← Quay lại trang sách

Chương 4

Hồi ấy, Bogota còn là một thành phố xa ngái và buồn thảm nơi cơn mưa bụi vương vất từ đầu thế kỷ XVI vẫn còn rơi chưa dứt. Tôi để ý thấy trên đường phố có rất nhiều đàn ông bận đồ đen như tôi khi mới tới và đội mũ cứng, đi lại vội vàng. Ngược lại, tôi hầu như không thấy bóng dáng người phụ nữ nào để an ủi, vì họ bị cấm không được vào các quán cà phê mờ ảo trong các khu thương mại, như quán của các thầy tu mặc áo chùng thâm đồng phục. Trên tàu điện và nhà vệ sinh công cộng đều có dòng chữ buồn bã: “Nếu bạn không sợ Chúa Trời thì hãy biết sợ hãi bệnh giang mai”.

Tôi kinh ngạc thấy những chiếc xe chở bia kéo theo những khung mắc áo khổng lồ, những tia lửa nhiều màu tóe ra khi tàu điện đổi hướng chạy ở góc phố và cảnh người ta dồn lại chật cứng để nhường bước cho những người đi bộ trong đám tang dưới trời mưa.

Thật sầu thảm khi thấy chiếc xe tang sang trọng do những con ngựa phủ trên mình khăn nhung đen kéo và trên đó có những thi hài của những người chắc là thuộc hàng danh gia vọng tộc đã hành xử cứ như mình là người sáng tạo ra cái chết vậy. Ở cổng nhà thờ Las Nieves, từ trên xe taxi tôi nhìn thấy người phụ nữ đầu tiên ở ngoài đường phố. Bà ta cao, thanh mảnh và kín đáo với một vẻ rất đỗi uy nghiêm, cứ như nữ hoàng tang tóc vậy, nhưng tôi chỉ ghi lại được dấu ấn của phân nửa ảo mộng vì bà mang chiếc khăn che kín hết mặt.

Đó là sự sụp đổ tinh thần. Căn nhà tôi qua đêm tuy rộng rãi và đủ tiện nghi nhưng tôi thấy nó đầy vẻ ma quái với mảnh vườn âm u trồng hoa hồng thẫm màu với cái lạnh thấu xương tủy. Đó là gia đình của ông Torres Gamboa, họ hàng của bố tôi và mặc dù tôi đã biết họ nhưng vẫn thấy rất xa lạ khi họ mặc quần áo ngủ trong bữa ăn tối. Ấn tượng mạnh nhất là khi chui vào chăn tôi đã hét lên kinh hoàng vì cảm thấy như nằm trong nước lạnh buốt. Họ phải giải thích cho tôi hiểu đó chỉ là cảm giác lúc ban đầu, dần dần tôi sẽ quen với những điều kỳ lạ của thời tiết. Tôi khóc thầm mấy tiếng đồng hồ trước khi có được giấc ngủ bất hạnh.

Đó cũng là cảm giác của tôi bốn ngày sau khi vội vã đi trong cái rét cắt da và dưới cơn mưa phùn để đến Bộ Giáo dục xin đăng ký thi tuyển nhận học bổng quốc gia. Hàng người bắt đầu từ trước phòng đăng ký học bổng của Bộ Giáo dục ở tầng ba, dài rồng rắn suốt hành lang, cầu thang xuống tới tận cửa ra vào chính trong tòa nhà. Cảnh tượng thật là ngán ngẩm. Khoảng mười giờ sáng, khi trời vừa tạnh, hàng người còn kéo dài thêm hai dãy phố nữa trên đại lộ Jimenez de Quesada và còn nhiều ứng cử viên đang trú mưa dưới các hiên nhà. Tôi cảm thấy mình sẽ chẳng kiếm được gì trong cảnh chụp giựt này.

Khoảng đầu giờ chiều, tôi bỗng thấy có ai đập nhẹ hai lần vào vai. Đó chính là “Người đọc không biết chán” ở trên tàu thủy. Anh đã nhìn thấy tôi đứng gần cuối hàng, còn tôi thì mãi mới nhận ra anh. Anh kinh ngạc hỏi tôi:

- Mẹ kiếp, anh làm gì ở đây?

Tôi nói mục đích của mình với anh.

- Sao có chuyện nực cười thế nhỉ? Anh vừa nói vừa cười sặc sụa.

- Thôi đi theo tôi mau - anh khoác tay tôi đi vào nhà Bộ Giáo dục. Đến lúc đó tôi mới biết anh là Tiến sĩ Adolfo Gomez Tamara, Vụ trưởng Vụ học bổng quốc gia của Bộ Giáo dục.

Đó là một sự ngẫu nhiên hết sức hiếm hoi mà tôi may mắn được hưởng. Với giọng hài hước của sinh viên, Gomez Tamara giới thiệu với các trợ lý của mình về tôi như là một danh ca hát điệu bolero rất tình. Họ mời tôi uống cà phê và ghi tên tôi vào bảng đăng ký mà không phải làm thủ tục gì cả, nhưng cũng giải thích cho tôi biết là việc làm này không vi phạm các quy định của cơ quan mà chẳng qua chỉ là để tôn vinh những vị thần ngẫu nhiên mà thôi. Họ thông báo cuộc sát hạch sẽ được tiến hành vào thứ Hai tới ở trường San Bartolomé. Người ta ước tính có khoảng một ngàn thí sinh trong cả nước chọi nhau giành ba trăm năm mươi suất học bổng nên cuộc chiến sẽ lâu dài và khó khăn, và có thể sẽ là một đòn đánh mạnh vào ảo tưởng của chính tôi. Một tuần sau đó, người ta sẽ công bố danh sách những người trúng tuyển kèm tên trường được theo học. Điều này bấy giờ tôi mới biết và cũng làm cho tôi khá lo lắng vì nếu trúng tuyển có thể người ta sẽ gửi tôi đến học ở Medellin hoặc el Vichada. Người ta giải thích cho tôi rằng việc gửi đi học ở các trường theo kiểu bốc thăm là nhằm khuyến khích trao đổi văn hóa giữa các vùng. Khi làm xong thủ tục, Gomez Tamara bắt chặt tay tôi và nồng nhiệt như khi chúc mừng tôi vừa hát xong bài bolero.

- Cố lên nhé! - anh nói với tôi - bây giờ cuộc đời của anh nằm trong chính tay mình rồi đó.

Rời khỏi trụ sở Bộ Giáo dục, thì một người đàn ông nhỏ thó với dáng vẻ thầy tu đến gạ tôi bỏ ra năm mươi đồng peso, ông ta sẽ lo cho một suất học bổng mà không phải thi cử gì cả. Số tiền đó là cả một gia tài đối với tôi, nhưng tôi tin rằng nếu có chắc tôi cũng sẵn sàng chi ra để tránh nỗi sợ hãi phải vào phòng thi. Mấy ngày sau, tôi nhận ra ông ta qua bức ảnh được đăng trên báo, hóa ra ông ta cầm đầu một băng lừa đảo chuyên đội lốt thầy tu để hành nghề buôn bán bất hợp pháp ở các cơ quan nhà nước.

Tôi vẫn chưa hết băn khoăn vì việc có thể bị gửi đi học ở bất cứ nơi nào. Sự bi quan đã tạo cớ cho tôi vào ngay đêm trước hôm thi, đi cùng với đám nhạc công trên tàu đến một quán rượu cực kì dơ bẩn ở khu Las Cruces. Mỗi lần hát xong một bài, chúng tôi được thưởng một cốc vại chicha, thứ nước ngô lên men tuyệt hảo mà những kẻ say xỉn thường bỏ thêm thuốc súng vào cho tăng độ phê. Vì thế mà tôi đến phòng thi bị chậm, với cái đầu u u minh minh không nhớ mình đã ở đâu và ai đã đưa mình về nhà trong đêm hôm trước. Nhưng dù sao thì người ta cũng ban ơn, đón tiếp tôi trong một căn phòng lớn chật cứng thí sinh. Liếc qua các câu hỏi, tôi biết mình sẽ thất bại hoàn toàn. Để tránh sự tò mò của các giám thị, tôi đành chú mục đến phần khoa học xã hội với các câu hỏi ít đánh đố hơn cả. Bỗng niềm cảm hứng lóe sáng hớp hồn khiến tôi đưa ra những câu trả lời đáng tin và may mắn đến không ngờ, dĩ nhiên trừ phần toán học mà dù Thượng đế có phù hộ tôi cũng chịu thua. Bài thi môn hội họa, tuy làm vội nhưng khá đẹp là nguồn an ủi cho tôi. “Đó có lẽ là nhờ tác động kỳ lạ của nước chicha đó”, các bạn nhạc công nói với tôi như vậy. Dù sao thì tôi cũng hoàn thành bài thi và quyết định viết thư cho bố mẹ giải thích lý do sẽ không về nhà.

