến thông tin này làm cho tâm hồn độc giả căng thẳng suốt mấy ngày và tối thiểu cũng buộc các điều tra viên phải đổi phương hướng. Hình ảnh người đàn bà X. hằn sâu vào tâm trí của mọi người đến mức nhiều nhà phải mua xích sắt về buộc cửa ra vào và thường xuyên tăng cường canh gác ban đêm đề phòng tên sát nhân còn đang tự do ngoài xã hội, tiếp tục chương trình thực hiện các tội ác rùng rợn. Thành phố phải cấm các thiếu nữ không được rời khỏi nhà một mình từ sáu giờ chiều.

Tuy nhiên, sự thật của vụ án không được bất cứ ai tìm ra. Sau đó một thời gian, chính tên sát nhân, Efráin Duncan, tự thú là đã giết vợ mình - Angela Hoyos - trùng hợp với thời điểm do ngành pháp y xác định, và đã chôn xác đúng nơi người ta phát hiện ra thi thể bị dao đâm nát. Người nhà của nạn nhân xác nhận những chiếc băng và cái lược vòng là của Angela dùng khi đi cùng chồng, vào ngày 5 tháng Tư, nạn nhân nói là đến thị trấn Calamar. Vụ án đã được khép lại một cách tình cờ và chẳng có gì hồi hộp như kết thúc của một cuốn tiểu thuyết hình sự: Angela Hoyos có cô em gái song sinh giống hệt đang sống nên lại càng dễ xác minh danh tính của thi thể.

Huyền thoại về người đàn bà X đổ sụp và biến thành một vụ phạm tội tuy có gây xúc động nhưng cũng chỉ tầm thường như các vụ khác, tuy nhiên bí ẩn của người em song sinh giống như đúc thì vẫn còn bay lơ lửng trong mọi nhà vì người ta vẫn đồn đại rằng chính người đàn bà X được phép mầu làm sống lại. Các cửa ra vào nhà không những được đóng chặt bằng thanh gỗ mà còn được gia cố thêm những đồ đạc chất đống thành một chiến lũy để ngăn không cho tên sát nhân có phép thuật đã trốn trại mò vào nhà ban đêm. Ở các khu phố của người giàu, nhà nào cũng có mốt nuôi chó săn được huấn luyện kỹ, có thể chống lại những tên sát nhân có phép lạ đi xuyên tường vào nhà. Trên thực tế, mẹ chỉ đỡ sợ sau khi được những người hàng xóm thuyết phục rằng căn nhà ở khu Barrio Abajo không phải được xây vào thời điểm xảy ra vụ người đàn bà X bị giết hại.

Ngày 10 tháng 7 năm 1939 mẹ sinh đứa em gái có nét xinh đẹp của người bản địa và được đặt tên là Rita để bày tỏ lòng thành kính vô hạn của cả nhà đối với Thánh bà Rita de Casia, một người đàn bà có nhiều phẩm chất cao quý mà tiêu biểu là lòng nhẫn nại chịu đựng và vượt qua được tính xấu của người chồng hung bạo. Mẹ kể cho chúng tôi nghe rằng buổi tối nọ, người chồng say túy lúy về nhà ngay sau khi con gà mái phóng một bãi cứt trên bàn ăn. Không còn thì giờ để lau, người vợ chỉ kịp dùng đĩa đậy lại để chồng khỏi nhìn thấy và vội tìm cách lảng tránh chú ý của ông ta bằng câu hỏi thường ngày:

- Ông muốn ăn gì nào?

Người chồng gầm gừ:

- Cứt.

Người vợ nâng chiếc đĩa lên và dịu dàng nói:

- Thì ông có đây này.

Lịch sử khẳng định rằng chính người chồng tin rằng vợ mình có phép thánh và thế là ông ta trở thành người sùng đạo.

