Chương 5
Tôi không bao giờ tưởng tượng được rằng chỉ chín tháng sau khi tốt nghiệp tú tài, truyện ngắn đầu tiên của mình lại được in trên tờ phụ trương “Cuối tuần” của El Espectador ở Bogota - một nhật báo có tiếng là hay và nghiêm túc nhất thời bấy giờ. Bốn mươi hai ngày sau, người ta cho in truyện ngắn thứ hai. Tuy nhiên, điều bất ngờ nhất đối với tôi lại là một bài viết ngắn có ý ca ngợi tôi của Eduardo Zalamea Borda - Phó Tổng biên tập tờ báo kiêm phụ trách tờ phụ trương văn học, một nhà phê bình sáng suốt nhất Colombia thời bấy giờ và là người đã phát hiện ra rất nhiều các tài năng văn học mới.
Đó là cả một quá trình hết sức bất ngờ mà không dễ gì kể ra được. Trước đó, vào đầu năm, tôi đã ghi danh vào học khoa luật trường Đại học quốc gia Bogota như đã giao hẹn với bố mẹ. Tôi sống ở khu trung tâm thành phố trong một nhà trọ tại đường Florián mà phần lớn khách trọ là sinh viên đến từ các vùng ven bờ biển Đại Tây Dương. Vào các buổi chiều rỗi rãi, thay vì đi làm thêm để kiếm sống, tôi lại vùi đầu vào những cuốn sách và ở lỳ trong phòng ngủ hoặc lân la đến các tiệm cà phê, nơi người ta cho phép. Đó là những cuốn sách do may mắn hay ngẫu nhiên mà có, bởi vì những người bạn có điều kiện mua được sách thường cho tôi mượn với thời hạn hết sức hạn chế nên tôi phải thức thâu đêm để đọc và trả lại họ đúng hạn. Trái với những cuốn tôi đọc hồi ở trường phổ thông Zipaquirá vốn đã xứng đáng được đặt kính cẩn bên cạnh thi hài các tác giả nổi tiếng trong lăng mộ, những cuốn sách lúc này đã được chúng tôi vồ vập và ngấu nghiến như được ăn những chiếc bánh mì nóng hổi, và chúng vừa được phát hành ở Buenos Aires (thủ đô nước Argentina - ND) sau một thời gian dài bị ngưng trệ do cuộc Đại chiến lần thứ hai ở châu Âu. Thế là tôi may mắn phát hiện ra những nhà văn nổi tiếng Jorge Luis Borges, D.H. Lawrence và Aldous Huxley, Graham Greene và Chesterton, William Irish và Katherine Mansfield cùng nhiều người khác nữa.
Các cuốn sách mới này được bày trên những nóc tủ khó có thể chạm tới được trong các hiệu sách, nhưng một số bản in vẫn được lưu hành trong các quán cà phê sinh viên, trên thực tế là những trung tâm năng động truyền bá văn hóa giữa những sinh viên đại học đến từ các tỉnh lẻ. Một vài ân huệ của chủ quán hoặc của người bán hàng tin cẩn đã trở thành yếu tố quyết định cứu vớt quá trình học đại học của chúng tôi. Nhiều nhà chuyên môn của đất nước có lẽ đã nhờ ơn họ hơn là nhờ những vị đỡ đầu vô hình.
Tôi thích đến El Molino (Cối xay gió), quán cà phê của các nhà thơ lớn tuổi, cách nhà trọ của tôi độ hai trăm mét, ngay góc đại lộ
Jimenez de Quesada cắt giao với đường số Bảy. Nơi đây người ta không cho phép sinh viên đặt hay giữ bàn cố định nhưng qua các câu chuyện văn chương nghe trộm được từ các bàn bên cạnh mà tôi đã có thể học được nhiều điều và tốt hơn so với những thứ tôi đọc được trong giáo trình. Đó là một ngôi nhà rất rộng mang đậm phong cách Tây Ban Nha với những bức tường được chính họa sĩ Santiago Martinez Delgado trang trí bằng các bức tranh vẽ miêu tả cuộc chiến của Don Quijote chống lại các cối xay gió. Mặc dù không có chỗ được giữ sẵn, nhưng tôi thường nhờ những người hầu bàn bố trí chỗ thật gần với thầy Leon de Greiff râu rậm, hay gầm gừ, dễ mến - người thường bắt đầu các cuộc trò chuyện với các nhà văn nổi tiếng nhất lúc bấy giờ vào lúc chiều tà và kết thúc ngập ngụa trong men rượu mạt hạng với đám học trò môn cờ vua vào lúc nửa đêm. Phàm đã là danh nhân, nghệ sĩ của cả nước thì đều ngồi vào những cái bàn này, và chúng tôi giả chết ở bàn để không bỏ qua một lời nào của họ. Mặc dù họ thường nói chuyện nhiều về đàn bà hoặc các mưu mô chính trị hơn là về nghệ thuật và nghề nghiệp của mình, nhưng bao giờ cũng có nhiều điều đáng học. Những người chăm chỉ đến nghe nhất là cánh sinh viên đến từ các vùng bờ biển Đại Tây Dương, không phải vì thói địa phương chủ nghĩa muốn chống lại người bản địa mà chủ yếu là vì cùng chung một đam mê đọc sách đến vô bờ. Jorge Alvaro Espinosa, một sinh viên khoa luật đã dạy tôi lang thang hành trình trong Kinh Thánh và chỉ cho tôi học thuộc lòng tên gọi đầy đủ của những người trong hội văn nghệ Job, một hôm đã đặt lên bàn một cuốn sổ tay ghi chép vừa lấy được rồi phán một câu với đầy vẻ uy quyền của vị giám mục:
- Đây là một quyển Kinh Thánh khác.
Đó chính là cuốn Ulises của James Joyce mà tôi đã đọc từng đoạn và từng mẩu cho đến giới hạn cuối cùng của lòng kiên nhẫn.
Nhiều năm sau, khi đã là người chín chắn hơn, tôi nghiêm túc đọc lại cuốn sách này và đó không chỉ là sự khám phá mới một thế giới riêng mà tôi không nghĩ nó đã có sẵn trong người mình, hơn thế nữa, đó là sự hỗ trợ kỹ thuật vô giá cho tự do ngôn từ cũng như sự vận dụng thời gian và cấu trúc đối với các cuốn sách của tôi.
Một trong những bạn cùng phòng của tôi là Domingo Manuel Vega - anh sinh viên ngành y quen tôi từ lúc ở Sucre và cũng là người rất say mê đọc sách. Một người khác là anh họ của tôi, anh Nicolas Ricardo, con cả của bác Juan de Dios, người luôn giữ gìn gia phong của chúng tôi. Một tối, Vega trở về với ba cuốn sách vừa mua và cho tôi mượn một cuốn bất kỳ như mỗi lần vẫn làm để giúp cho tôi chóng buồn ngủ. Nhưng lần này kết quả lại ngược hẳn: tôi không bao giờ còn có thể ngủ yên như trước nữa. Đó là cuốn Hóa thân của Franz Kafka, trong bản dịch tự do của Borges do nhà xuất bản Losada ở Buenos Aires ấn hành, đã định hướng con đường mới trong cuộc đời tôi, và ngày nay là một trong những biểu hiện vĩ đại trong văn học của thế giới: “Một buổi sáng khi tỉnh dậy, sau một giấc ngủ bất an, Gregorio Samsa thấy mình biết thành một con bọ kinh khủng”. Đó là những cuốn sách bí hiểm mà những điểm nhấn của nó không những rất khác mà nhiều khi còn ngược lại với tất cả những gì tôi đã biết cho đến lúc đó. Không nhất thiết phải minh chứng cho các sự việc: chỉ cần tác giả viết nó ra cho đúng là đủ, không cần phải có bằng chứng gì khác hơn là chính quyền uy về tài năng và quyền lực trong tiếng nói của ông ta. Đó là nàng Sêhêrazat mới, nhưng không phải trong thế giới ngàn xưa nơi cái gì cũng có thể làm được, mà ở trong một thế giới khác không cứu chữa được nữa, nơi mọi thứ đều đã mục ruỗng hết.