Một tuần sau, tôi thực hiện quyền của mình là đòi xem điểm. Chắc là đã phát hiện thấy dấu hiệu gì đó trong số báo danh của tôi nên cô tiếp tân đã dẫn ngay tôi lên gặp Vụ trưởng. Anh tiếp tôi với dáng vui vẻ và lịch duyệt, chiếc áo sơ mi dài tay trắng bong và hai dây kéo quần màu đỏ sặc sỡ. Anh xem xét điểm các bài thi của tôi một cách chuyên nghiệp, hai hoặc ba lần tỏ vẻ lưỡng lự, nhưng cuối cùng thì thở phào.

- Không đến nỗi tệ lắm - anh như nói một mình. - Ngoại trừ môn toán. Nhưng anh đã thoát trong gang tấc nhờ năm điểm môn hội họa.

Anh ngửa người trên ghế và hỏi tôi dự định học trường nào.

Đó là một trong những bất ngờ lịch sử trong đời tôi, nhưng tôi không hề đắn đo khi trả lời:

- Trường San Bartolome ở ngay thành phố Bogota.

Anh đặt tay lên một đống giấy trên bàn.

- Tất cả đống giấy này là những bức thư nặng ký nhờ can thiệp cho con em, hoặc người nhà được học ở các trường tại thủ đô - anh nói. Anh cũng nhận ra ngay là không nên nói ra điều đó, và tiếp tục: - Nếu anh cho phép tôi giúp đỡ thì trường phù hợp nhất đối với anh chính là trường phổ thông công lập Zapaquirá, cách đây một giờ đi bằng tàu hỏa.

Điều duy nhất mà tôi biết về thành phố lịch sử đó là nó có mỏ muối. Gomez Tamara giải thích cho tôi là trường này có từ thời thuộc địa và mới đây được tịch thu từ một cộng đồng tôn giáo trong đợt cải cách của phái tự do và bây giờ có một đội ngũ giáo viên trẻ tuyệt vời với tư duy rất hiện đại. Tôi nghĩ là mình phải có trách nhiệm báo cho anh ấy rõ.

- Bố tôi là godo (từ khinh bỉ chỉ những người thuộc phái bảo thủ - ND) - tôi nói.

Anh ấy bật cười.

- Anh không cần phải tỏ ra nghiêm trọng - anh nói. - Tôi nói tự do đây là theo nghĩa rộng trên lĩnh vực tư tưởng.

Ngay sau đó, anh trở lại phong cách thường ngày và quyết định để cho số phận đưa tôi đến tu viện cũ kĩ từ thế kỷ XVII đã được biến thành trường học giữa thị trấn mộng mơ nơi không có thú tiêu khiển gì ngoài việc học tập. Ngôi trường này đúng là đã tồn tại bất di bất dịch với thời gian. Ở thời kỳ đầu, ngay cổng ra vào bằng đá có khắc dòng chữ: “Nguyên lý của sự hiểu biết là nỗi sợ của Chúa Trời” . Nhưng phương châm này đã được thay bằng quốc huy của Colombia ngay sau khi chính phủ thuộc phái tự do của Tổng thống Alfonso Lopez Pumarejo quốc hữu hóa nền giáo dục vào năm 1936. Ở tiền sảnh, sau khi trút bỏ hòm đồ xuống, tôi chán nản nhìn mảnh vườn nhỏ bao bọc bởi những vòng cung bằng đá được xây từ thời thuộc địa với những bao lơn bằng gỗ sơn màu xanh treo các giỏ hoa đượm buồn. Tất cả như bị gò theo một trật tự bất di bất dịch mà hơn ba trăm năm qua chưa hề bị bàn tay của người đàn bà nào làm thay đổi. Được giáo dục trong môi trường phóng khoáng không có luật lệ ràng buộc của vùng ven biển Caribe, tôi rùng mình lo sợ phải sống bốn năm quyết định của tuổi thiếu niên giữa bầu không khí tê cóng ấy.

Lúc ấy tôi không thể hình dung ra căn nhà hai tầng bao quanh mảnh vườn im ắng và một tòa nhà ở phía sau có thể đủ chỗ cho văn phòng và chỗ ở của hiệu trưởng, phòng hành chính, nhà bếp, nhà ăn, thư viện, sáu lớp học, phòng thí nghiệm vật lý và hóa học, nhà kho, các nhà vệ sinh và các phòng ngủ có giường sắt cho gần năm mươi học sinh lê lết từ những địa phương buồn bã nhất nước đến đây, và rất ít học sinh là người thủ đô. Cũng may, chính hoàn cảnh lưu đày đó là ân huệ mà ngôi sao chiếu mệnh đã dành cho tôi. Nó đã giúp tôi sớm hiểu rõ về đất nước mình. Một tá học sinh đến từ vùng ven biển Caribe chúng tôi tập hợp lại với nhau ngay từ khi mới tới và làm nên sự khác biệt với nhóm học sinh bản địa.

Đám học sinh tụ tập thành từng nhóm đứng ngồi rải rác trong vườn ngay buổi tối đầu tiên đã là một biểu hiện nhiều màu sắc của dân tộc. Không có kình địch gì dù mỗi người giữ lãnh địa của mình. Những mối quan hệ đầu tiên của tôi là với những người đến từ vùng ven biển Caribe, vốn nổi tiếng là ồn ào, thích kết bạn và cuồng nhiệt trong nhảy múa. Tôi là một ngoại lệ, nhưng ngay sau đó Antonio Martinez Sierra, một người múa rumba giỏi ở thành phố Cartagena đã dạy tôi các điệu nhảy đang được ưa thích trong các buổi tối rảnh rỗi. Ricardo Gonzalez Ripoll, tòng phạm với tôi trong những cuộc tình chớp nhoáng, sau này là một kiến trúc sư nổi tiếng, tuy nhiên không bao giờ bỏ lửng một bài hát mà thường lẩm nhẩm và nhảy múa một mình.

Mincho Burgos, một nhạc công đàn piano bẩm sinh, sau này trở thành nhạc trưởng dàn nhạc quốc gia, đã lập ngay ban nhạc của trường, dạy tôi chơi một vài nhạc cụ và hát bè trầm trong các điệu bolero.

Humberto Jaimes là một học sinh chuyên cần, không bao giờ quan tâm đến các điệu nhảy, thường hy sinh các ngày lễ cuối tuần để ở lại trường tiếp tục tự học. Anh ta chưa bao giờ thấy trái bóng nào và cũng không bao giờ đọc các bài báo về các trận đấu bóng đá.

Nhưng sau khi tốt nghiệp kỹ sư ở Bogota, anh vào làm phóng viên thể thao ở tòa báo El Tiempo, lên đến chức Trưởng phòng thể thao của tòa soạn và là một trong những tay bút cừ khôi nhất nước về đề tài bóng đá.

Nhưng một trong những trường hợp kỳ lạ nhất là Silvio Luna, sau khi tốt nghiệp luật sư, học tiếp lên thành bác sĩ và trước khi tôi mất liên lạc với anh, còn chuẩn bị học tiếp một ngành thứ ba nữa.

Daniel Rozo - Pagocio - được coi như một người hiểu biết uyên thâm về khoa học xã hội và thần học ở trong lớp cũng như khi ra chơi. Chúng tôi thường đến hỏi anh ta về tình hình thế giới trong thời kỳ chiến tranh thế giới lần thứ hai mà chúng tôi chỉ biết láng máng, vì người ta không cho phép đưa báo hoặc tạp chí vào nhà trường, còn chiếc đài thì chúng tôi chỉ dùng để nghe nhạc trong các buổi khiêu vũ. Chúng tôi không biết Pagocio đã lấy đâu thông tin về những trận đánh thắng lợi của quân đồng minh.