Hiệu thuốc mới của cha con tôi ở thành phố Barranquilla thất bại thảm hại, cũng còn may là bố sớm linh cảm thấy điều này. Sau mấy tháng cố sức chống chọi, cái sẩy nẩy cái ung, tình trạng thua lỗ càng rõ hơn. Lúc ấy, bố sửa soạn túi xách chuẩn bị đi tìm vận may đâu đó trong một thị trấn ít mong chờ nhất bên dòng sông Magdalena. Trước khi ra đi, bố dắt tôi đến giới thiệu khá trịnh trọng với các bạn và đối tác làm ăn coi như người thay thế ông lúc đi vắng. Không bao giờ tôi biết được ông nói điều này với hàm ý đùa giỡn như vẫn thường làm trong các trường hợp nghiêm trọng hay là nói nghiêm túc như ông bao giờ cũng làm khi có những chuyện tào lao. Tôi nghĩ rằng bạn bè ông mỗi người hiểu mỗi cách, vì ở tuổi mười hai tôi chỉ là một đứa bé gầy còm, xanh mét, có giỏi thì chỉ giỏi vẽ vời và hát múa. Người phụ nữ vẫn bán sữa cho chúng tôi - trước mặt đông đủ cả nhà kể cả tôi - đã nói với mẹ hết sức thật lòng:

- Xin bà thứ lỗi cho điều tôi sắp nói, nhưng tôi tin là đứa trẻ này khó nuôi lắm đấy.

Suốt thời gian dài tôi lo lắng chờ đợi cái chết bất ngờ, tôi luôn nằm mơ thấy cảnh nhìn vào gương không thấy mặt mình mà lại thấy mặt con bê. Người thầy thuốc ở trường trung học chẩn đoán tôi bị sốt rét, viêm amiđan, và bị bệnh mật đen vì đọc quá nhiều sách cấm. Tôi không làm giảm bớt sự lo lắng của mọi người. Ngược lại, tôi còn cường điệu thêm cảnh bệnh tật của mình để trốn việc. Tuy nhiên bố phớt lờ chuyện đó, trước khi ra đi, ông tuyên bố tôi phải chịu toàn bộ trách nhiệm việc nhà trong thời gian ông vắng mặt:

- Con phải làm giống như bố vậy.

Hôm lên đường, bố họp tất cả chúng tôi ở phòng khách để dặn dò và răn đe trước những trò nghịch ngợm của chúng tôi khi ông đi vắng, nhưng chúng tôi biết đó chỉ là mánh khóe của bố để khỏi bật khóc mà thôi. Bố cho mỗi đứa chúng tôi một đồng năm xu, lúc đó là cả một gia tài đối với bọn trẻ. Bố hứa khi trở về sẽ đổi đồng mười xu cho đứa nào còn nguyên đồng năm xu. Cuối cùng, cất giọng rao giảng bố nói với tôi:

- Bố trao vào tay con mọi chuyện trong nhà và con phải nắm lấy.

Tôi đau xé lòng khi nhìn bố rời khỏi nhà và tôi là người đầu tiên không cầm được nước mắt khi lần cuối cùng bố quay lại nhìn và vẫy tay chào chúng tôi trước khi rẽ quặt vào góc phố. Chỉ đến lúc ấy tôi mới nhận ra mình thương yêu bố đến mức nào, và cảm xúc ấy kéo dài mãi mãi.

Làm theo lời dặn của bố không có gì khó cả. Mẹ bắt đầu quen với nỗi cô đơn bất thường và vô lối này, rất khó chịu nhưng dễ thích nghi. Tất cả các con, kể cả những đứa nhỏ nhất đều phải giúp mẹ làm việc nhà và đều làm rất tốt. Vào thời kỳ này, lần đầu tiên tôi có cảm giác mình là người lớn vì thấy các em coi mình như người cậu ruột của chúng.

Tôi không làm sao chế ngự được tính nhút nhát. Khi phải trực tiếp đối mặt với trách nhiệm mà bố để lại tôi mới hiểu rằng tính nhút nhát là một bóng ma không dễ gì thắng được. Mỗi lần phải đi vay nợ, dù là nơi đã được bố thỏa thuận từ trước, tôi vẫn phải đi lòng vòng hàng tiếng đồng hồ xung quanh nhà, cố nín khóc và trấn áp cảm giác nôn nao trong lòng, cho đến khi liều lĩnh muốn nói mà hai quai hàm vẫn gắn chặt cứng, khiến tiếng nói không thoát ra được. Cũng có người xấu bụng xỉa xói tôi: “Thằng nhóc khốn kiếp này, không có ai nói mà ngậm cứng miệng đâu”. Hơn một lần tôi phải về tay không và phải bịa ra lý do. Nhưng có lẽ không bao giờ tôi xấu hổ bằng lần đầu tiên được nói qua điện thoại ở cửa hàng góc phố. Ông chủ cửa hàng đã giúp tôi liên hệ với người nhân viên tổng đài vì lúc đó chưa có điện thoại tự động. Khi được ông ta trao cho cái loa, tôi như nghe thấy hơi hướng của cái chết. Tôi chờ được nghe tiếng nói nhã nhặn, nhưng cái mà được nghe là tiếng thì thào của ai đó nói trong bóng tối cùng lúc với tôi. Tôi nghĩ là người đối thoại không hiểu mình nên tôi nói giọng vống lên. Người kia tức giận cũng cao giọng theo:

- Này, ông kia, làm cái quái gì mà quát tháo tôi thế hả?