Đọc xong cuốn Hóa thân, trong tôi vẫn cháy bỏng niềm khát khao không cưỡng nổi khi được sống trong thiên đường của người khác. Một ngày mới đột ngột đến với tôi trên chiếc máy thời gian xê dịch do Domingo Manuel Vega cho mượn, để tôi cố làm việc gì đó giông giống với viên chức tội nghiệp của Kafka bị biến thành con bọ hung khổng lồ. Những ngày tiếp theo tôi không đến trường đại học vì sợ phép tà thuật bị tan mất, và tôi tiếp tục đổ mồ hôi hột vì ghen tỵ cho đến khi Eduardo Zalamea Borda đăng một bài phàn nàn rằng thế hệ các nhà văn mới của Colombia không có một cái tên nào đáng nhớ và nhìn về tương lai cũng chưa thấy có gì sáng sủa hơn. Tôi không biết mình có quyền uy gì nhưng khi đọc bài viết đó, tôi có cảm giác bị xúc phạm và có ý định viết một truyện ngắn đã bị bỏ quên để minh chứng điều ngược lại. Tôi sắp xếp ý tưởng cốt truyện của một xác chết thông hiểu trong Hóa thân, nhưng giảm bớt độ bí ẩn và những thành kiến của môn bản thể học
Nhưng tôi vẫn cảm thấy không thật tự tin nên không dám xin ý kiến bất cứ ai trong số những bạn bè cùng ngồi uống cà phê. Thậm chí ngay cả với Gonzalo Mallarino, bạn cùng khoa luật, người đọc duy nhất của những trang văn xuôi trữ tình mà tôi viết ra để khỏa lấp sự buồn chán trong lớp học. Tôi đọc đi đọc lại, và sửa chữa thiên truyện ngắn nhiều lần đến mệt bã người và cuối cùng tôi viết một bức thư riêng gửi cho Eduardo Zalamea - người tôi chưa từng gặp mặt - mà nội dung của nó tôi đã không còn nhớ được một chữ nào nữa. Tôi cho tất cả vào một phong bì rồi tự mình đưa đến tòa soạn báo El Espectador. Người gác cổng cho phép tôi lên đến tầng hai để giao trực tiếp bức thư cho Zalamea, nhưng mới nghĩ đến đó, tôi đã lạnh toát cả người. Tôi để cả phong bì trên bàn của người gác cổng rồi bỏ trốn luôn.
Đó là vào ngày thứ Ba và tôi không lo lắng một tí gì về số phận truyện ngắn này, nhưng tin là nếu có được xuất bản thì chắc cũng còn lâu. Trong khi đó, tôi vẫn cứ lang thang hết quán cà phê này sang quán cà phê khác, tận hưởng những buổi chiều thứ Bảy, cho đến ngày 13 tháng Chín, khi tôi vừa bước vào quán El Molino thì thấy đập vào mắt tựa truyện ngắn của mình được in đậm rất to trên tờ El Espectador vừa mới xuất bản: “Sự nhẫn nhục thứ ba”.
Phản ứng đầu tiên của tôi là cảm giác tủi hổ và nhục nhã đến tột độ vì không có nổi năm xu trong túi quần để mua tờ báo. Đó là biểu tượng rõ nhất của cái nghèo, bởi vì còn rất nhiều nhu cầu tối thiểu của cuộc sống hàng ngày - ngoài tờ báo - đều có giá năm xu: vé xe điện, điện thoại công cộng, một tách cà phê, một lần đánh giày. Tôi chạy ào ra phố dưới trời mưa phùn dai dẳng mà không cần dùng vật gì che đỡ, nhưng ở tất cả các quán cà phê gần đó tôi không gặp được người quen nào cả để xin một đồng năm xu làm phúc. Ở nhà trọ, tôi cũng không gặp được ai trong cái buổi chiều thứ Bảy chết tiệt ấy, trừ bà chủ mà có gặp thì cũng như không, vì tôi đang nợ bà ta hai tháng tiền thuê nhà và dịch vụ, số tiền này gấp bảy trăm hai mươi lần đồng năm xu. Tôi quay ra phố, sẵn sàng làm bất cứ việc gì để kiếm được năm xu, thì tình cờ gặp một người đàn ông vừa từ xe taxi bước xuống trong tay đang cầm tờ El Espectador. Tôi đến trước mặt để xin ông cho tờ báo.
Thế là tôi đã có thể đọc được truyện ngắn đầu tiên của mình bằng chữ in với tranh minh họa của Hernan Merino, họa sĩ chính thức của tòa báo. Tôi đọc dấm dúi ở phòng ngủ của mình với trái tim loạn nhịp và đọc liền một hơi. Qua từng dòng chữ, tôi lại dần dần phát hiện cái quyền lực tàn phá của những con chữ in, bởi vì tôi bỗng thấy tất cả những gì được làm ra với tình yêu và nỗi đau - như là một bản sao chép thuần phục của một thiên tài tầm cỡ thế giới - chỉ là một khúc độc thoại rối rắm khó hiểu và vô giá trị, đứng được là nhờ hai hoặc ba câu đáng khích lệ mà thôi. Phải hai mươi năm sau tôi mới dám đọc lại lần thứ hai truyện này, và nhận xét của tôi lúc đó - đã có phần dịu đi vì thương hại - chẳng lấy gì làm mãn nguyện cho lắm.
Điều khiến tôi khó xử là chuyện một đám bạn bè đem cả đống báo ùa vào phòng với những lời khen ngợi ồn ào về truyện ngắn mà chắc là họ không tài nào hiểu. Trong số những bạn học ở trường đại học, một số thì đánh giá cao, một số thì không hiểu nó lắm, số khác thì có đủ lý do để không đọc quá dòng thứ tư, nhưng Gonzalo Mallarino, người có những nhận xét văn học khiến tôi phải luôn bội phục, đã ủng hộ truyện này hết mình.
Mong ước lớn nhất của tôi là nhận được phán quyết của Jorge Alvaro Espinosa, người có lưỡi dao phê bình đáng sợ nhất, thậm chí vượt ra cả ngoài phạm vi nhóm chúng tôi. Cảm giác của tôi lúc này thật trái ngược: muốn được gặp ông ngay lập tức để giải tỏa mối hồ nghi, nhưng đồng thời lại sợ đối mặt với ông. Ông biến mất cho đến tận thứ Ba, điều không có gì lạ đối với những con mọt sách, và khi xuất hiện ở quán El Molino, ông không bắt đầu nói về truyện ngắn mà lại nói về dũng khí của tôi:
- Tôi hình dung là cậu đã nhận ra cuộc chiến mà mình vừa nhảy vào - ông nói, đôi mắt màu lục của con rắn hổ mang nhìn xoáy vào mắt tôi. - Bây giờ cậu đã đứng vào tủ kính của những nhà văn có tên tuổi rồi, và phải làm nhiều việc nữa để xứng đáng với điều ấy.
Tôi như hóa đá vì lời nhận xét duy nhất đủ sức làm lay động sâu xa con người mình, tương tự như ý kiến của ông Zalamea Borda - Ulises. Nhưng trước khi ông ngừng lời, tôi đã xen vào nói trước cái điều mà vào lúc đó và ngay tận bây giờ tôi vẫn coi là sự thật:
- Cái truyện ngắn này như cứt.
Ông đáp lại là chưa có thể nói gì nhiều vì ông chỉ đủ thời gian đọc lướt qua. Nhưng ông giải thích cho tôi rằng dù truyện có tệ hại như tôi nói thì cũng chưa đến mức phải hy sinh một cơ hội bằng vàng mà cuộc đời vừa tạo ra cho chính tôi.
- Dù sao đi nữa thì nó cũng đã thuộc về quá khứ - ông kết luận. - Điều quan trọng là truyện tiếp theo.