Sergio Castro có lẽ là học sinh xuất sắc nhất vì từ khi vào trường luôn được điểm cao. Bí quyết của anh, như Martina Fonseca đã khuyên tôi thời kỳ còn học ở trường San Jose là: không bao giờ bỏ sót một lời nào của thầy giáo và phát biểu của các bạn ở trên lớp, ghi chép cẩn thận từng hơi thở của các thầy giáo vào vở một cách khoa học nhất. Có lẽ nhờ vậy mà anh ấy không mất nhiều thời gian chuẩn bị cho các bài kiểm tra, cuối tuần có thể ngồi đọc sách phiêu lưu mạo hiểm trong khi chúng tôi học mướt mồ hôi.

Người bạn gần gũi nhất của tôi trong những giờ rảnh rỗi là Alvaro Ruiz Torres, dân thủ đô Bogota chính hiệu. Hai chúng tôi thường trao đổi tin tức hàng ngày về các cô người yêu. Anh thường về nhà ở Bogota những ngày cuối tuần và khi trở lại trường thường mang theo nhiều thuốc lá và những mẩu chuyện về các cô gái. Chính anh là người khích lệ tôi mắc hai thói xấu đó trong thời gian cùng học với nhau nhưng cũng chính anh trong hai năm vừa qua đã cho tôi mượn những kỷ niệm tốt nhất để tôi viết những trang hồi ký này.

Tôi không hiểu đã học được gì trong thời gian bị giam cầm trong trường phổ thông công lập này, nhưng bốn năm sống hòa thuận với tất cả mọi người lúc ấy đã cho tôi một cái nhìn nhất quán về dân tộc; tôi phát hiện ra đất nước mình đa dạng biết bao và hiểu chúng tôi phải làm gì để phục vụ cho Người, và tôi cũng học được một điều rằng sự tổng hợp mọi cá thể của chúng tôi lại sẽ là tất cả đất nước. Có lẽ đó chính là điều mà ở Bộ Giáo dục người ta nói với chúng tôi rằng xuất xứ từ các địa phương chỉ là tương đối. Khi đã có tuổi, một lần trên chuyến bay xuyên đại dương tôi được mời vào phòng lái máy bay, lời đầu tiên mà viên phi công hỏi tôi là quê ở đâu. Chỉ nghe giọng anh ấy nói, tôi đã có thể trả lời:

- Tôi cũng dân miền biển như quê anh ở vùng Sogamoso.

Đúng là anh ta có cùng cốt cách, cùng cử chỉ, chất giọng của Marco Fidel Bulla, bạn học ngồi cạnh tôi trong suốt năm thứ tư của trường trung học. Chính năng lực trực giác này đã dạy tôi cách vượt qua, dù không có la bàn và ngược dòng, những vùng đầm lầy của những cộng đồng người bất chợt, và có lẽ đó cũng là chiếc chìa khóa vạn năng trong nghề viết văn của tôi.

Tôi cảm thấy như sống trong giấc mơ, bởi vì, trước đó tôi không dám ước mong được học bổng, không chỉ để tiếp tục học mà còn được sống độc lập không phụ thuộc vào gia đình. Với ba bữa ăn được bảo đảm hàng ngày cũng đủ cho bọn tôi thấy sống ở trong trại tế bần này vẫn còn sướng hơn ở gia đình mình, và dưới chế độ tự chủ có kiểm soát này vẫn còn dễ chịu hơn sự áp đặt ở nhà. Ở phòng ăn hình thành một hệ thống thị trường cho phép mỗi người vận dụng suất ăn của mình theo cách phù hợp nhất. Ở đó đồng tiền không có giá trị gì. Hai quả trứng trong bữa ăn điểm tâm là đơn vị trao đổi được yêu thích nhất, vì nó có thể được hoán đổi lấy một trong ba bữa ăn hàng ngày. Mỗi thứ đều có vật tương đương, không có gì có thể làm xáo trộn được những cuộc buôn bán hợp pháp đó. Và tôi nhớ là không hề có một cuộc cãi vã, kiện cáo gì trong suốt bốn năm ở nội trú.

Giáo viên ăn ở bàn khác ngay trong phòng ăn nên cũng không lạ gì chuyện đổi chác của học sinh. Phần lớn giáo viên chưa vợ hoặc sống xa vợ và lương của họ cũng ít ỏi như mức phụ giúp của gia đình gửi cho chúng tôi. Họ cũng than phiền về bữa ăn như chúng tôi, đã có lúc suýt nữa chúng tôi cùng họ âm mưu làm một cuộc tuyệt thực. Chỉ khi nào nhận được quà hoặc có khách thăm người ta mới cho phép chúng tôi thưởng thức những món ăn khoái khẩu - một việc có thể làm hỏng nguyên tắc bình đẳng giữa mọi người. Đó là sự việc đã xảy ra vào năm thứ tư khi vị bác sĩ của nhà trường hứa cho chúng tôi một quả tim của con bò để học môn giải phẫu. Ngày hôm sau, ông ấy gửi trái tim còn tươi nguyên và đỏ máu vào tủ lạnh của nhà bếp, nhưng khi bọn tôi đến lấy để đưa về học thì nó không còn ở đó nữa. Sau khi xác minh người ta mới rõ ra là, vào giờ chót, do không có tim bò, người thầy thuốc phải lấy trái tim của một người thợ nề bị trượt chân rơi từ tầng bốn xuống tan xác. Vì không đủ cho tất cả mọi người nên các đầu bếp đành chế biến cái mà họ tưởng là tim bò thành món nước sốt tuyệt ngon dành cho mâm các thầy giáo. Tôi tin rằng mối quan hệ thầy trò khá trôi chảy hồi đó có liên quan đến cuộc cải cách giáo dục mới đây, tuy không để lại nhiều dấu ấn trong lịch sử nhưng cũng giúp chúng tôi đơn giản hóa nhiều nghi thức ứng xử. Khoảng cách về tuổi tác đã giảm bớt, việc đeo cà vạt cũng bớt nghiêm ngặt hơn và không ai hốt hoảng trước việc thầy và trò cùng ngồi uống rượu và tối thứ Bảy cùng đi khiêu vũ.

Bầu không khí này chỉ có được khi có những người thầy giáo chịu chấp nhận những mối quan hệ cá nhân dễ dàng. Thầy dạy toán, với sự hiểu biết rộng và tính hài hước thô bạo đã biến những tiết học thành một lễ hội đáng sợ. Thầy tên là Joaquin Giraldo Santa và là người Colombia đầu tiên có học vị tiến sĩ toán học. Chỉ có điều đáng tiếc là dù đã rất cố gắng và được thầy tận tình giúp đỡ tôi không bao giờ theo kịp trình độ ở lớp của thầy. Người ta thường nói năng khiếu thơ ca giao thoa vào toán học, đến mức tôi không những tin điều đó mà còn lặn ngụp trong đó nữa. Nhờ vào uy tín văn chương của nó mà hình học có lẽ là môn dễ thương hơn. Ngược lại, số học thì luôn có thái độ hoàn toàn thù địch. Đến tận bây giờ, khi cần tính nhẩm một phép cộng tôi phải tháo bung các con số ra thành từng phần đơn giản hơn, nhất là hai số bảy và chín thì tôi không tài nào nhớ được kết quả phép tính cộng giữa chúng với nhau. Giả dụ, phải cộng bảy với bốn, tôi phải trừ hai trong số bảy rồi cộng với bốn sau đó mới cộng tiếp số hai để thành ra mười một. Phép nhân thì tôi thường xuyên làm sai vì không thể nhớ bảng cửu chương. Riêng đại số thì tôi toàn tâm toàn ý học hơn cả không chỉ vì nó thuộc loại cổ điển mà còn vì sự yêu mến và sợ hãi thầy dạy. Nhưng thật vô ích. Học kỳ nào tôi cũng bị cảnh cáo, bị thi lại hai lần và cả lần thi vớt bất hợp pháp mà vì thương hại thầy đã tổ chức thêm tôi cũng rớt luôn.