Tôi sợ hãi tắt máy. Tôi phải thừa nhận rằng mặc dù rất say sưa với thông tin liên lạc, nhưng đến tận bây giờ tôi vẫn phải cố nén sự ngại ngùng đối với điện thoại và máy bay, và tôi không biết có phải nỗi sợ này bắt nguồn từ ngày hôm đó hay không. Làm cách nào để làm được việc? May mà mẹ cứ hay nhắc đi nhắc lại câu trả lời: “Phải biết chịu đựng mới phục vụ được”.

Phải hai tuần sau mới có tin đầu tiên về bố, đó là một bức thư mà ông gửi về có lẽ chỉ để cả nhà vui chứ không báo cho chúng tôi một thông tin gì. Mẹ hiểu như vậy nên ngày hôm đó mẹ vừa rửa bát vừa hát để lên dây cót tinh thần cho chúng tôi. Khi không có bố ở nhà, mẹ khác hẳn: mẹ hòa hợp với những đứa con gái chẳng khác gì như một người chị cả. Mẹ hòa đồng thật tốt với chúng, là người giỏi nhất trong các trò chơi trẻ con, kể cả chơi với búp bê, và khi điên lên cũng gân cổ cãi nhau tay đôi với chúng. Hai lá thư sau cũng giống như lá thứ nhất, bố chỉ nói những dự định hết sức sáng sủa để giúp chúng tôi ngủ ngon.

Một vấn đề nghiêm trọng là quần áo của chúng tôi bị chật một cách quá nhanh chóng. Không ai dùng được quần áo cũ của Luis Enrique vì hình như nó luôn bò từ phố về nhà và chúng tôi không thể hiểu được sao quần áo của nó thường xuyên bị rách như thế. Mẹ nói chắc nó đi giữa hàng rào dây thép gai. Những đứa em gái - từ bảy đến chín tuổi - tự thu xếp với nhau một cách khôn khéo. Tôi tin là những thiếu thốn lúc đó đã làm chúng sớm trở thành người lớn. Aida nhanh nhẹn, Margot cũng đã vượt qua được tính nhút nhát, tỏ ra rất thân mật và dịu dàng với em bé mới sinh. Trường hợp tôi là khó nhất, không chỉ vì tôi phải giữ tư thế trang trọng mà còn là vì mẹ được mọi người khuyến khích đã mạo hiểm vét một phần lớn nguồn tiền của gia đình để đăng ký cho tôi vào học trường Cartagena de India, cách nhà mười dãy phố.