Ông làm tôi hết sức buồn rầu. Tôi cứ như kẻ loạn trí, ngớ ngẩn cố đi tìm những lý lẽ ngược lại cho đến lúc phải chấp nhận là không nghe đâu được một ý kiến thông minh hơn lý lẽ của ông. Từ ý tưởng gợi ý của ông, có thể suy diễn mở rộng ra là đầu tiên phải có câu chuyện, sau đó là phong cách, nhưng hai điều này phụ thuộc vào nhau theo cái gậy kỳ ảo của các nhà văn cổ điển. Tôi hơi hứng thú với ý kiến được lặp đi lặp lại nhiều lần của ông rằng tôi cần phải đọc kỹ bất kỳ các tác phẩm của các nhà văn Hy Lạp, không chỉ Homero, người duy nhất tôi đã phải đọc trong chương trình phổ thông. Tôi đã hứa với ông như vậy và muốn ông nói thêm những tên tuổi khác, nhưng ông lại thay đổi đề tài sang cuốn Những thợ __đúc tiền giả của André Gide mà tôi đọc những ngày cuối tuần vừa qua. Tôi không bao giờ muốn nói với ông rằng có lẽ cuộc đàm đạo của chúng tôi đã giải tỏa những trăn trở trong cuộc sống của tôi.Tôi thức suốt đêm ấy để ghi chép cho thiên truyện sắp tới mà không có những khúc quanh của thiên truyện đầu tiên.
Tôi cũng ngờ rằng có những người nói về truyện ngắn này không phải vì thực sự xúc động - có lẽ là chưa đọc và chắc là không hiểu nó - mà chẳng qua thấy nó được đăng nổi bật khác thường trên một trang báo quan trọng. Để bắt đầu, tôi nhận thấy ngay hai nhược điểm lớn trong số những nhược điểm lớn nhất của mình: sự vụng về trong cách viết và sự thiếu hiểu biết về trái tim con người. Những điều này thể hiện quá rõ ràng trong truyện ngắn đầu tiên của tôi vốn đã là một mớ suy ngẫm trừu tượng cộng thêm sự lạm dụng những tình cảm hư cấu.
Lục tìm trong trí nhớ những tình huống trong đời thực để chuẩn bị viết truyện ngắn thứ hai, tôi chợt nhớ đến một trong những người phụ nữ đẹp nhất mà mình được quen biết lúc còn nhỏ, người đã nói muốn được ở trong con mèo có vẻ đẹp kỳ lạ đang nằm trong lòng bà ta. Tôi hỏi bà tại sao thì bà liền trả lời: “Vì nó đẹp hơn ta”. Thế là tôi có một điểm tựa cho thiên truyện ngắn thứ hai với một tựa đề hấp dẫn: Eva ở trong con mèo của mình. Phần còn lại, cũng giống như truyện thứ nhất, được hư cấu từ con số không, và chính vì lẽ đó - như hồi ấy chúng tôi thích nói - cả hai truyện đều mang trong nó mầm mống tự hủy hoại.
Truyện này cũng được đăng nổi bật như truyện đầu tiên vào thứ Bảy ngày 25 tháng 10 năm 1947 với tranh minh họa của ngôi sao đang lên trên bầu trời vùng Caribe: họa sĩ Enrique Grau. Tôi để ý là lần này bạn bè đón tiếp nó như một sự kiện bình thường của một nhà văn đã nổi tiếng. Ngược lại, tôi thì đau khổ vì những thiếu sót và nghi ngờ những thành công, nhưng vẫn giữ cho mình thường xuyên tỉnh táo. Mấy ngày sau, một cú sốc lớn đến với tôi khi Eduardo Zalamea, vẫn với bút danh thường ngày, cho đăng trên chương mục hàng ngày của ông ở báo El Espectador một bài phê bình. Ông đi thẳng ngay vào vấn đề: “Bạn đọc của những trang __‘Cuối tuần’, phụ trương văn học của tờ báo này, chắc đã nhận thấy sự xuất hiện của một tài năng mới, độc đáo, có cá tính mạnh mẽ”. Và tiếp theo: “Tưởng tượng mọi việc có thể xảy ra, nhưng lại biết cách diễn đạt một cách tự nhiên, giản dị, không uốn éo với viên ngọc mình vừa lấy được, là cả một việc mà không phải tất cả mọi chàng trai trẻ ở độ tuổi hai mươi mới tiếp xúc với văn học có thể làm được”. Rồi kết thúc không chút dè dặt: “Với García Márquez, một nhà văn mới, một tài năng đã ra đời”.
Bài viết đó đã là một cú sốc hạnh phúc nhưng đồng thời cũng làm lòng tôi bối rối vì Zalamea đã không để chừa cho tôi một đường thối lui nào cả. Mọi việc thế là đã an bài và tôi phải hiểu sự rộng lượng của ông như một lời kêu gọi lương tâm của tôi và phần còn lại của đời tôi. Bài viết cũng chứng tỏ Ulises đã phát hiện ra nhân thân của tôi qua một người đồng nghiệp trong Ban biên tập tòa báo của ông. Ngay tối hôm đó, tôi được biết người đồng nghiệp đó chính là Gonzalo Gonzalez, một người anh họ trong số những anh em thúc bá gần nhất của tôi, người từ năm mười lăm tuổi đã kiên trì viết bài với bút danh Gog cho chương mục trả lời thắc mắc của bạn đọc báo này, và ngồi chỉ cách bàn làm việc của Eduardo Zalamea có năm mét. Cũng may, ông Zalamea không tìm gặp tôi và tôi cũng không tìm ông. Tôi chỉ gặp ông một lần ở bàn của nhà thơ De Greiff, biết giọng nói và tiếng ho khan của người nghiện thuốc lá nặng như ông và cũng vài lần thấy ông rất gần trong những hoạt động văn hóa, nhưng không ai giới thiệu chúng tôi với nhau. Một số người thì không quen biết cả hai chúng tôi, những người khác thì nghĩ không lẽ hai chúng tôi lại không quen biết nhau.
Khó mà hình dung ra lúc bấy giờ người ta đã sống dưới bóng của thơ ca say sưa đến mức độ nào. Đó là một niềm đam mê cuồng nhiệt, một cách sống khác, một quả bóng lửa tự lăn tròn đi khắp nơi. Khi mở tờ báo ra, dù ở mục kinh tế hoặc trang pháp luật hay khi chúng ta ngồi đọc ở quán cà phê thì dưới đáy của ly, và ở tất cả mọi nơi đó đều có nàng thơ đang chờ mang đến cho chúng ta những giấc mơ. Đối với tất cả chúng tôi, những người đến từ các tỉnh lẻ, Bogota chính là thủ đô của cả nước, là trụ sở của chính phủ, nhưng trên hết là thành phố nơi có các nhà thơ sinh sống. Không những chúng tôi tin tưởng ở thơ ca và có thể chết vì nó mà chúng tôi còn biết chắc chắn rằng - như nhà thơ Luis Cardoza y Aragón đã viết - “Thơ ca là bằng chứng cụ thể duy nhất về sự tồn tại của con người”.
Thế giới là của những nhà thơ. Những điều mới mẻ của họ đối với thế hệ chúng tôi còn quan trọng hơn những tin tức chính trị mỗi ngày một bi đát hơn. Nền thơ ca của Colombia ra đời từ thế kỷ XIX và chói sáng với ngôi sao cô đơn Jose Asunción Silva - một nhà thơ lãng mạn kiệt xuất. Ở tuổi ba mươi mốt, ông đã tự bắn vào vòng tròn do bác sĩ vẽ bằng I-ốt lên vùng trái tim. Tôi chưa kịp sinh ra để quen biết Rafael Pombo hoặc Eduardo Castillo - nhà thơ trữ tình vĩ đại - được các bạn cùng thời đã mô tả giống như bóng ma chui ra từ nấm mồ lúc chiều tà, với tấm vải quấn hai vòng, da xanh mét vì chất morphin, với hình dáng của chim đại bàng: đó là biểu trưng về thể xác của các nhà thơ bất hạnh.
Một chiều nọ, khi tôi đang đi trên xe điện ngang qua một biệt thự trên đại lộ số Bảy và thấy ngay ở cửa ra vào người đàn ông kỳ dị mà tôi chưa từng gặp trong đời, khoác bộ veston nghiêm chỉnh, đội mũ kiểu Anh, đeo đôi kính đen, quàng khăn lụa vùng thảo nguyên. Đó chính là nhà thơ Alberto Angel Montoya, một người lãng mạn hơi máy móc đã cho in một số bài thơ hay vào thời kỳ đó. Đối với thế hệ chúng tôi, họ đã thành bóng ma của quá khứ, chỉ trừ nhà thơ bậc thầy Leon de Greiff người mà tôi đã từng theo học lỏm suốt thời gian dài ở quán cà phê El Molino.