Ba người thầy tận tụy khác là những người dạy ngoại ngữ. Người đầu tiên dạy tiếng Anh là thầy Abella, một cư dân vùng Caribe chính hiệu nhưng lại nói giọng đặc sệt xứ Oxford và là một người mê tín cuồng nhiệt bộ từ điển Webster’s, đến mức thường ngâm vịnh từng câu chữ với đôi mắt nhắm nghiền. Người thay cho thầy Abella là Hector Figueroa, một giáo viên trẻ giỏi giang và rất say mê điệu bolero nên chúng tôi thường hát với nhau trong giờ ra chơi. Tôi đã cố hết sức vượt qua cơn buồn ngủ trong lớp cũng như kỳ thi cuối khóa, nhưng tôi tin rằng điểm khá của tôi không nhờ nhiều vào Shakespeare mà vào Leo Marini và Hugo Romani, những người đã tạo ra bao nhiêu thiên đường và gây ra bao vụ tự sát vì tình. Thầy giáo dạy tiếng Pháp trong năm thứ tư, ông Antonio Yelá Alban đã thấy tôi bị ngộ độc vì các cuốn tiểu thuyết hình sự. Những giờ học của ông cũng làm tôi chán ngán như của tất cả các thầy khác, nhưng những câu trích dẫn rất thích hợp của ông về tiếng Pháp đường phố đã giúp tôi mười năm sau không bị chết đói ở thành phố Paris.

Phần lớn các thầy giáo được đào tạo tại trường Cao đẳng sư phạm dưới sự chỉ đạo của thầy hiệu trưởng, nhà tâm lý học, tiến sĩ Jose Francisco Socarras, người đã cố công thay đổi nền sư phạm của giới tu sĩ suốt một thế kỷ chính phủ bảo thủ bằng chủ nghĩa duy lý nhân đạo. Thầy Manuel Cuello del Rio là một người theo chủ nghĩa Marx triệt để nhưng có lẽ cũng khâm phục cả Lin Yutang và tin vào việc người chết tái sinh. Thư viện riêng của thầy Carlos Julio Calderon bắt đầu bằng tiểu thuyết Vòng xoáy của người đồng hương Jose Eustasio Rivera, rồi đến các tác giả cổ điển Hy Lạp, những tác giả viết về đề tài bản địa và những nhà văn lãng mạn khắp thế giới. Nhờ các thầy đó mà số ít ỏi những học sinh ham đọc sách như chúng tôi được đọc tác phẩm của San Juan de la Cruz hoặc Jose Maria Vargas Vila, kể cả các nhà văn đi tiên phong của cách mạng vô sản. Ngay trong phòng riêng của mình, thầy dạy khoa học xã hội Giáo sư Gonzalo Ocampo có một kho sách chính trị được lưu hành đến tận lớp học của các học sinh lớn tuổi, nhưng tôi không hiểu tại sao những cuốn như Nguồn gốc gia đình, tài sản tư nhân và Nhà nước của Federic Engels lại chỉ được học ở các buổi chiều khô khan của môn kinh tế chính trị mà không ở các lớp văn học như là một chiến công của cuộc phiêu lưu của nhân loại. Guillermo Lopez Guerra trong giờ ra chơi đã đọc Chống Dühring, cũng của Engels do thầy Gonzalo Ocampo cho mượn. Nhưng khi tôi hỏi mượn đọc để có thể bàn cãi với Lopez Guerra, thì Giáo sư Gonzalo Ocampo lại nói là không thể cho tôi đọc một cuốn ghi chép rất cơ bản đối với sự tiến bộ của nhân loại nhưng lại quá dài và dễ chán nên khó có thể đi vào lịch sử. Những thay đổi nho nhỏ về tư tưởng như vậy có lẽ đã tạo nên tiếng xấu về trường này như là nơi thử nghiệm của sự hư hỏng về chính trị. Tuy nhiên tôi phải mất nửa đời người mới nhận thấy rằng đó có thể là một kinh nghiệm thực tế để xua đuổi những kẻ hèn yếu và để chủng ngừa cho những người mạnh mẽ chống lại tất cả mọi biểu hiện của chủ nghĩa giáo điều.

Tôi thường xuyên có mối quan hệ trực tiếp với giáo sư Carlos Julio Calderon, thầy dạy tiếng Tây Ban Nha trong những năm đầu tiên, dạy văn học thế giới trong năm thứ tư, văn học Tây Ban Nha trong năm thứ năm và văn học Colombia trong năm thứ sáu. Và có điều hơi lạ là ông lại thích thú và được đào tạo theo một chuyên ngành khác hẳn: kế toán. Sinh ra ở thị xã Neiva thuộc tỉnh Huila, giáo sư luôn tuyên bố là mình quý trọng nhà văn Jose Eustasio Rivera. Ông đã phải bỏ học y khoa và giải phẫu, điều mà mỗi khi nhớ lại ông vẫn coi là nỗi thất vọng lớn trong đời, nhưng ông không thể cưỡng lại nổi tình yêu nghệ thuật và văn học. Ông là người thầy đầu tiên đã làm tan nát những bản thảo của tôi qua những lời nhận xét xác đáng.

Mối quan hệ thầy trò lúc đó hết sức tự nhiên, không chỉ trên lớp mà đặc biệt là trong giờ nghỉ ngoài vườn sau bữa ăn tối. Chúng tôi được đối xử khác hẳn lối thông thường trước đây và đó chính là bầu không khí tôn trọng và bạn bè mà may mắn chúng tôi được sống.

Tôi còn có chuyến phiêu lưu dễ sợ liên quan đến cuốn Toàn tập của Freud lúc đó vừa về đến thư viện. Đương nhiên là tôi không hiểu gì về những phân tích lằng nhằng của ông, nhưng lại say sưa theo dõi các dẫn chứng về bệnh hoạn đến tận trang cuối tập sách không kém gì những tác phẩm kỳ diệu của Julio Verne. Trong giờ học tiếng Tây Ban Nha, thầy Calderon yêu cầu chúng tôi viết một truyện ngắn với đề tài tự do. Tôi bỗng nghĩ đến trường hợp một bé gái bảy tuổi bị bệnh tâm thần và đặt đầu đề cho truyện hoàn toàn ngược với chất thơ: “Một trường hợp bệnh tâm thần ám ảnh”. Thầy cho đọc truyện này trên lớp. Aurelio Prieto, ngồi cạnh tôi kịch liệt phản đối việc viết truyện về một đề tài khó hiểu mà không có hiểu biết gì về khoa học và văn học. Tôi bực bội giải thích rằng đã lấy nguyên mẫu từ một trường hợp bệnh nhân được Freud nhắc đến trong hồi ký của ông và mục đích duy nhất của tôi là dùng nó cho bài tập này. Trước những lời chỉ trích gay gắt của một số bạn học, có lẽ rất cảm thông nên trong giờ ra chơi thầy đã gọi riêng tôi ra nơi khác để động viên tôi cứ theo đường đó mà tiếp tục đi. Ông chỉ rõ đúng là khi viết truyện này tôi chưa biết kỹ thuật sáng tác hiện đại nhưng lại có năng khiếu bẩm sinh và khát vọng. Ông thấy truyện đó viết hay và tối thiểu cũng bộc lộ ý thức tìm kiếm một điều gì đó độc đáo. Lần đầu tiên ông nói với tôi về tu từ học. Ông bày cho tôi một số mẹo luật thực tiễn về đề tài và thi pháp để làm thơ được dễ dàng và kết luận là tôi phải tiếp tục viết không chỉ những câu chuyện về bệnh tâm thần. Đó là buổi mở đầu cho nhiều buổi nói chuyện dài vào giờ ra chơi hay vào giờ rỗi với ông trong thời gian tôi học ở trường, nhờ vậy mà tôi tích lũy rất nhiều kiến thức cho đời viết văn của mình.

Đó là một bầu không khí lý tưởng đối với tôi. Ngay từ thời ở trường San Jose tôi đã nhiễm thói xấu là ngấu nghiến tất cả những gì có trong tay vào giờ rỗi cũng như một phần trong giờ lên lớp. Vào tuổi mười sáu tôi vẫn còn đọc lại được những bài thơ học từ thời bé ở trường San José. Tôi đọc đi đọc lại không theo một thứ tự nào và thường là đọc lén trong giờ học. Tôi tin là đã đọc hết cả thư viện trường kể cả những thứ ít công dụng hơn: tuyển tập văn bản chính thức, tài liệu kế thừa của những thầy giáo đã nghỉ dạy. Tôi không thể quên những cuốn trong bộ sách Làng quê của nhà xuất bản Minerva do ông Daniel Samper Ortega chủ xướng và được phân phối vào các trường thuộc Bộ Giáo dục. Có đến một trăm cuốn vừa hay vừa dở bao gồm những gì người ta đã viết ở Colombia, và tôi đã có ý định đọc theo thứ tự cho đến khi tâm hồn mình còn chịu đựng được. Bây giờ nhớ lại tôi còn rùng mình vì chỉ trong hai năm cuối thời kỳ phổ thông tôi đã gần hoàn thành chỉ tiêu đó rồi, và trong thời gian còn lại của cuộc đời tôi cũng không thể khẳng định là điều đó có phục vụ gì cho tôi nữa hay không.