Theo giấy báo triệu tập, khoảng hai mươi đứa chúng tôi cùng đến tham dự cuộc thi nhập học vào lúc tám giờ sáng. May mà không phải là thi viết. Có ba thầy lần lượt gọi chúng tôi theo thứ tự đã được sắp xếp từ tuần trước để vào thi vấn đáp ngắn gọn, trên cơ sở học bạ những năm trước của từng người. Tôi là người duy nhất không có học bạ vì không kịp đi lấy ở trường thực nghiệm Montessori và trường tiểu học ở Aracataca. Mẹ nghĩ là không có học bạ cũ thì chắc không được vào trường, nhưng tôi quyết làm chuyện điên khùng. Khi tôi thú nhận là không có học bạ, một trong các thầy giáo lôi tôi ra khỏi hàng, nhưng thầy khác lại cho tôi vận may, đưa tôi về văn phòng của ông để tự kiểm tra không cần có đủ điều kiện theo quy định trước. Ông hỏi tôi mười hai tá có bao nhiêu đơn vị, một ngũ niên và một thiên niên kỷ có bao nhiêu năm, ông bắt tôi nhắc lại tên thị xã của các tỉnh, các sông lớn của đất nước và tên các nước có chung biên giới. Những câu hỏi tôi cảm thấy bình thường cho đến lúc ông hỏi tôi đã đọc những cuốn sách nào rồi. Ông chú ý đến việc tôi kể ra các loại sách, khá nhiều so với tuổi của tôi. Chú ý cả việc tôi đã đọc Ngàn lẻ một đêm, bản in cho người lớn trong đó không bỏ những chuyện rùng rợn đã từng làm cha xứ Angarita rất khó chịu. Tôi ngạc nhiên khi biết ông coi cuốn sách này là quan trọng vì trước đây tôi cứ nghĩ những người lớn nghiêm túc không bao giờ tin thần đèn chui ra khỏi cái chai hoặc là câu thần chú có thể mở được cánh cửa. Những thí sinh trước tôi mỗi người chỉ phải sát hạch trong mười lăm phút là được chấp nhận hoặc bị loại, riêng tôi phải ngồi nói chuyện với thầy hơn nửa tiếng đồng hồ về đủ mọi đề tài. Chúng tôi rà soát lại giá sách chật cứng ở phía sau bàn viết trong đó nổi bật cuốn có bìa in chữ vàng nổi Tài sản của thanh niên mà tôi mới chỉ được nghe nói đến, nhưng thầy giáo khuyên là ở tuổi của tôi đọc cuốn Don Quijote có lợi hơn. Cuốn này không có trong thư viện, nhưng ông hứa sau này sẽ cho tôi mượn. Sau nửa giờ bàn luận về Thủy thủ Simbad và Robinson Crusoe, ông tiễn tôi ra tận cửa nhưng không nói liệu tôi có được vào trường hay không. Tôi nghĩ dĩ nhiên là không được, nhưng ở tiền sảnh, khi chia tay ông bắt chặt tay tôi hẹn gặp lại vào tám giờ sáng ngày thứ Hai để đăng ký học ở lớp trên của trường tiểu học: lớp bốn.

Đó chính là ông hiệu trưởng. Tên ông là Juan Ventura Casalins và tôi luôn luôn nhớ đến ông như một người bạn thời trẻ thơ chứ không phải là hình ảnh một người thầy giáo đáng sợ thời bấy giờ. Phẩm hạnh đáng nhớ nhất của ông là luôn đối xử bình đẳng với chúng tôi như với người lớn, mặc dù tôi thấy hình như ông vẫn giữ mối quan tâm riêng đến tôi. Trong lớp ông thường hỏi tôi nhiều hơn những học trò khác và giúp tôi trả lời đúng và dễ dàng. Ông cho phép tôi mang sách của thư viện trường về nhà đọc. Trong số các cuốn sách đó, Đảo giấu vàng và Bá tước Montecristo là những liều thuốc đem lại hạnh phúc cho tôi trong những năm tháng buồn tẻ đó. Tôi đọc nghiến ngấu như muốn nuốt lấy từng từ với lòng khát khao muốn biết chuyện gì sẽ xảy ra ở dòng tiếp theo đồng thời cũng không muốn biết để khỏi đánh mất tính hấp dẫn của câu chuyện. Những cuốn sách này, cùng với Ngàn lẻ một đêm, tôi đã học để mãi mãi không bao giờ quên điều này, đó là chỉ nên đọc những cuốn sách nào buộc ta phải đọc lại lần nữa.

Ngược lại, việc đọc Don Quijote không làm tôi xúc động như thầy Casalins đã dự báo trước. Tôi chán những lời giáo huấn của chàng hiệp sĩ lang thang và tôi không thể cười được trước những câu pha trò ngớ ngẩn của người giám mã đến mức tôi cứ nghĩ đây không phải là cuốn sách mà người ta từng nhiều lần nói đến. Nhưng tôi lại tự nhủ một người thầy uyên bác như hiệu trưởng thì không thể nhầm lẫn được, nên lại cố nuốt nó như đang uống phải những thìa thuốc xổ giun. Ở trường phổ thông trung học, tôi lại phải cố đọc vì đó là chương trình học bắt buộc và tôi căm ghét nó thậm tệ cho nên một người bạn khuyên để cuốn sách đó lên giá đỡ trong nhà vệ sinh để cố đọc khi làm nghĩa vụ hàng ngày. Và với cách ấy, tôi đã phát hiện và thích thú cuốn sách này từ đầu chí cuối đến mức có thể thuộc lòng một số đoạn trong truyện.