Không có ai trong số họ chạm đến vinh quang như Guillermo Valencia, một nhà quý tộc xứ Popayan mà ở vào tuổi ba mươi đã là bậc thánh của thế hệ Một trăm năm, sở dĩ có tên gọi này vì thế hệ đó trưởng thành vào năm 1910 trùng hợp với thế kỷ thứ nhất của nền độc lập quốc gia. Những người cùng thời với ông Eduardo Castillo và Porfirio Barba Jacob, hai nhà thơ vĩ đại của trào lưu lãng mạn, đã không nhận được sự đánh giá công bằng của giới phê bình ở một đất nước bị đóng khung trong tháp ngà của thơ ca xứ Valencia, với cái bóng trùm lên cả ba thế hệ. Năm 1925 xuất hiện một thế hệ mới với tên gọi Những người mới mà đại diện tiêu biểu là Rafael Maya và một lần nữa Leon de Greiff, những người vốn không được đánh giá đúng tầm cỡ của mình khi nền thơ Valencia còn ngự trị. Cho đến lúc đó, chỉ riêng ông Leon de Greiff mới được tận hưởng vinh quang và đi đến tận cửa dinh Tổng thống nước cộng hòa.
Những người duy nhất dám vượt lên trong nửa thế kỷ đó chính là những nhà thơ trong nhóm Đá và Trời với những nét trẻ trung; và đến giai đoạn cuối họ chỉ còn giống nhau ở điểm duy nhất là không theo trường phái thơ Valencia: đó là các nhà thơ Eduardo Carranza, Arturo Camacho Ramirez, Aurelio Arturo và Jorge Rojas, những người tài trợ cho việc in thơ của nhóm. Không phải tất cả họ đều giống nhau về hình thức và thi hứng, nhưng nhìn chung, cả nhóm đã xới tung những tàn tích khảo cổ của thơ ca cổ điển và khơi dậy nền thơ ca mới, cho cuộc đời hòa nhịp muôn vẻ với các thi nhân Juan Ramon Jimenez, Ruben Dario, Garcia Lorca, Pablo Neruda hoặc Vicente Huidobro. Họ chưa được công chúng chấp nhận ngay và hình như chính họ cũng không nhận thức được rằng mình được xem là sứ giả của Trời để quét dọn căn nhà của thơ ca.
Từ đó thơ ca là một bầu trời rộng mở. Không chỉ cho nhóm Những người mới đang là mốt, mà cả cho những người mới nổi lên đang chen vai thích cánh cùng đi. Thơ ca rất được quần chúng yêu mến, và ngày hôm nay khó mà hiểu nổi lúc đó người ta đã chờ đón như thế nào mỗi số “đọc báo chủ nhật” do Carranza phụ trách, hoặc Thứ bảy dưới sự chỉ đạo của Carlos Martin, cựu hiệu trưởng trường trung học của tôi trước đây. Ngoài sáng tác thơ ra, Carranza còn dùng sự nổi tiếng của mình tạo ra một phong cách thi sĩ riêng: cứ vào lúc sáu giờ chiều, với cuốn sách cầm trên tay đặt ngay chính chỗ trái tim, ông lững thững đi suốt dọc đại lộ số Bảy của Bogota. Đó cũng là một hình mẫu của thế hệ của ông, mỗi người tự tạo ra một trường phái theo cách của riêng mình.
Khoảng giữa năm, nhà thơ Pablo Neruda (nhà thơ cách mạng của Chile, giải thưởng Nobel văn chương - ND) với niềm tin thơ ca phải là vũ khí chính trị, đã đến Bogota. Trong những cuộc gặp gỡ, nói chuyện ở Bogota, ông được biết về lập trường phản động của Laureano Gomez, và thay lời chào vĩnh biệt, ông đã phóng bút viết ngay tại chỗ ba bài sonet đả kích, trong đó bốn câu đầu gần như tóm lược giọng điệu của tất cả: Vĩnh biệt Laureano chưa một lần nhận vinh quang (chơi chữ trong tiếng Tây Ban Nha Laureano có gốc chữ vinh quang - ND)
Bạo chúa buồn đau và quốc vương xa lạ
Vĩnh biệt, hoàng đế ở tầng thứ tư
Trước cả thời gian và không thôi chi trả.
Mặc dù rất có cảm tình với phái hữu và là bạn thân của Laureano Gomez, nhưng Carranza vẫn cho đăng trang trọng những bài sonet trên trang văn học, xem như một thành quả báo chí chứ không phải là một tuyên ngôn chính trị. Nhưng lập tức bị phản đối. Trước hết, vì việc đăng ngay trên tờ báo của một người theo phái tự do nhưng gốc bảo thủ như cựu tổng thống Eduardo Santos, một người vừa chống tư tưởng lạc hậu của Laureano Gomez vừa chống lại tư tưởng cách mạng của Pablo Neruda. Sự phản đối ồn ào nhất là của những kẻ đã không chấp nhận một người nước ngoài được phép lạm quyền như vậy. Chỉ riêng việc ba bài sonet ngẫu hứng mang nhiều chất bỡn cợt hơn là chất thơ mà gây nên một cuộc bàn cãi rầm rộ như vậy đã là một dấu hiệu đáng mừng về quyền năng của thi ca vào những năm đó. Thế cho nên, Neruda đã bị chính Laureano Gomez, lúc này đã là Tổng thống nước cộng hòa, và sau đó tướng Gustavo Rojas Pinilla, cấm không được nhập cảnh vào Colombia, nhưng ông cũng đã quá cảnh vài lần ở Cartagena và Buenaventura trong các chuyến hải trình từ Chilê qua châu Âu. Đối với các bạn bè Colombia, mỗi lần ông quá cảnh ở đấy, chuyến đi cũng như chuyến về, đều được đón tiếp như một ngày hội.
Trở lại khoa luật vào tháng Hai năm 1947, tôi đã là thành viên của nhóm Đá và Trời. Mặc dù trước đây tôi đã quen những người nổi tiếng nhất trong nhóm ở nhà Carlos Martin, ở thị trấn Zipaquirá, tôi không dám nhắc họ nhớ lại, thậm chí cả đối với Carranza là người dễ gần nhất. Có lần, tôi đã đứng ngay sát ông ở hiệu sách Grancolombia, tôi đã chào ông như là một người hâm mộ. Ông nhã nhặn đáp lại nhưng không nhận ra tôi. Ngược lại, trong một dịp khác, nhà thơ bậc thầy Leon de Greiff đã đứng dậy rời khỏi bàn ở quán El Molino để đến tận bàn chào hỏi tôi khi có ai đó giới thiệu là tôi đã có truyện ngắn đăng trên báo El Espectador, và ông còn hứa sẽ đọc các truyện đó. Nhưng không may, mấy tuần sau xảy ra vụ bạo loạn ngày 9 tháng 4 tôi phải rời thành phố lúc đó đang chìm trong khói lửa. Bốn năm sau, khi tôi trở lại thì quán El Molino đã biến thành đống tro tàn và nhà thơ bậc thầy đã cùng bầu đoàn và bạn bè chuyển sang quán cà phê El Automatico, nơi mà chúng tôi kết thân với nhau qua chuyện sách vở và rượu chè và nơi ông dạy tôi cách đi các quân cờ vua một cách nhuần nhuyễn.
Các bạn tôi trong thời kỳ đầu thấy khó hiểu việc tôi chỉ chăm chú viết truyện ngắn, và ngay bản thân tôi cũng không tự giải thích được tại sao mình lại làm như vậy trong một đất nước mà thơ ca là biểu hiện nghệ thuật cao nhất. Từ nhỏ tôi đã thuộc thơ, nhất là bài thơ dân gian Nỗi đói nghèo nhân loại rất nổi tiếng, thường được viết trên giấy làm bằng giẻ rách để bán hoặc được ngâm đọc với giá hai xu ở các chợ và nghĩa trang trong các thị trấn hay làng mạc vùng bờ biển Caribe. Còn tiểu thuyết thì ngược lại, rất ít ỏi. Sau cuốn Maria của Jorge Isaacs, người ta đã cho in khá nhiều tiểu thuyết nhưng không có mấy tiếng vang. Jose Maria Vargas Vila là một ngoại lệ với năm mươi hai cuốn tiểu thuyết đi thẳng vào lòng người nghèo. Là một du khách không biết mệt mỏi, hành lý quá cước của ông chỉ là sách của chính mình mà ông mang theo để trưng bày và đắt khách như bánh mì nóng ở các cửa ra vào khách sạn trên toàn lãnh thổ châu Mỹ La tinh và Tây Ban Nha. Cơn gió thoảng hay các bông hoa violet là cuốn tiểu thuyết xuất sắc nhất của ông, một tác phẩm làm tan nát nhiều trái tim hơn bất kỳ cuốn sách nào hay nhất của các tác giả thời bấy giờ.