Những buổi bình minh nơi ký túc xá mang dáng vẻ đáng ngờ của hạnh phúc ngoại trừ tiếng chuông kêu như tiếng còi báo động vào lúc sáu giờ sáng. Chỉ có hai hoặc ba kẻ yếu đuối về tinh thần là vội nhảy ra khỏi giường đến giành những chỗ đầu tiên trong sáu vòi nước lạnh cóng trong phòng tắm chung của ký túc xá. Số còn lại, chúng tôi cố vắt nốt những giọt mơ ngủ cuối cùng cho đến khi thầy trực ban đi vào phòng lật tung từng chiếc chăn lên. Chúng tôi có khoảng một giờ rưỡi cho những công việc cá nhân để sắp xếp lại quần áo, đánh giày, vừa tắm nước lạnh buốt trong tiếng kêu thất thanh vừa chọc tức người bên cạnh, moi bí mật tình ái của nhau, móc ráp làm ăn, buôn bán trao đổi, kiện cáo xảy ra ở buổi ăn sáng. Đề tài bàn bạc vào buổi sáng sớm thường là chương sách vừa đọc đêm hôm trước.

Mỗi khi có thể, một số trong chúng tôi tìm cách lẩn trốn ra ngoài vào buổi sáng sớm tinh mơ để đến nơi hẹn hò những ngày cuối tuần. Chỉ trừ những ngày trong tuần, còn thì cuối tuần không có thầy giáo trực ban cũng như các thầy coi ký túc xá. Người canh cửa ra vào vĩnh cửu của nhà trường, anh Riverita, thường nửa thức nửa ngủ suốt những giờ anh phải làm nhiệm vụ hàng ngày. Anh sống ngay trong một phòng ở cửa ra vào và luôn làm tốt công việc của mình, nhưng về ban đêm, chúng tôi có thể tháo chốt cửa nhà thờ rồi ra ngoài hưởng giấc ngủ đêm ở nhà người khác và trở về vào trước khi trời sáng từ những đường phố rét buốt. Không bao giờ người ta biết được chính xác có thực Riverita ngủ say như chết hay đó là cách ứng xử tế nhị của anh để trở thành tòng phạm với bọn trẻ. Không có nhiều những người dám lẻn ra phố, và những bí mật về chuyến đi đó đã tàn lụi trong trí nhớ của những tên tòng phạm trung thành. Tôi quen biết một số người đi đêm thường xuyên, một số chỉ dám mạo hiểm đi một lần rồi trở về kiệt sức vì sợ hãi. Chúng tôi biết là không có ai bị phát hiện cả.

Điều bất tiện duy nhất của tôi trong mối quan hệ xã hội ở trong trường nội trú chính là những cơn ác mộng kèm theo những tiếng hú như từ thế giới bên kia vọng về mà tôi được di truyền từ mẹ. Những người nằm cạnh giường tôi thì đã quá rõ, họ chỉ sợ hãi bởi tiếng hú kinh hoàng đầu tiên vào sáng sớm. Thầy giáo trực ngủ ở phòng nhỏ bên cạnh giật mình đi như mộng du từ đầu này đến đầu kia khu ký túc xá cho đến khi yên tĩnh trở lại. Đó không chỉ là những giấc mơ không kiểm soát được mà còn là điều gì đó liên quan đến ý thức kém bởi vì có hai trường hợp xảy ra với tôi ở những căn nhà trụy lạc. Những cơn ác mộng này cũng rất khó hiểu vì không phải chỉ là những giấc mơ khủng khiếp, mà ngược lại, là những câu chuyện hạnh phúc với một số người hoặc ở những nơi thông thường nhưng rồi bỗng một đôi mắt vô tư báo cho tôi một chi tiết đáng sợ nào đó. Mẹ tôi cũng từng đã có một cơn ác mộng tương tự khi đang co quắp đầu vào lòng mình ngủ thì bỗng thấy bị bôi thuốc diệt trứng và chấy sợ quá không sao ngủ được. Tiếng hú của tôi có khi không phải là vì sợ hãi mà thỉnh thoảng lại là tiếng cầu cứu để ai đó làm ơn đánh thức mình dậy. Trong ký túc xá không có đủ thời gian để làm mọi việc, nên khi tôi vừa kêu là đã có một loạt chiếc gối từ các giường xung quanh quăng đầy vào người tôi. Tỉnh dậy tôi vẫn thở hổn hển, nhưng tim tôi thì đập rộn ràng vì niềm hạnh phúc được sống.

Điều hay nhất của trường nội trú là những buổi đọc truyện nghe chung trước khi ngủ. Khởi nguồn việc này là sáng kiến của thầy Carlos Julio Calderon cho đọc to một truyện ngắn của Mark Twain mà sáng sớm hôm sau học sinh năm thứ năm phải học chuẩn bị cho bài kiểm tra đột xuất. Từ trong phòng ngủ của thầy giáo trực, thầy Calderon đã đọc to bốn trang giấy cho những học sinh chưa có thời gian xem truyện này ghi chép lại ý chính. Lần đọc truyện đó làm học sinh rất thích thú nên trường đã quyết định giữ lại thói quen tối nào cũng tổ chức đọc truyện trước khi ngủ. Lúc đầu, việc này cũng không dễ vì thế nào cũng có thầy giả nhân giả nghĩa nào đó đòi chọn sách này hoặc bỏ sách kia, làm cho học sinh bực bội, phản đối nên cuối cùng phải theo ý kiến của học sinh lớn tuổi.

Bắt đầu với nửa giờ. Thầy giáo trực đọc từ phòng đầu ký túc xá, lúc đầu chúng tôi tìm cách phản đối bằng tiếng ngáy, giả vờ hay cố ý. Sau đó kéo dài đến một tiếng đồng hồ tùy theo truyện hay hay không. Về sau, người đọc không còn là các thầy nữa mà được thay bằng học sinh chia nhau trực từng tuần một. Những truyện hấp dẫn tất cả chúng tôi khởi đầu bằng bộ Nhà thờ Đức Bà và Người đàn ông đeo mặt nạ bằng sắt. Có điều tôi vẫn chưa lý giải được là sức hấp dẫn tuyệt vời của bộ Ngọn núi kỳ diệu của Thomas Mann, đến mức thầy hiệu trưởng phải can thiệp buộc chúng tôi không thức thâu đêm để chờ nụ hôn giữa Hans Castorp và Clawdia Chauchat. Hoặc cảnh tất cả chúng tôi ngồi chồm hổm trên giường để nghe không sót một lời nào từ cuộc đấu khẩu đầy chất triết lý giữa Naptha và người bạn Settembrini. Buổi đọc tối hôm ấy phải kéo dài hơn một tiếng đồng hồ và kết thúc bằng loạt vỗ tay vang dội cả ký túc xá.

Đối với tuổi thanh niên của tôi, một trong những ẩn số lớn nhất chính là thầy hiệu trưởng - ông Alejandro Ramos - mà tôi được gặp khi mới đến trường. Ông là người khô khan và cô độc lúc nào cũng đeo cặp kính dầy như người bị mù và mỗi lời nói của ông đều có quyền uy như một nắm đấm bằng sắt. Hàng ngày vào lúc bảy giờ sáng, từ chỗ trú ẩn của mình, ông đi xuống kiểm tra việc vệ sinh cá nhân của chúng tôi trước khi bước vào phòng ăn. Ông thường mặc bộ đồ màu sặc sỡ rất nghiêm chỉnh, cổ cồn như những ngôi sao điện ảnh với cà vạt bắt mắt và giày da bóng lộn. Phát hiện bất cứ một thiếu sót nào trong việc vệ sinh cá nhân của chúng tôi ông đều bắt quay về ký túc xá làm lại. Thời gian còn lại trong ngày ông lại tự giam mình trong văn phòng ở tầng hai và chúng tôi chỉ có thể thấy ông lần nữa vào đúng bảy giờ sáng hôm sau hoặc thấy ông đi mười một bước từ văn phòng đến phòng học của lớp sáu nơi ông sẽ lên lớp dạy môn toán ba lần một tuần. Học sinh của thầy nói ông là một thiên tài toán học và một người rất dí dỏm khi giảng bài; chúng vừa kinh ngạc về sự hiểu biết uyên thâm của ông vừa lo sợ trước những bài kiểm tra của môn toán học.