Mái trường hạnh phúc đó cũng để lại trong tôi những kỷ niệm lịch sử về một thành phố của một thời đáng nhớ. Đó là ngôi nhà độc nhất trên đỉnh đồi xanh tươi mà từ sân thượng có thể nhìn thấy hai thái cực của thế giới. Phía bên trái là khu nhà ở Prado sang trọng và đắt giá mà mới nhìn qua tôi đã cảm thấy nó là bản sao trung thành của khu chuồng gà có hàng rào dây điện chạy qua của Công ty chế biến hoa quả. Không phải là ngẫu nhiên, nó cũng được chính công ty xây dựng của Mỹ tạo nên với đúng sở thích về quy tắc và giá cả, và đó cũng là một khu du lịch để khách tứ xứ trong cả nước đến xem. Phía bên phải, là hình ảnh ngược lại, chính là vùng ngoại ô của khu phố Barrio Abajo nơi nhà tôi đang sống, với những đường phố đầy bụi bẩn, nóng hầm hập và những căn nhà tranh mái lá, như nhắc nhở rằng chúng tôi chỉ là những kẻ khốn cùng. Cũng may, từ sân thượng trong trường học, chúng tôi cũng có thể có một cái nhìn tổng thể về tương lai: châu thổ sông Magdalena là một trong những vùng đồng bằng lớn nhất thế giới, xa xa ngoài khơi là vệt xám của cửa sông Ceniza.

Ngày 28 tháng 5 năm 1935, chúng tôi thấy tàu chở dầu Taralite, mang cờ Canada do thuyền trưởng D.F. McDonald chỉ huy, ầm ầm cập cảng thành phố trong tiếng nhạc và pháo hoa đón chào. Đó là cảnh kết thúc một chiến tích dân sự trong bao nhiêu năm và phải tốn bao nhiêu tiền bạc để biến Barranquilla thành cảng biển và cảng sông duy nhất của cả nước.

Ngay sau đó, đại uý Nicolas Reyes Manotas lái chiếc máy bay bay là là trên các mái nhà để tìm khoảng trống hạ cánh khẩn cấp tránh cái chết mất xác của chính mình và của những người khác trên mặt đất trong trường hợp máy bay bị rơi. Đó là một trong những phi công đầu tiên của Colombia. Chiếc máy bay đầu tiên này được người ta tặng ở Mexico, và ông đã một mình lái nó đi dọc theo Trung Mỹ. Đám đông người đã tụ tập ở sân bay Barranquilla chuẩn bị khăn tay và cờ để chào đón chuyến bay thắng lợi, nhưng Reyes Manotas lại bay thêm hai vòng để chào thành phố trong khi động cơ máy bay bị hỏng hóc. Chỉ nhờ một may mắn kỳ lạ mà ông có thể tiếp tục điều khiển máy bay, hạ cánh xuống sân thượng một tòa nhà trong trung tâm thương mại, nhưng bị vướng vào lưới dây điện treo lủng lẳng trên cột điện. Em Luis Enrique và tôi cố chạy theo đoàn người nhưng chỉ đủ sức đến chỗ xa xa nhìn thấy người ta vừa cố kéo được viên phi công lành lặn ra khỏi chiếc máy bay trong tiếng tung hô người anh hùng.

Thành phố cũng có đài phát thanh đầu tiên, một kênh dẫn nước hiện đại đã biến thành điểm du lịch hấp dẫn, nơi giới thiệu quy trình lọc nước mới mẻ, và một đội cứu hỏa mà tiếng còi và tiếng chuông của nó lúc mới đầu đã trở thành lễ hội vui thích của cả trẻ con lẫn người lớn. Ở thành phố này, cũng lần đầu tiên những chiếc xe ô tô được nhập vào. Chúng chạy như điên trên đường phố, đè nát cả những con đường lát gạch mới. Hãng dịch vụ tang lễ La Equitativa lấy cảm hứng từ tính hài hước của cái chết đã cho căng một tấm biển quảng cáo rất lớn ở cửa ngõ ra vào thành phố với tít chữ: “Xin bạn đừng chạy, chúng tôi đang đợi bạn đây”.

Trong các buổi tối, khi không có nơi trú ẩn nào khác ngoài mái nhà, mẹ gom chúng tôi lại nghe đọc thư của bố. Phần lớn những bức thư đó là những tác phẩm giải trí bậc thầy, nhưng có một bức thư nói bóng gió về nhiệt tình của những người lớn tuổi vùng phía hạ nguồn sông Magdalena đối với phép điều trị bằng tiểu vi lượng đồng căn. “Ở đây có những trường hợp thật là kỳ diệu”, bố viết như vậy. Thỉnh thoảng ông lại làm cho chúng tôi có cảm tưởng là sắp được biết điều gì trọng đại lắm, nhưng sau đó chỉ là một tháng im lặng tiếp theo. Trong Tuần lễ Thánh, hai đứa em nhỏ nhất bị chứng thủy đậu nguy hiểm hành hạ, chúng tôi không thể liên lạc được với bố vì những người thạo đường nhất cũng không thể lần nổi dấu vết của ông.