Những tác phẩm tiểu thuyết đã vượt thời gian là Người bán thịt của Juan Rodriguez Freyle, người Tây Ban Nha được viết trong khoảng thời gian từ 1600 và 1638 thời thuộc địa. Đó là một câu chuyện khá phóng túng về lịch sử vùng đất Tân Granada (vùng đất Colombia thời thuộc địa của Tây Ban Nha - ND) và trở thành một tác phẩm hư cấu bậc thầy; Maria của Jorge Isaacs, năm 1867; Vùng xoáy của Jose Eustasio Rivera, năm 1924; Bà bá tước xứ Yolombo của Tomas Carrasquilla, năm 1926; và Bốn năm tự đi trong mình của Eduardo Zalamea, năm 1934. Không ai đạt được sự vinh quang mà các nhà thơ đã giành được cho dù xứng đáng hay không xứng đáng. Ngược lại, truyện ngắn - dù đã có tiền lệ xuất sắc là những truyện của chính Carrasquilla, nhà văn vĩ đại ở thành phố Antioquia - thì vẫn lặn ngụp trong đống từ ngữ gập ghềnh, vô hồn vô cảm.
Tôi thực sự muốn trở thành nhà văn viết văn xuôi, bằng chứng của nỗi đam mê này là những dòng thơ mà tôi đã bỏ lại trường phổ thông không ký tên hoặc bút danh vì tôi chưa bao giờ có ý định chết vì những vần thơ ấy. Còn hơn thế nữa: Khi những truyện ngắn đầu tiên của tôi được đăng ở báo El Espectador, người ta đã tranh cãi rất nhiều về thể loại này mà không đưa ra được ý kiến thống nhất. Ngày nay, tôi nghĩ rằng việc này được hiểu là cuộc sống lúc đó ở Colombia vẫn như ở thế kỷ XIX. Nhất là ở Bogota buồn thảm của những năm bốn mươi vẫn còn vương vất nỗi nhớ thời thuộc địa; đó là lúc tôi đăng ký, không thích thú và cũng không có mấy quyết tâm, vào học tại khoa luật trường Đại học Quốc gia.
Để kiểm chứng lại điều này, ta chỉ cần chìm đắm vào bầu không khí của trung tâm đầu não giữa đại lộ số Bảy và đại lộ Jimenez de Quesada, mà những người đam mê Bogota gọi là góc phố tuyệt nhất thế giới. Khi chiếc đồng hồ công cộng ở tháp nhà thờ San Francisco điểm mười hai giờ trưa, những người đàn ông dừng lại trên phố hoặc ngừng nói chuyện trong các quán cà phê để chỉnh lại giờ cho đúng với giờ chính thức của nhà thờ. Giao lộ này và những dãy phố xung quanh chính là nơi tập trung đông nhất hai lần trong một ngày những thương nhân, các nhà chính khách, các nhà báo - và tất nhiên cả các nhà thơ - tất cả đều vận đồ đen từ đầu đến chân như ông vua Felipe IV.
Thời tôi là sinh viên, ở nơi này người ta còn đọc một tờ báo có một không hai trên thế giới. Đó là một tấm bảng đen như ở trường học, treo trên bao lơn của tòa báo El Espectador vào lúc mười hai giờ trưa và năm giờ chiều, trên đó được viết bằng phấn những tin tức sốt dẻo nhất. Vào lúc đó, tàu điện cũng khó đi qua được vì đám đông đứng nghẹt phố nóng lòng chờ đọc tin tức. Những độc giả của đường phố đó còn có thể hoan hô nồng nhiệt những tin tức mà họ cho là tốt đẹp, và có thể la ó hoặc ném đá vào chiếc bảng đen nếu có những tin họ không thích. Đó là một hình thức tham gia dân chủ tức thì, trong đó, tờ báo El Espectador đã trở thành hàn thử biểu hiệu quả hơn bất cứ phương tiện nào khác để đo nhiệt độ của dư luận công chúng.
Lúc đó chưa có vô tuyến truyền hình và bản tin của đài phát thanh cũng khá đầy đủ, nhưng chỉ vào những giờ cố định, tức là trước khi ăn cơm trưa và ăn bữa tối, người ta vẫn đến đó chờ chiếc bảng đen xuất hiện để về nhà với những tin tức đầy đủ nhất về thế giới xung quanh. Ở đó, người ta được biết và tiếp tục theo dõi sát sao chuyến bay đơn độc của đại úy phi công Concha Venegas từ Lima (thủ đô của Peru - ND) đến Bogota. Khi có những tin tức như thế này, chiếc bảng đen được thay đổi vài lần ngoài các giờ quy định để nuôi sự háo hức của công chúng bằng những bản tin đặc biệt. Không có ai trong số những độc giả đường phố của tờ báo độc nhất vô nhị biết được rằng: người đã nghĩ ra và thực hiện một cách tận tụy cho ý tưởng đó chính là Jose Salgar, một biên tập viên đầu tiên của El Espectador, người lúc ấy mới hai mươi tuổi và sau này đã trở thành một trong những nhà báo vĩ đại nhất dù chỉ mới tốt nghiệp tiểu học.
Cơ quan đặc trưng nhất của Bogota chính là các quán cà phê ở trung tâm thành phố, nơi toàn bộ cuộc sống của đất nước thường xuyên tập trung về đây. Mỗi người thưởng thức tin tức theo chuyên môn của mình - chính trị, văn học, tài chính - nghĩa là một phần rất lớn lịch sử của Colombia vào thời kỳ này có liên quan chút ít đến bọn họ. Mỗi người có sở thích riêng về từng lĩnh vực, đó cũng là biểu hiện rõ ràng nhân thân của họ.
Nhiều nhà văn và chính khách trong nửa đầu của thế kỷ - bao gồm cả một số tổng thống nước cộng hòa - đã từng học tập trong các quán cà phê trên đường Mười bốn, đối diện với trường Rosario. Windsor, nơi tụ tập các chính khách nổi tiếng, là một trong những quán cà phê sống dai nhất và cũng là nơi trú ẩn của họa sĩ tranh biếm họa vĩ đại, Ricardo Rendón. Chính ở quán này, ông đã sáng tác các tác phẩm lớn và mấy năm sau, ông đã tự tử bằng một phát đạn súng rulô làm nát xương sọ, ngay phía sau cửa hàng Gran Via.
Những buổi chiều buồn chán đã vô tình giúp tôi phát hiện ra rằng trong Thư viện Quốc gia có một phòng hòa nhạc mở cửa cho công chúng. Tôi đã biến nó thành nơi ưa thích để đọc sách dưới sự che chở của các nhà soạn nhạc vĩ đại mà những tác phẩm của họ được chúng tôi yêu cầu bằng giấy thông qua một nhân viên dễ thương để đưa cho dàn nhạc. Trong những người khách thường xuyên, chúng tôi đã tìm được những người có chung sở thích âm nhạc. Thế là tôi đã được nghe phần lớn những tác phẩm mà mình yêu thích thông qua những sở thích khá nhiều và rất phong phú của mọi người. Rồi tôi cũng đâm ra chán ghét Chopin mất mấy năm vì phải nghe đi nghe lại nhạc của ông do thính giả mộ điệu quá si mê đã liên tục yêu cầu diễn lại các tác phẩm này.