Không lâu khi đến trường tôi phải soạn một bài diễn văn khai mạc một cuộc mít-tinh chính thức của trường. Đại bộ phận giáo viên thông qua đề tài của tôi, nhưng đều thống nhất là lời cuối cùng trong những trường hợp này phải là thầy hiệu trưởng. Ông ở phòng cuối cầu thang trên tầng hai, nhưng tôi đau khổ thấy quãng đường đến đó dài như chuyến đi vòng quanh thế giới. Tối hôm trước tôi đã trằn trọc mãi mới ngủ, sáng sớm phải đeo cà vạt và chẳng còn bụng dạ nào thưởng thức bữa điểm tâm. Tôi gõ cửa văn phòng hiệu trưởng rụt rè đến mức mãi lần thứ ba ông mới ra mở và nhường bước cho tôi vào mà không hề chào hỏi câu nào. Cũng may, vì tôi sẽ không còn đủ giọng nói để đáp lại, có lẽ một phần vì ông cứ im lặng nhưng cái chính là vì vẻ uy nghi, ngăn nắp và những nét đẹp của văn phòng. Thầy hiệu trưởng từ tốn chờ cho tôi trấn tĩnh lại. Sau khi chỉ cho tôi ngồi vào chiếc ghế trước bàn làm việc, ông ngồi vào chỗ của mình.

Tôi đã chuẩn bị những lời giải thích về cuộc viếng thăm của mình cẩn thận không khác gì bài diễn văn. Ông im lặng lắng nghe, gật đầu sau từng đoạn, nhưng vẫn chưa nhìn thẳng vào tôi mà chỉ quan sát tờ giấy đang run bần bật trên hai tay tôi. Đến đoạn vui vẻ tôi cố trình bày thật hay để mong thầy mỉm cười, nhưng thật vô ích. Không những thế tôi còn tin chắc là thầy đã biết trước mục đích việc đến thăm của tôi nhưng ông vẫn cứ bắt tôi phải làm thủ tục tự giải thích lấy.

Khi tôi nói xong, ông liền giơ hai tay qua bàn đón lấy bản thảo. Ông bỏ kính ra để chăm chú đọc và chỉ dừng lại để dùng bút máy sửa hai chỗ. Ông đeo lại cặp kính rồi không nhìn vào mắt tôi, nói với giọng khô khan làm tim tôi giật thót:

- Ở đây có hai vấn đề - ông nói. - Em viết: “Hòa hợp với cây trái phong phú dồi dào (exhuberante) của đất nước chúng ta mà thế giới đã được biết đến nhờ nhà bác học người Tây Ban Nha Jose Celestino Mutis trong thế kỷ XVIII, chúng ta đang sống trong bầu không khí thiên đường (paradisíaco) ở ngôi trường này”. Nhưng chữ exuberante phải viết không có chữ h và chữ paradisiaco không mang dấu trọng âm.

Tôi cảm thấy nhục nhã. Tôi không có câu trả lời đối với nhận xét đầu nhưng ở nhận xét thứ hai thì tôi tin là mình đúng. Tôi lập tức dùng hơi sức còn lại trả lời:

- Thưa thầy hiệu trưởng, xin thầy tha lỗi, nhưng từ điển cho phép chữ paradisíaco mang dấu trọng âm hoặc không cũng được, nhưng em thấy mang trọng âm ở âm tiết thứ ba từ dưới lên đọc vang hơn.

Chắc là ông cũng thấy bị xúc phạm như tôi nên dù chưa nhìn tôi nhưng ông với tay lấy cuốn từ điển và không nói năng gì. Tim tôi đập thình thịch vì tôi thấy đó là cuốn Atlas của ông ngoại nhưng mới hơn và sáng bóng, có lẽ vẫn chưa được dùng đến. Ngay lần giở đầu tiên, ông đã tìm đúng chỗ, đọc đi đọc lại rồi hỏi tôi mà mắt vẫn nhìn vào trang từ điển:

- Em đang học năm thứ mấy?

- Năm thứ ba ạ - tôi trả lời.

Ông gập mạnh cuốn từ điển và lần đầu tiên nhìn thẳng vào mắt tôi:

- Khá lắm - ông nói. - Cứ thế mà tiến nhé.

Từ hôm đó, chỉ còn thiếu điều là các bạn cùng lớp phong tôi làm anh hùng và từ đó gọi đùa tôi là “anh chàng vùng biển nói chuyện được với hiệu trưởng”. Tuy vậy, điều tệ hại trong cuộc tiếp kiến này là một lần nữa tôi phải đối mặt với bi kịch cá nhân về quy tắc chính tả. Tôi chưa bao giờ nắm chắc được quy tắc này. Có thầy giáo cố trấn an tôi khi nói rằng người anh hùng Simon Bolivar đạt được vinh quang tột đỉnh không phải là nhờ vào trình độ kém cỏi về chính tả của ông ấy. Những người khác thì an ủi rằng đó cũng là điểm yếu của nhiều người khác. Thậm chí đến tận ngày hôm nay, với mười bảy cuốn sách đã được xuất bản, tôi vẫn vinh hạnh được những người sửa mo-rát coi lỗi chính tả của tôi là lỗi của người đánh máy mà thôi.

Các cuộc vui ở thị trấn Zipaquirá nói chung là theo sở thích và cách sống của từng người. Những mỏ muối là điểm đến hấp dẫn của khách du lịch trong những ngày cuối tuần. Còn những đứa học sinh nội trú quê ở vùng biển như chúng tôi không chỉ xứng danh là bọn to mồm và quậy phá còn nổi bật vì tài khiêu vũ như những nghệ sĩ thực thụ và rất giỏi trong những trò yêu đương cuồng nhiệt.

Hôm có tin đại chiến thế giới kết thúc chúng tôi ào cả ra đường mang theo biểu ngữ, cờ xí chào mừng thắng lợi. Ai đó mời một tình nguyện viên lên phát biểu và tôi không hề đắn đo gì liền đứng trên ban công của câu lạc bộ đối diện với quảng trường lớn và ứng khẩu một bài diễn văn mà mọi người cứ tưởng là đã học thuộc lòng từ trước.

Đó là bài diễn văn ứng khẩu duy nhất trong quãng thời gian đầu tiên trong đời tôi. Tôi kết thúc bài nói bằng những lời biết ơn xúc động dành cho Bốn vĩ nhân, trong đó người được chú ý nhất đối với thính giả ở quảng trường là vị Tổng thống Mỹ đã chết trước đó không lâu: “Franklin Delano Roosevelt, cũng như el Cid Campeador (nhân vật chính trong bản anh hùng ca dân gian Tây Ban Nha - ND) vẫn biết giành thắng lợi ngay sau khi đã chết”. Câu nói đó đã bay lơ lửng trong thị trấn suốt mấy ngày, được viết lại trong các biểu ngữ ở đường phố và dưới tranh ảnh của Roosevelt treo trong tủ kính ở một số cửa hàng. Như vậy thành tích trước công chúng đầu tiên của tôi không phải như là một nhà thơ, hay một nhà văn mà là một nhà diễn thuyết và tệ hơn nữa lại là một diễn giả chính trị. Từ đó trở đi không có cuộc mít-tinh nào ở trong trường mà người ta không bắt tôi lên bục nhưng với những bài diễn văn đã được viết sẵn và sửa chữa đến phút cuối cùng.