Chính trong những tháng ngày ấy, tôi mới hiểu được một trong những từ được ông bà ngoại dùng nhiều nhất trong cuộc đời thực: nghèo khổ. Tôi đã diễn giải ý nghĩa của nó là tình trạng nhà mình khi Công ty chế biến hoa quả bắt đầu gỡ bỏ. Người ta ca cẩm về việc này vào bất cứ giờ nào trong ngày. Không còn được ngồi vào bàn ăn hai hoặc ba lần một ngày như trước đây mà chỉ một lần duy nhất. Để không từ bỏ một nghi lễ thiêng liêng là buổi ăn trưa, dù không còn khả năng vật chất duy trì được nữa, mọi người quyết định ra chợ cóc mua đồ ăn nấu sẵn ngon và rẻ hơn nhiều so với bữa ở nhà, không ngờ đó lại là khoái khẩu của lũ trẻ con. Nhưng việc này cũng chấm dứt vĩnh viễn khi bà ngoại phát hiện ra rằng, một số thực khách rất quen thuộc giờ không thấy quay lại thăm nhà nữa vì chê bữa ăn không ngon bằng trước đây.

Cái nghèo của bố mẹ tôi ở Barranquilla còn tệ hại hơn nữa, nhưng chính nó lại cho phép tôi gần gũi với mẹ hơn. Hơn cả tình yêu thương của đứa con đối với bậc sinh thành, tôi thực sự cảm phục cá tính của bà, đó là tính khí của một con sư tử lặng lẽ quyết liệt đương đầu với mọi khó khăn cũng như thách thức, đó cũng là mối quan hệ của bà với Đức Chúa Trời, không phải là thuần phục mà là chiến đấu. Hai phẩm chất mẫu mực đó của cuộc đời đã gieo vào lòng bà niềm tin chiến thắng. Trong những giây phút tệ hại nhất của cuộc đời bà vẫn có khả năng tự trào về những thủ thuật may rủi của mình. Như cái lần bà mua một ống xương đùi bò, luộc đi luộc lại làm cho món xúp ngày càng loãng cho đến lúc không thể nấu được nữa mới thôi. Vào một đêm mưa gió, bà đã phải dùng toàn bộ số dầu thắp của cả tháng, vì điện mất từ đầu hôm cho đến sáng, sau đó bà buộc phải dọa mấy đứa nhỏ sợ bóng tối để chúng không rời khỏi giường.

Lúc đầu bố mẹ cũng hay đi thăm gia đình bạn bè đã rời khỏi Aracataca vì cuộc khủng hoảng của ngành trồng chuối và tình hình an ninh trật tự quá tồi tệ ở đó. Trong những chuyến thăm viếng lẫn nhau ấy, câu chuyện chỉ xoay quanh đề tài những tai họa đang rình rập mọi người. Nhưng khi gia đình lâm vào cảnh nghèo khổ tệ hại ở Barranquilla thì mẹ thôi không than vãn về mọi chuyện ở nhà người khác nữa. Mẹ gói gọn sự kín đáo của mình vào một câu duy nhất: “Nhìn mắt đã biết là nghèo rồi”.

Cho đến lúc lên năm, cái chết đối với tôi chỉ là sự chấm dứt một cách tự nhiên xảy ra với người khác. Khoái lạc trên trời và khổ ải dưới địa ngục đối với tôi chỉ là những bài học thuộc lòng trong bài giảng giáo lý đạo cơ đốc của cha Astete. Chẳng có gì liên quan đến tôi cả. Cho đến một hôm, khi viếng một người chết, tôi bỗng liếc thấy đàn chấy bò ra từ đầu tóc người quá cố lan ra gối. Từ hôm đó, điều tôi lo lắng không phải là nỗi sợ chết mà tôi tự cảm thấy xấu hổ vì chấy cũng sẽ bò ra khỏi tóc mình trước mắt những người đi viếng khi tôi chết. Tuy vậy, ở trường tiểu học của thành phố Barranquilla tôi vẫn chưa biết là mình có chấy, cho đến tận khi tôi lây chấy cho mọi người thì cả nhà mới hay. Mẹ lại chứng tỏ một lần nữa cá tính mạnh mẽ của mình. Mẹ dùng thuốc diệt gián xịt lên đầu từng đứa và làm một cuộc tổng vệ sinh. Nhưng đâu vẫn hoàn đấy, vì tôi lại bị lây chấy ở trường học. Mẹ quyết định diệt triệt để và bắt tôi cạo trọc đầu. Sáng thứ Hai dám đến trường với chiếc mũ vải trên đầu quả là một hành động anh hùng và tôi cũng bảo vệ được lòng tự trọng của mình trước những lời chế giễu của bạn bè và kết thúc năm học cuối cùng với số điểm cao nhất. Tôi không còn có dịp gặp lại thầy Casalins, nhưng mãi mãi ghi sâu trong tâm khảm lòng biết ơn thầy.