Một chiều nọ, tôi thấy phòng này hoàn toàn vắng vẻ vì hệ thống âm thanh bị hỏng; tuy vậy, bà phụ trách vẫn cho phép tôi im lặng ngồi đọc. Lúc đầu tôi cảm thấy đầy vẻ thanh bình, nhưng không đầy hai giờ sau, tôi đã thấy không thể nào tập trung tư tưởng cho việc đọc sách vì cảm thấy bứt rứt như có lửa đốt cháy trong lòng và làm tôi có cảm giác không phải là tôi nữa. Phải mất mấy ngày tôi mới nhận ra rằng: cách chữa nỗi bức xúc trong lòng tôi không phải là sự tĩnh lặng của căn phòng mà phải là bầu không khí đậm đặc âm nhạc, và từ đó, nó đã trở thành nỗi đam mê gần như bí ẩn và vĩnh viễn của tôi.
Phòng hòa nhạc đóng cửa vào những chiều Chủ nhật nên thú tiêu khiển có hiệu quả nhất của tôi là đi chơi trên tàu điện có cửa kính màu xanh dương, mà chỉ với năm xu tiền vé có thể đi không nghỉ từ quảng trường Bolivar cho đến tận đại lộ Chile và tưởng như được kéo theo sau một cái đuôi bất tận các chiều Chủ nhật chán ngắt. Việc duy nhất mà tôi đã làm trong các chuyến đi luẩn quẩn vòng vo đó là đọc thơ, có lẽ cứ một dãy phố thì tôi đọc một bài thơ cho đến khi những bóng đèn đường đầu tiên được bật lên lung linh dưới làn mưa phùn. Sau đó, tôi đi lang thang khắp các quán cà phê im ắng trong những khu phố cổ để tìm một ai đó làm phúc chịu ngồi nói chuyện với tôi về những bài thơ vừa đọc. Nhiều lần tôi cũng gặp được người - bao giờ cũng là đàn ông - và chúng tôi ở bên nhau đến quá nửa đêm ở một căn phòng bẩn thỉu nào đó, hút tiếp những điếu thuốc lá mà chúng tôi đã vứt đi và nói chuyện tiếp về thơ ca trong khi những người khác trên thế giới đang nồng nhiệt làm tình.
Thời đó, tất cả mọi người đều trẻ nhưng thường chúng tôi còn gặp những người khác trẻ hơn mình. Các thế hệ cứ đẩy nhau đi, nhất là trong số các nhà thơ và bọn tội phạm, và khi ta vừa làm xong một việc gì đó thì đã thấy thấp thoáng có ai đó đe dọa sẽ làm việc này tốt hơn. Thỉnh thoảng, tôi tìm thấy trong đống giấy tờ cũ một số ảnh đã được các bác thợ ảnh đường phố chụp ngoài cửa nhà thờ San Francisco, và tôi không nén được tiếng kêu thương hại vì nó không giống ảnh của chúng ta mà lại giống ảnh của đám con cái của chính mình. Trong một thành phố mà các cánh cửa giả vờ khép kín thì chẳng có cái gì dễ dàng cả và tệ hơn là lại phải sống không tình yêu vào những buổi chiều Chủ nhật. Ở đó, tôi đã ngẫu nhiên quen với bác ruột mình là ông Jose Maria Valdeblanquez, mà tôi cứ ngỡ là được gặp lại ông ngoại mang ô đi giữa đám đông trong lễ Misa ngày Chủ nhật. Trang phục không che bớt tí gì sự giống nhau giữa hai người: ông bác vận quần màu đen, áo trắng cổ cồn, cà vạt sọc chéo, áo gi-lê buộc dây đeo đồng hồ, mũ cứng và đôi kính gọng vàng. Tôi xúc động đến mức vô tình chắn ngang lối đi. Ông nâng ô lên đe nẹt và lườm tôi:
- Tránh ra cho tôi đi qua được chứ?
- Xin ông thứ lỗi - tôi ngượng ngập trả lời. - Tại vì cháu lầm ông với ông ngoại cháu.
Ông tiếp tục nhìn xoi mói tôi và hỏi mỉa mai:
- Thế tôi có thể biết ông ngoại nổi tiếng như cồn của cậu là ai được chứ?
Tự thấy mình đã hơi hỗn xược, tôi liền nói họ tên đầy đủ của ông ngoại. Ông liền hạ chiếc ô xuống và mỉm cười vui vẻ:
- Chúng tôi giống nhau là phải rồi vì tôi là con cả của ông ấy mà lỵ.
Ở trường Đại học Quốc gia, cuộc sống hàng ngày dễ chịu hơn. Tuy nhiên, bây giờ trong trí nhớ của tôi cũng không còn lưu lại chuyện đời thực nào thời bấy giờ, bởi vì tôi tin là mình chưa phải là sinh viên khoa luật lấy một ngày nào dù điểm học kỳ một - học kỳ duy nhất mà tôi hoàn thành ở Bogota - cho phép tôi tin điều ngược lại. Ở đó không có thời gian và cơ hội để thiết lập các mối quan hệ cá nhân như ở trường trung học; sau các giờ lên lớp, các bạn học cùng khoa lại tỏa đi khắp nơi trong thành phố. Điều làm tôi ngạc nhiên thích thú nhất là được gặp lại nhà văn Pedro Gomez Valderrama, người mà tôi được biết là có cộng tác với các trang văn học từ khi còn trẻ và sau này là một trong những người bạn lớn của tôi cho đến khi ông mất sớm. Thời kỳ đó, ông là Tổng thư ký của khoa luật.
Người bạn học cần mẫn nhất của tôi từ năm học đầu tiên là Gonzalo Mallarino Botero, người duy nhất có thói quen tin vào một số điều kỳ diệu của cuộc đời là thật dù chưa chắc đã đúng.
Chính anh là người chỉ cho tôi thấy là khoa luật không hẳn đã cằn cỗi như tôi tưởng, bởi vì ngay ngày đầu tiên anh đã kéo tôi ra khỏi lớp thống kê và nhân khẩu học, vào lúc bảy giờ sáng và ra quán cà phê trong trường đại học để thi thơ với nhau. Buổi sáng đó, anh ngâm thuộc lòng thơ của những nhà thơ cổ điển Tây Ban Nha, và tôi đối lại bằng các bài thơ của các nhà thơ trẻ Colombia đã từng nổ súng chống lại những cái đuôi rơi rớt của thơ ca thế kỷ trước.
Ngày Chủ nhật, anh thường mời tôi về nhà nơi anh sống với mẹ và các anh chị em trong một bầu không khí đầm ấm giống như ở nhà bố mẹ tôi. Victor, anh cả, là một nghệ sĩ sân khấu, một nghệ sĩ ngâm thơ có tiếng trong những vùng nói tiếng Tây Ban Nha. Từ khi thoát khỏi sự đỡ đầu của bố mẹ, chưa bao giờ tôi có được cảm giác như ở nhà mình cho đến khi được gặp Pepa Botero, người mẹ của anh em nhà Mallarino, quê gốc xứ Antioquia nhưng không hề mất đi một chút nào cốt tủy quý tộc Bogota. Với trí thông minh tự nhiên và cách nói kỳ diệu, bà có tài đặt đúng chỗ những từ thô tục làm sống lại tinh hoa của ngôn ngữ Xecvantec. Đó là những buổi chiều đáng nhớ, ngồi nhìn hoàng hôn buông xuống thảo nguyên xanh ngút trời bên ly ca cao thơm ngào ngạt và bánh phô-mai nóng. Những điều mà tôi học được ở ngôn ngữ cởi mở và cách nói về mọi điều trong cuộc đời của Pepa Botero là vô giá cho kho ngôn ngữ mới trong đời thực của mình.
Những người bạn học khác cùng chí hướng là Guillermo Lopez Guerra và Alvaro Vidal Varon, vốn là những tòng phạm với tôi ở trường trung học ở Zipaquirá. Tuy nhiên ở trường đại học, tôi gần gũi hơn với Luis Villar Borda và Camilo Torres Restrepo, những người đã tận tụy làm phụ trương văn học của La Razon, một nhật báo gần như bí mật do nhà thơ và nhà báo Juan Lozano lãnh đạo. Trong những ngày báo lên khuôn, tôi thường đi cùng với họ đến tòa soạn và giúp họ một tay trong trường hợp khẩn cấp vào giờ chót. Có vài lần tôi được gặp Tổng biên tập, người có những bài sonet khiến tôi rất khâm phục, nhất là khi ông xuất hiện trong trang các nhân vật nổi tiếng cấp quốc gia đăng trên tạp chí Sabado. Ông nhớ mang máng bài viết của Ulises về tôi, nhưng chưa đọc truyện ngắn nào của tôi và tôi đã lẩn tránh đề tài này vì biết là ông không thích thú gì. Ngay từ ngày đầu tiên, khi chia tay, ông đã nói với tôi rằng các trang của báo sẵn sàng mở cửa cho tôi, nhưng tôi không coi đó là lời hứa của một người Bogota.