Cùng với thời gian, sự dạn dĩ đến trơ trẽn ấy đã giúp tôi giảm bớt nỗi sợ sân khấu dù ở trong những đám cưới lớn cũng như ở các quán nhậu của người địa phương mà bao giờ chúng tôi cũng kết thúc bằng việc bò lê bò càng dưới đất; dù ở nhà của Berenice - một cô bé xinh đẹp và may mắn đã không kết hôn với tôi vì đã yêu điên cuồng người khác - hay ở nhà cô nhân viên điện tín Sarita mà tôi không bao giờ quên được vì đã truyền theo cách trả chậm những bức điện khốn khổ của tôi mỗi khi bố mẹ chưa kịp gửi phụ cấp. Cô gái tốt bụng đó đã nhiều lần ứng tiền trước giúp tôi qua cơn hoạn nạn. Tuy nhiên người tôi ít nhớ nhất, không phải là tình yêu của ai mà là nàng tiên của những kẻ nghiện thơ ca. Cô tên là Cecilia Gonzalez Pizano, một phụ nữ thông minh tuyệt đỉnh, có cảm tình cá nhân và tư tưởng tự do, sinh trưởng trong một gia đình bảo thủ nòi và có một trí nhớ siêu nhiên đối với thơ ca. Cô sống với bà dì quý phái không chồng trong một căn nhà kiểu thuộc địa giữa vườn cây vòi voi đối diện với cổng lớn của nhà trường. Lúc đầu, mối quan hệ chỉ bó hẹp trong các cuộc thi thơ, nhưng sau đó Cecilia trở thành người bạn quý thực sự của tôi, người thường cười ngặt nghẽo đến chết ngất và hay lẻn vào lớp học văn của thầy Calderon với sự tòng phạm của tất cả mọi người.

Thời ở Aracataca tôi đã từng mơ ước có cuộc sống tốt đẹp được ôm chiếc đàn phong cầm đi hát từ hội chợ này qua hội chợ khác và tôi cứ nghĩ đó là cách thức xưa nhất và hạnh phúc nhất để kể một câu chuyện. Nếu mẹ đã phải từ bỏ chiếc piano để có con và bố đã phải xếp chiếc đàn violon để có thể làm việc quần quật nuôi nấng chúng tôi thì tất nhiên đứa con lớn của hai người phải biết tấm gương đó để tránh bị chết đói vì âm nhạc. Việc tôi thỉnh thoảng tham gia vào ban nhạc của trường như là một ca sĩ hoặc là nhạc công chơi đàn ghi ta chẳng qua chỉ chứng tỏ rằng tôi có đôi tai biết thưởng nhạc để học đàn tốt hơn là thanh nhạc.

Không có một dịp kỷ niệm ngày lễ yêu nước hoặc một cuộc mít tinh trang trọng nào ở trường mà không có sự tham gia của tôi, cho dù dưới bất cứ hình thức nào. Đương nhiên, người cộng sự đắc lực của tôi bao giờ cũng là Guillermo Quevedo Zornosa, nhạc trưởng nổi tiếng của dàn nhạc thị trấn, tác giả của bài hát “Hoa mồng gà” được giới trẻ lúc bấy giờ rất yêu thích và không bao giờ thiếu trong mục lục của các đêm nhạc. Chủ nhật nào sau lễ Misa tôi cũng là một trong những người đầu tiên đi qua công viên để tham dự buổi hòa nhạc ngoài trời của ông mà thường bắt đầu bằng bản “La gazza ladra” và kết thúc bằng tiết mục đồng ca bản “Il trovatore” . Không bao giờ nhạc sĩ Quevedo được biết và tôi cũng không bao giờ dám nói với ông rằng ước mơ lúc bấy giờ của tôi là được như ông.

Khi nhà trường cần người xung phong đi học một lớp nhập môn âm nhạc thì Guillermo Lopez Guerra và tôi là những người đầu tiên giơ tay. Lớp học được tổ chức vào buổi sáng thứ Bảy do giáo sư Andres Pardo Tovar, nhạc trưởng của chương trình nhạc cổ điển đầu tiên của đài phát thanh Tiếng nói của Bogota phụ trách. Cả lớp không chiếm đến một phần tư phòng ăn có điều hòa nhiệt độ, nhưng ngay lập tức chúng tôi bị mê hoặc bởi đôi môi của một vị thánh. Ông là một người thực sự thanh lịch với bộ vét màu đen, giọng nói uốn lượn và cử chỉ chậm rãi. Chiếc máy hát quay tay, mà nếu xuất hiện bây giờ thì sẽ được coi là một thứ đồ cổ kỳ lạ, đã được ông điều khiển rất thành thạo với tình thương của một chuyên gia dạy hải cẩu. Vì coi chúng tôi như là những người mù nhạc, ông bắt đầu bằng bản Ngày hội hóa trang của những con vật của Saint-Sans với những lời giảng giải rất uyên thâm về cách sống của từng loài thú. Sau đó ông đánh những nốt nhạc Pedro và con sói của Prokófiev. Điều tệ hại của ngày hội sáng thứ Bảy ấy là nó đã dạy cho tôi rằng âm nhạc của những nhạc sĩ vĩ đại là một trò chơi bí ẩn và tôi phải mất nhiều năm nữa để không so sánh cực đoan giữa âm nhạc hay và âm nhạc dở.

Tôi không có dịp nào được tiếp xúc với thầy hiệu trưởng cho đến tận năm sau khi ông dạy môn hình học ở lớp thứ tư. Mười giờ sáng ngày thứ Ba đầu tiên ông bước vào lớp, nháy mắt chào nhưng không nhìn ai cả, dùng giẻ lau bảng sạch hết mọi bụi phấn. Rồi quay lại phía chúng tôi, chưa điểm danh đã hỏi ngay Alvaro Ruiz Torres:

- Thế nào là một điểm?

Trò chưa kịp trả lời thì vị giáo sư môn khoa học xã hội đã mở cửa thông báo với thầy hiệu trưởng là có điện khẩn của Bộ Giáo dục. Thầy hiệu trưởng vội đi trả lời điện thoại và không quay trở lại lớp học. Không bao giờ nữa, vì đó là cú điện thoại báo đã có người thay vị trí hiệu trưởng của ông, chức vụ mà ông đã đảm nhiệm một cách xuất sắc trong suốt năm năm.

Vị hiệu trưởng mới là nhà thơ Carlos Martin, người trẻ nhất trong số các nhà thơ tài ba thuộc nhóm Đá và Trời mà trước đây Cesar del Valle đã giúp tôi phát hiện ra khi còn ở Barranquilla. Ông mới ba mươi tuổi và là tác giả của ba cuốn sách mới được xuất bản. Tôi đã biết khá nhiều bài thơ của ông và đã một lần nhìn thấy ông trong một hiệu sách ở Bogota, nhưng lúc đó tôi không có cớ gì để hỏi chuyện ông và cũng không có sách của ông để xin chữ ký. Một hôm, vào thứ Hai, ông bỗng xuất hiện vào giờ nghỉ ăn trưa. Chúng tôi không nghĩ là ông sẽ đến sớm như vậy. Trông ông giống một luật sư hơn là một nhà thơ với áo sọc, trán cao và ria mép rậm như vẻ thơ của ông. Ông đi thẳng đến nhóm học sinh gần nhất, chìa tay cho chúng tôi:

- Xin chào, tôi là Carlos Martin.

Vào thời đó tôi rất say sưa đọc văn xuôi trữ tình mà Eduardo Carranza thường in trên chuyên mục văn học của báo El Tiempo và trên tạp chí Sabado. Tôi cho rằng thể loại này chịu ảnh hưởng của cuốn Con lừa Platero và tôi của Juan Ramon Jimenez (1881-1958, Nhà thơ Tây Ban Nha, giải Nobel văn chương năm 1956 - ND) lúc đó rất được các nhà thơ trẻ yêu chuộng. Nhà thơ Jorge Rojas nhờ được thừa hưởng một gia tài nho nhỏ nên đã bỏ tiền in các tập thơ của các nhà thơ khác và tập hợp họ thành một nhóm.

Các mối quan hệ ở trong trường cũng có thay đổi về cơ bản. Hình ảnh kỳ quái của thầy hiệu trưởng trước đã được thay bằng sự hiện diện mới cụ thể hơn tuy vẫn giữ một khoảng cách nhất định. Ông hủy bỏ những cuộc kiểm tra thông thường về những chuyện vệ sinh cá nhân và những quy tắc vô bổ khác và thỉnh thoảng còn nói chuyện với học sinh trong giờ nghỉ ban đêm.