Một người bạn của bố mà tôi không quen biết đã tìm cho tôi một việc làm ở xưởng in gần nhà. Lương quá thấp nên tôi chỉ còn tự động viên đây là dịp để học nghề. Tuy nhiên, tôi không được nhìn thấy máy in lấy một phút vì công việc của tôi chỉ là xếp các lá kim loại để in li tô. Được an ủi là mẹ cho phép tôi dùng tháng lương đầu tiên để mua tờ phụ trương Chủ nhật của báo La Prensa có in các truyện tranh hài hước về Tarzan, về Buck Rogers - mà trong đó người ta thường dịch là Rogelio kẻ xâm lược - và Mutt and Jeff - mà người ta gọi là Benitín và Eneas. - Vào các Chủ nhật, trong lúc rỗi rãi, tôi học vẽ thuộc lòng lại các nhân vật trên và tự nghĩ ra câu chuyện cho chúng. Những truyện tranh của tôi gây hứng thú cho một số người lớn trong khu phố và thậm chí tôi còn bán được chúng với giá hai xu.

Công việc vừa nặng nhọc vừa nhàm chán nên dù tôi đã cố hết sức, người ta vẫn báo với cấp trên là tôi thiếu nhiệt tình trong lao động. Có lẽ là nhờ uy tín của gia đình mà người ta quyết định chuyển tôi từ phân xưởng này qua làm công việc phân phát tờ rơi ngoài đường, để quảng cáo cho một loại nước ngọt chữa ho được các nghệ sĩ điện ảnh khuyên mọi người nên dùng. Tôi thấy việc này dễ chịu vì các tờ truyền đơn này in nhiều màu, hình các nghệ sĩ trên giấy bóng rất đẹp. Nhưng ngay từ đầu tôi đã nhận thấy việc phân phát tờ rơi này không dễ như tôi tưởng, bởi vì mọi người cảm thấy như bị lừa nên phần đông không chịu nhận. Những ngày đầu tiên tôi phải đưa về xưởng nhiều tờ chưa phân phát hết. Sau đó tôi gặp một số bạn học cũ từ thời ở Aracataca mà cha mẹ của họ đã làm rùm beng lên chuyện tôi đi làm cái việc không khác gì đi ăn mày. Họ gào ầm lên trách móc tôi tại sao ra đường lại đi đôi dép vải vốn được mẹ mua cho để khỏi hỏng mất đôi giày tầm cỡ giáo hoàng.

- Cháu về nói với mẹ Luisa Márquez - một người nói với tôi - thử xem bố mẹ chồng của bà ấy sẽ nói gì khi thấy đứa cháu yêu nhất đi phân phát tờ quảng cáo chống bệnh lao phổi ở ngoài chợ.

Tôi không truyền đạt thông điệp này vì không muốn làm mẹ buồn, nhưng khóc thầm vì tức giận và xấu hổ suốt mấy đêm. Tấn bi kịch này chấm dứt vì tôi không đi phân phát tờ rơi nữa mà vứt tất cả xuống cống nước ở ngoài chợ nhưng không ngờ dòng nước hiền hòa này cuốn những tờ giấy bóng trôi bồng bềnh như một tấm đệm nhiều màu tạo nên một cảnh đẹp chưa từng thấy khi nhìn từ trên cầu.