Trong quán cà phê Asturias, Camilo Torres Restrepo và Luis Villar Borda, những bạn cùng khoa luật đã giới thiệu tôi với Plinio Apuleyo Mendoza, người ở tuổi mười sáu đã cho in một loạt bài văn xuôi trữ tình, một thể loại đang thịnh hành do Eduardo Carranza khởi xướng trong toàn quốc từ các trang văn học của tờ báo El Tiempo. Anh ta có nước da nâu sạm, mái tóc cứng mang nét đặc trưng của thổ dân indio. Tuy còn trẻ nhưng anh đã được trao viết chuyên mục trên tuần báo Sabado do bố anh, ông Plinio Mendoza Neira, sáng lập. Ông này nguyên là Bộ trưởng chiến tranh và là một nhà báo lớn bẩm sinh dù trong đời có lẽ chưa từng viết một dòng báo đầy đủ nào. Tuy nhiên, ông đã chỉ cách cho nhiều người viết theo nội dung của ông trên tờ báo do ông sáng lập, khai trương một cách ồn ào và rồi sau đó lại từ bỏ vì bận bịu với những chức vụ chính trị cao cấp hoặc là để dành thời gian thành lập các công ty to lớn mà kết quả thì lại thật là bi đát. Vào thời đó, tôi chỉ gặp người con đôi ba lần, thường cùng với các bạn học của tôi. Tôi kinh ngạc nhận ra rằng ở tuổi ấy, anh tư duy như một ông lão, nhưng tôi không ngờ rằng: nhiều năm sau hai chúng tôi lại cùng chia sẻ nhiều việc về báo chí vì lúc đó tôi vẫn chưa coi báo chí là một nghề và là một ngành khoa học, mà tôi lại thích luật hơn.
Trên thực tế, tôi chưa bao giờ nghĩ rằng mình sẽ thích thú với công việc này. Cho đến một hôm Elvira Mendoza, em gái của Plinio, thực hiện một cuộc phỏng vấn bất thường với nghệ sĩ ngâm thơ người Argentina Berta Singerman, việc này đã làm thay đổi hoàn toàn thành kiến của tôi đối với nghề báo và thế là tôi tự phát hiện ra một năng khiếu đã bị lãng quên. Hơn cả một cuộc phỏng vấn cổ điển gồm câu hỏi và trả lời - đã từng làm cho tôi nghi vấn và bây giờ vẫn tiếp tục nghi ngờ hiệu quả của nó - nó là một trong những cuộc phỏng vấn độc đáo nhất được đăng ở Colombia. Vài năm sau, khi Elvira Mendoza đã trở thành một nhà báo nổi tiếng tầm cỡ quốc tế và là một trong những bạn gái của tôi, cô ấy đã kể lại với tôi rằng đó chẳng qua chỉ là cách tuyệt vọng để tránh một thất bại.
Chuyến thăm của Berta Singerman là một sự kiện trong ngày. Elvira - lúc đó đang phụ trách ban phụ nữ của tạp chí Sabado - xin phép được phỏng vấn bà ta. Bố của Elvira cho phép một cách dè dặt vì biết con gái chưa quen với thể loại này. Tòa soạn tạp chí Sabado vốn là một nơi tụ họp của các nhà trí thức nổi tiếng thời kỳ đó và Elvira nhờ những vị tai to ấy chuẩn bị sẵn câu hỏi giúp cô. Nhưng Elvira đã ở bên bờ vực của nỗi sợ hãi khi phải đối đầu với sự coi thường của bà Berta Singerman trong căn phòng sang trọng đặc biệt của khách sạn Granada nơi bà ấy tiếp cô.
Ngay câu hỏi đầu tiên, bà ta đã vui vẻ từ chối trả lời vì cho là quá ngu xuẩn hoặc là ngớ ngẩn mà không biết rằng đằng sau mỗi câu hỏi đó có một nhà văn tài năng mà bà ta từng quen biết và hết sức thán phục do đã qua thăm Colombia vài lần. Elvira, vốn luôn luôn có tài ứng đối nhanh nhạy đã phải nuốt thầm nước mắt và nhẫn nại chịu sự lăng mạ ấy. Phu quân của bà Berta Singerman đột ngột bước vào phòng và cứu Elvira khỏi một tai nạn nghề nghiệp nghiêm trọng, bởi vì chính ông đã xoay chuyển tình hình một cách tinh tế và hết sức vui vẻ.
Elvira không viết lại những lời đối thoại của bà nghệ sĩ nổi tiếng trả lời các câu hỏi chuẩn bị sẵn, mà viết lại thành một bài phóng sự về những khó khăn của cô khi tiếp xúc với bà Berta. Tận dụng sự can dự bất ngờ của chồng bà ta, Elvira đã biến ông thành nhân vật chính của cuộc gặp gỡ. Khi đọc lại bài báo, bà Berta Singerman đã nổi cơn tức giận đến mức không ai ngờ tới. Nhưng Sabado đã trở thành tạp chí được nhiều người đọc nhất và số lượng phát hành hàng tuần của nó đã lên đến trăm ngàn bản cho một thành phố chỉ có sáu trăm ngàn dân.
Nhờ máu lạnh và tài ứng biến mà Elvira Mendoza đã tận dụng được sự ngu đần của Berta Singerman để vạch rõ cá tính thực sự của bà ta, chính việc này lần đầu tiên đã gợi tôi suy nghĩ đến khả năng của thể loại phóng sự không những là một phương tiện tuyệt vời chuyển tải thông tin mà còn hơn thế nữa: là một thể loại văn học. Chỉ một thời gian ngắn sau đó, tôi đã được trực tiếp thể nghiệm điều này đến mức tin tưởng và bây giờ, hơn bao giờ, tôi vẫn tin rằng tiểu thuyết và phóng sự là hai đứa con cùng một mẹ.
Cho đến lúc đó, tôi chỉ dám mạo hiểm với thơ: những bài thơ châm biếm trong tạp chí của trường ở San Jose và một số bài văn xuôi trữ tình hoặc sonet về tình yêu tưởng tượng theo phong cách của nhóm Đá và Trời trong số báo cuối cùng của trường trung học quốc gia. Trước đó, Cecilia Gonzalez, người bạn gái tòng phạm của tôi ở thị trấn Zipaquirá, đã thuyết phục được nhà thơ và nhà viết tiểu luận Daniel Arango cho đăng lời một bài hát nho nhỏ do tôi viết, ký bút danh, trong một góc khuất nhất của phụ trương Chủ nhật của báo El Tiempo. Dù được in trên báo nhưng tôi không hề xúc động cũng không cảm thấy mình là nhà thơ. Ngược lại, với bài phóng sự của Elvira, tôi lại có ý thức về một nhà báo còn say ngủ trong trái tim mình và hăng hái muốn đánh thức nó dậy. Tôi bắt đầu đọc báo theo cách khác. Camilo Torres và Luis Villar Borda đều đồng ý với tôi và nhắc lại thiện ý của ông Juan Lozano muốn dành những trang ở báo La Razon cho tôi, nhưng tôi chỉ dám đăng hai bài thơ có tính kỹ thuật mà không bao giờ thừa nhận là của mình. Họ cũng bảo tôi đến nói chuyện với Plinio Apuleyo Mendoza để được đăng trên tạp chí Sabado, nhưng tính e ngại cầu cạnh người khác đã cảnh báo tôi rằng còn nhiều việc phải làm trước khi có thể mạo hiểm mò mẫm đi vào một nghề mới. Tuy nhiên, tự khám phá ra khả năng của mình cũng có điểm bổ ích ngay tức thì, vì thời gian này tôi đang quẩn quanh với ý nghĩ rằng tất cả mọi điều tôi viết ra, văn xuôi hay thơ, thậm chí cả bài tập trong trường trung học đều là sự bắt chước trắng trợn nhóm Đá và Trời, và tôi tự đề ra mục tiêu thay đổi một cách sâu sắc kể từ truyện ngắn tiếp theo.