Phong cách mới đã đặt tôi vào đúng phương hướng của mình. Có lẽ thầy Calderon đã nói về tôi với thầy hiệu trưởng nên ngay những đêm đầu tiên ông đã thăm dò mối quan hệ của tôi với thơ ca và tôi đã xổ hết tất cả những gì có ở trong đầu. Ông hỏi tôi đã đọc Kinh nghiệm văn chương chưa, một tác phẩm của Alfonso Reyes đang gây được tiếng vang lớn trên văn đàn. Tôi thú nhận là chưa và thế là ngày hôm sau ông đưa cho tôi. Tôi đọc ngấu nghiến phân nửa cuốn sách trong ba buổi học trên lớp liên tục và phần còn lại thì trong giờ nghỉ ở sân bóng đá. Tôi vui mừng thấy rằng một nhà phê bình văn học uy tín như vậy mà dành thời gian nghiên cứu kỹ lời các bài hát của Agustin Lara cũng ngang những bài thơ cổ điển của Garcilaso và chính ông đã nói như thế này: “Những bài hát được nhân dân ái mộ của Agustin Lara không phải là những bài hát dân gian”. Tôi như được gặp những bài thơ hòa tan trong món xúp của đời sống hàng ngày.

Martin đã bỏ phòng hiệu trưởng sang trọng và lập văn phòng của mình với cánh cửa rộng mở ngay trong vườn chính, gần hơn với những cuộc đàm đạo văn chương của chúng tôi sau bữa ăn tối. Một thời gian dài ông sống với vợ và các con trong một ngôi nhà cũ kỹ xây từ thời thuộc địa nhưng được giữ gìn bảo quản tốt ngay ở góc phố của quảng trường chính. Thư phòng của ông chứa đầy sách mà những độc giả quan tâm đến xu hướng đổi mới thời đó phải mơ ước. Những ngày cuối tuần bạn bè từ Bogota, đặc biệt những người thuộc nhóm Đá và Trời thường đến thăm ông tại ngôi nhà này. Một lần vào Chủ nhật tôi và Guillermo Lopez Guerra có việc phải đến nhà ông. Lúc này Eduardo Carranza và Jorge Rojas - hai ngôi sao tỏa sáng trên bầu trời thi ca, đang có mặt ở đó. Thầy hiệu trưởng ra hiệu nhanh cho chúng tôi ngồi xuống để không làm ngắt quãng cuộc nói chuyện. Hai chúng tôi ở đó suốt nửa giờ mà không hiểu một lời nào vì các nhà thơ đang bàn luận về cuốn sách của Paul Valéry - người mà trước đó chúng tôi chưa hề được nghe nói đến. Tôi đã thấy Carranza một lần ở hiệu sách và ở quán cà phê tại Bogota, tôi nhận ra ông ngay qua âm sắc và cách nói lưu loát rất hợp với phong cách của một nhà thơ trong bộ quần áo ngầu ngầu và bụi. Ngược lại, tôi chưa thể nhận ra ngay Jorge Rojar vì cách ăn mặc và dáng dấp của vị bộ trưởng, cho mãi đến khi Carranza gọi tên ông tôi mới biết. Tôi mong được chứng kiến một cuộc thảo luận về thơ ca giữa ba nhà thơ lớn nhất, nhưng việc đó đã không xảy ra. Cuối buổi nói chuyện, thầy hiệu trưởng đặt tay lên vai tôi và nói với các vị khách của ông:

- Đây là nhà thơ lớn của chúng ta.

Tất nhiên đó chỉ là lời tán dương lịch sự của ông nhưng tôi vẫn cảm thấy đột ngột. Carlos Martin bảo chúng tôi chụp bức ảnh chung với hai nhà thơ lớn, và đúng là ông đã chụp nhưng tôi không có lấy một tin tức gì về bức ảnh cho đến tận nửa thế kỷ sau tôi mới được thấy nó ở nhà bên bờ biển xứ Catalán nơi ông lui về hưởng những năm tháng hưu trí hạnh phúc.

Một làn gió đổi mới đã làm đảo lộn mọi thứ vốn được coi là nguyên tắc trong nhà trường. Đài thu thanh, thứ mà trước đây chúng tôi chỉ được dùng để mở nhạc phục vụ cho các cuộc khiêu vũ giữa đám đàn ông với nhau, nay dưới thời của Carlos Martin đã trở thành một phương tiện tuyên truyền xã hội và lần đầu tiên bọn tôi được nghe và bàn bạc về bản tin đài phát về đêm. Hoạt động văn hóa cũng được tăng cường với việc mở một trung tâm văn học và xuất bản một tờ báo. Khi chúng tôi lên danh sách những ứng cử viên có năng khiếu văn chương thì được một con số mà chúng tôi dùng đặt tên cho nhóm: trung tâm văn học Mười ba. Chúng tôi coi số này là một vận may vì nó thách thức với quan niệm mê tín bấy lâu nay. Đám học sinh này có sáng kiến quy định mỗi tuần chỉ gặp gỡ nhau một lần để nói chuyện về văn chương nhưng trên thực tế thì chúng tôi chẳng làm gì khác ngoài việc này mỗi khi có thời gian rỗi. Mỗi người tự mang những gì mình có đến đọc và để mọi người góp ý kiến. Tôi thường đọc các bài soneto (bài thơ xônê mười bốn câu và hai đoạn ba câu - ND) được ký dưới bút danh Javier Garcés không phải để chơi trội mà để tự giấu mình. Đó chỉ là những bài tập về kỹ thuật thơ ca không có cảm hứng và tham vọng gì cả, và cũng bởi không chắp cánh từ tâm hồn nên nó không có giá trị văn chương. Khởi đầu tôi chỉ bắt chước thơ của Quevedo, Lope de Vega và cả của Garcia Lorca - những tác giả của loại thơ tám chữ rất tự nhiên nên chỉ cần mào đầu xong là nó cứ tuôn ra tuồn tuột theo quán tính. Tôi đi khá xa trong chuyện bắt chước này đến mức tự đặt kế hoạch nhại lại theo thứ tự từng bài một cho đủ bốn mươi bài soneto của Garcilaso de la Vega. Tôi còn viết các bài thơ theo yêu cầu của các bạn học sinh nội trú để họ có quà tặng người yêu ngày Chủ nhật. Một trong những cô gái ấy còn cảm động đọc cho tôi nghe những vần thơ mà người tình đã tự nhận là viết tặng riêng cho cô.

Thầy Carlos Martin còn cho chúng tôi một nhà kho nhỏ trong vườn thứ hai của trường có cửa cài kín đáo. Chúng tôi gồm năm thành viên có nhiệm vụ chuẩn bị cho cuộc họp sắp tới. Không có ai trong số bốn người theo con đường văn chương sau này nhưng khi đó chúng tôi cũng hăm hở thử khả năng của từng người. Chúng tôi thảo luận về tác phẩm của người khác và tranh cãi quyết liệt, chọc tức nhau cứ y như trong một trận đá bóng. Một hôm, Ricardo Gonzalez Ripoll phải bỏ cuộc cãi vã đi ra ngoài thì gặp thầy hiệu trưởng đang ghé tai vào cửa lắng nghe cuộc tranh luận ồn ào. Chắc là ông tò mò vì trước đó ông không tin rằng chúng tôi dành thời gian rỗi cho văn học.

Cuối tháng Ba chúng tôi được tin thầy cựu hiệu trưởng - ngài Alejandro Ramos - đã tự sát bằng viên đạn bắn vào đầu mình ở Công viên quốc gia Bogota. Không ai tin là chỉ vì tính thích cô độc hay vì lý do mắc bệnh trầm cảm mà thầy đã tự tử ngay dưới tượng đài Tướng quân Rafael Uribe Uribe, một chiến binh đã từng tham gia bốn cuộc nội chiến và là một chính khách theo phái tự do đã bị một kẻ cuồng tín dùng rìu sát hại ngay ở vườn trong trụ sở Quốc hội. Một đoàn đại biểu của trường do thầy hiệu trưởng mới dẫn đầu đã tham gia tang lễ của thầy Alejandro Ramos. Sự kiện này được đánh dấu như lời chia tay với một thời kỳ đã qua.

Trong trường nội trú người ta ít quan tâm đến nền chính trị quốc gia. Hồi ở nhà ông bà ngoại, tôi thường nghe nói rằng sự khác nhau duy nhất giữa hai đảng sau cuộc chiến tranh Một