Trong giấc mơ đầy linh cảm, có lẽ mẹ nhận được thông điệp của những người đã khuất, nên chưa đầy hai tháng sau, bà đã bảo tôi thôi đi làm ở xưởng in mà không có lời giải thích nào cả. Tôi phản đối vì sợ mất những phụ trương Chủ nhật của tờ La Prensa mà tôi coi như ơn huệ của trời nhưng mẹ vẫn mua được nó dù phải bớt đi một củ khoai tây trong nồi xúp. Một nguồn sống khác trong những tháng ngày tệ hại nhất chính là sự trợ giúp của bác Juan. Bác vẫn sống ở Santa Marta với thu nhập ít ỏi của một kế toán viên nhưng tự thấy phải có nghĩa vụ gửi cho chúng tôi mỗi tuần một bức thư kèm theo hai peso. Viên thuyền trưởng tàu Aurora, vốn là bạn cũ của gia đình, trao cho tôi lá thư ấy vào hồi bảy giờ sáng và tôi trở về nhà với bọc thức ăn đủ nấu cho gia đình trong mấy ngày.

Vào một ngày thứ Tư tôi không đi được nên mẹ sai Luis Enrique đi thay. Em đã không thắng được lòng ham muốn nhân gấp đôi hai peso trong máy trò chơi có thưởng ở cửa hàng của một người Trung Quốc. Khi bị mất hai thẻ kim loại đầu tiên, nó vẫn quyết chơi để gỡ cho đến khi chỉ còn hai thẻ. “Lúc đó em sợ quá - nó kể với tôi khi đã thành người lớn - nên quyết định sẽ không quay về nhà nữa”. Em quá biết là với hai peso có thể mua đủ đồ ăn cho cả tuần lễ. May mà với thẻ cuối cùng, trong máy có tiếng kêu lạo xạo và nôn ra cả đống thẻ đủ đổi lại hai peso đã mất. “Lúc ấy, em như bị quỷ sai khiến - Luis Enrique kể tiếp - và em liều chơi tiếp một thẻ nữa”. Nó đã thắng. Liều thẻ khác, lại thắng, thẻ nữa, thẻ nữa và lại thắng. “Lúc này em còn giật mình, sợ hơn cả lúc bị thua, bụng dạ cứ nôn nao cả lên - nó kể - nhưng em cứ tiếp tục chơi”. Cuối cùng em đã nhân đôi số tiền ban đầu nhưng bằng các đồng tiền kẽm năm hào chứ không phải bằng tiền giấy. Nó không dám đổi lại thành tiền giấy ở quầy vì sợ ông Trung Quốc bày trò lật lọng. Tiền cứ kêu rủng rẻng trong túi nên trước khi đưa cho mẹ số tiền mà bác Juan gửi nó phải đem chôn bốn đồng năm hào phần của nó ở sau vườn nơi nó vẫn giấu tất cả những đồng xu nhặt được. Nó tiêu dần số tiền đó mà không báo cho ai biết. Mãi mấy năm sau bí mật đó mới được nó nói ra sau những cơn vật vã vì hối tiếc đã mất năm xu cuối cùng trong cửa hàng của ông Trung Quốc.

Quan hệ của nó với tiền bạc cũng có nét rất riêng. Có lần mẹ bắt gặp nó đang định móc tiền đi chợ trong ví của bà và cách bào chữa của nó thật là quái nhưng cũng rất sáng suốt: tiền mà đứa con tự tiện lấy trong ví của bố mẹ không phải là tiền ăn cắp, vì đó là tiền của tất cả mọi người, sở dĩ người ta từ chối không cho chẳng qua là vì lòng ghen ghét mình không biết sử dụng đồng tiền như những đứa khác mà thôi. Tôi cũng xông vào bảo vệ lập luận của nó, hăng đến mức tự thú là đã nhiều lần móc trộm đồ vật của nhà vì nhu cầu cấp bách. Mẹ mất cả kiên nhẫn quát ầm ĩ: “Đừng có gàn dở như vậy - mẹ gào lên với tôi. - Con và em con không ăn cắp của mẹ cái gì cả. Chính mẹ chủ ý để tiền nơi mẹ biết là các con sẽ lấy khi cần thiết”. Tôi nghe thấy mẹ lẩm bẩm một cách tuyệt vọng trong cơn tức giận rằng Đức Chúa Trời phải cho phép người ta ăn cắp một số thứ để nuôi con.

Cái duyên nghịch ngợm của Luis Enrique nhiều khi giúp giải quyết được vấn đề chung, nhưng không đủ sức hấp dẫn tôi làm theo các mánh khóe của nó. Nhưng nó tìm mọi cách để tôi không nghi ngờ và chính vì thế mà tình thân của chúng tôi thêm sâu đậm mãi. Tôi không bao giờ để nó biết sự thèm khát của tôi muốn có được lòng quả cảm của nó và nỗi đớn đau của tôi khi nó bị