Tình bạn với Camilo Torres và Villar Borda nhanh chóng vượt ra khỏi phạm vi lớp học và tòa soạn, và thời gian mà chúng tôi cùng đi với nhau ngoài phố nhiều hơn là ở trường đại học. Cả hai cùng nung nấu ý thức bất mãn quyết liệt đối với thực trạng chính trị và xã hội của đất nước. Đắm chìm trong thế giới kỳ bí của văn chương, thậm chí tôi không thèm hiểu những phân tích thời cuộc xung quanh và những dự báo đen tối của hai người bạn ấy, nhưng dấu ấn về tình bạn của họ vẫn in đậm trong những kỷ niệm thích thú và hữu ích nhất vào thời gian đó của tôi.
Ngược lại, ở trường đại học, tôi gần như câm lặng. Tôi luôn tự trách mình thiếu sự tôn trọng đối với thành tựu của những người thầy có tên tuổi lớn mà lại phải chịu đựng sự chán ngán của chúng tôi. Trong số đó có thầy Alfonso Lopez Michelsen, con trai của vị tổng thống duy nhất được tái cử ở Colombia trong thế kỷ XX, và tôi tin là người thầy này sinh ra để làm tổng thống, và trên thực tế đúng là sau đó ông đã trở thành tổng thống thật. Ông đến lớp giảng bài nhập môn luật học đúng giờ đến phát ghét và thường vận chiếc áo khoác bằng len mỏng được may ở Luân Đôn. Khi giảng bài, ông không thèm nhìn ai với vẻ lơ đãng của người cận thị thông minh như đang đi trong giấc mơ của người khác. Những bài giảng của ông, theo ý tôi, rất đơn điệu cũng như các môn khác trừ thơ ca ra, nhưng giọng nói của ông có sức mê hoặc của người chuyên bắt rắn. Kho tàng kiến thức văn học rộng lớn đã được ông tận dụng qua các bài viết cũng như trong khi trò chuyện và đảm bảo cho ông một uy tín chắc chắn. Nhưng mãi mấy năm sau, tôi mới đánh giá hết sự hiểu biết của ông khi chúng tôi quen biết nhau và trở thành bạn bè. Uy tín chính trị của ông được bổ sung thêm vẻ hào hoa phong nhã và sự nhạy bén tinh quái để có thể phát hiện ra những mưu đồ ẩn sâu của người khác, nhất là của những người ông ít ưa nhất. Nhưng tài năng xuất sắc nhất của ông như một người của công chúng chính là khả năng tạo ra những tình huống lịch sử chỉ qua một câu nói.
Cùng với thời gian, chúng tôi đã trở thành bạn bè thân thiết, nhưng hồi ở trường đại học, tôi không phải là một sinh viên chăm chỉ và cần mẫn, hơn nữa tính nhút nhát bẩm sinh đã khiến tôi luôn cách xa mọi người, đặc biệt những người mà tôi khâm phục. Vì lẽ đó mà tôi rất ngạc nhiên khi được thầy cho phép dự kỳ thi cuối năm thứ nhất, mặc dù tôi không hội đủ số giờ lên lớp và rất xứng đáng với danh hiệu “sinh viên vô hình”. Tôi lại phải giở mẹo đánh lạc hướng chú ý của thầy sang đề tài khác bằng thủ thuật tu từ học. Tôi nhận ra ngay rằng thầy giáo cũng biết trò láu cá của mình, nhưng có lẽ lại coi đó như trò giải trí văn học. Mắc mớ duy nhất xảy ra ở đoạn cuối của bài thi khi tôi dùng từ prescripcion (thời hiệu) và thầy liền yêu cầu tôi định nghĩa nó để xem tôi có hiểu những điều mình đang nói hay không.
- Thời hiệu là việc giành được một tài sản sau một thời gian trôi qua - tôi nói.
Ngay lập tức, ông hỏi lại:
- Giành được hay mất đi?
Thực ra là một, nhưng vì tôi không nắm chắc nên không dám tranh luận, và tôi tin rằng đó là một trong những câu nói đùa nổi tiếng của ông , bởi vì điểm tổng kết môn học đã chứng tỏ điều này. Mấy năm sau, tôi có nhắc lại chuyện này nhưng tất nhiên ông không còn nhớ gì nữa, thế là cả ông và tôi đều không tin là có vụ việc đó xảy ra.
Cả hai chúng tôi đều coi văn chương là chỗ nương thân để quên đi những vấn đề chính trị và những điều bí ẩn của khái niệm thời hiệu, rồi lao vào bàn cãi về những cuốn sách kỳ lạ và những nhà văn đã bị lãng quên, trong những buổi đàm đạo bất tận mà thỉnh thoảng làm thất bại cả cuộc viếng thăm hay làm sốt ruột các bà vợ của chúng tôi. Mẹ tôi còn làm cho tôi tin rằng chúng tôi có họ hàng với nhau nữa, mà đúng là như vậy thật. Tuy nhiên, trên cả mọi mối liên hệ đã bị thất lạc từ trước, giữa chúng tôi có chung một niềm đam mê tiếng hát núi đồi.
Một người họ hàng xa đằng của bố tôi là Carlos H. Pareja, giáo sư môn kinh tế chính trị và là ông chủ của hiệu sách Grancolombia, nơi thường trưng bày sách trên bàn và không có ai giám sát những cuốn sách mới của các tác giả vĩ đại khiến đám sinh viên rất thích đến. Đến cả những học trò của ông, như chúng tôi chẳng hạn, cũng thâm nhập vào nơi này trong những buổi chiều ít bị những người chủ để ý đến, để khoắng đi một cách khéo léo những cuốn sách với cái lý được ghi trong nội quy trường học: ăn cắp sách là một việc làm có lỗi chứ không có tội. Không phải là vì lý do đạo đức mà chẳng qua vì nhút nhát, nên vai trò của tôi trong các vụ cướp cạn này chỉ là hậu thuẫn, canh chừng phía sau lưng cho những anh chàng nhanh tay với điều kiện là ngoài các cuốn sách cho mình, họ phải quơ thêm cả một số cuốn do tôi mách. Chiều hôm ấy, một trong những tòng phạm với tôi vừa ăn cắp được cuốn Thành phố không có Laura của Francisco Luis Bernardez thì tôi bỗng thấy có ai bóp một cách thô bạo vào vai mình với giọng nói của viên thượng sĩ cảnh sát:
- Mẹ kiếp, cuối cùng cũng tóm được rồi!
Tôi sợ hãi quay người lại và đối diện với thầy giáo Carlos H.
Pareja, trong khi ba trong số những người tòng phạm với tôi bỏ chạy tán loạn. Trước khi kịp tỏ lời xin lỗi, thì rất may tôi nhận ra rằng thầy không tóm tôi vì tội ăn cắp mà vì không thấy tôi đến lớp suốt cả tháng vừa qua. Sau mấy lời trách móc thông thường, ông hỏi tôi:
- Có phải cháu là con của Gabriel Eligio không?
Đúng là như vậy, nhưng tôi trả lời là không vì biết rằng bố của ông và bố của tôi tuy là họ hàng nhưng đã xa rời nhau vì một xung đột cá nhân mà tôi không hiểu rõ. Nhưng sau đó, chính ông cũng biết sự thật và luôn coi trọng tôi trong hiệu sách cũng như trên lớp học đúng như một người cháu họ của mình, và giữa hai chúng tôi có mối quan hệ mang yếu tố chính trị nhiều hơn văn chương, mặc dù ông cũng đã từng viết và xuất bản vài cuốn thơ với bút danh Simon Latino. Tuy nhiên, mối quan hệ họ hàng chỉ giúp ông ngăn tôi không làm bình phong cho đám ăn trộm sách.
Một thầy giáo tuyệt vời khác là Diego Montana Cuellar, người khác hẳn Lopez Michelsen và giữa hai n