Chương 6
Chúng tôi bị dập vùi thê thảm trên con đường gập ghềnh đầy ổ voi, chiếc xe của Bưu điện thở hơi cuối cùng đúng nơi nó xứng đáng: bị sa lầy trong bụi rễ cây đước sặc mùi cá chết bốc mùi hôi thối cách thành phố Cartagena nửa dặm đường. “Đã đi xe tải thì chẳng biết chết nơi đâu”, tôi nhớ lại lời ông ngoại. Những hành khách đờ đẫn sau sáu tiếng đồng hồ dầm sương dãi nắng và ngửi mùi hôi của đồ hải sản không dám chờ người ta đưa thang ra để xuống đất mà vội vã vứt xuống nào lồng gà, nào bao chuối và tất cả mọi thứ để bán hoặc để chết vốn làm chỗ ngồi cho họ trên nóc xe tải. Tay lái xe nhảy ra khỏi buồng lái và hét lên lời thông báo xanh rờn:
- Đến thành phố anh hùng rồi!
Đó là danh hiệu dành cho Cartagena vì những vinh quang của nó trong quá khứ, và có lẽ chúng tôi đã đến nơi thật rồi. Nhưng tôi chẳng buồn nhìn ra thành phố vì còn đang thoi thóp thở trong bộ veston đen mặc từ hôm mồng 9 tháng 4. Hai bộ khác của tôi cùng chịu chung số phận với chiếc máy đánh chữ ở Monte de Piedad, nhưng theo kiểu giải thích một cách trong danh dự với bố mẹ thì chúng đã cháy mất trong vụ hỏa hoạn. Tay lái xe xấc xược không ngớt trêu chọc bộ dạng tướng cướp của tôi trong suốt chuyến đi nay lại càng khoái chí thấy tôi lúng ta lúng túng chưa định hướng được đâu là thành phố.
- Thành phố ở ngay đít mày ấy! - hắn hét to vào mặt tôi nhưng hình như cũng đang muốn cho tất cả mọi người cùng nghe. - Và mày phải chú ý đấy, ở đây người ta thích những gã đàn ông bóng bẩy đấy.
Cartagena ở sau lưng tôi từ bốn trăm năm nay, nhưng lại rất khó để tôi hình dung ra khi đứng cách nó nửa dặm phía sau rừng đước và bức tường thành huyền thoại vốn giúp nó chống chọi lại bọn hải tặc suốt những năm tháng vĩ đại nhất. Thế là tôi cùng đám hành khách phải kéo lê hành lý trên đám cỏ dại đầy cua sống đang giương càng sắc nhọn đến mức có thể cứa đứt cả giày. Tôi không thể không nhớ đến bao cói đựng đồ của mình bị bạn bè vứt xuống sông Magdalena trong chuyến đi đầu tiên hoặc chiếc thùng đựng đồ mà tôi phải dở khóc dở cười kéo lê khắp nửa đất nước trong những năm học đầu tiên của thời phổ thông trung học và tôi đã phải vứt xuống vực trên dãy núi Andes để chào mừng việc đón bằng tú tài.
Vừa nhìn thấy bóng dáng một vài tháp chuông nhà thờ hay dăm ba tu viện trong ánh chiều tà thì chúng tôi đã gặp đàn dơi bay rào rào ngang tầm đầu mình và nhờ tài năng phi phàm của chúng mà chúng tôi không bị quật ngã xuống đất. Tiếng đập cánh của chúng ầm ì như tiếng sấm rền xa và để lại trong không trung mùi hôi tởm lợm của cái chết. Sợ muốn chết, tôi vứt vội chiếc va-ly và ôm đầu ngồi bệt xuống đất cho đến khi một bà già vẫn đi bên cạnh phải hét lên:
- Cầu kinh La Magnífica đi, mau!
Tức là bài kinh bí mật để đuổi tà bị Nhà thờ cấm nhưng được những người vô thần tôn trọng khi họ không còn lời phỉ báng tôn giáo nào khác nữa. Người đàn bà biết tôi không biết cầu kinh liền túm một dây quai khác của chiếc va-ly để giúp tôi xách nó lên.
- Cậu cứ đọc theo tôi - bà nói - nhưng phải tin thật lòng đấy nhé!
Bà đọc cho tôi từng câu thơ trong kinh La Magnifica và tôi đọc to với niềm sùng kính mà sau này không bao giờ tôi còn cảm thấy thêm một lần nữa. Bầy dơi, dù bây giờ tôi không thể nào hiểu nổi, đã biến khỏi bầu trời trước khi chúng tôi đọc xong bài kinh. Chỉ còn vô vàn mảnh vỡ xác nhuyễn thể chất đầy trên bãi dốc.
Vào đầu tuần, tôi rời Bogota ngập chìm trong máu và bùn, với những thi thể vô thừa nhận lẫn trong những đống đổ nát âm ỉ lửa khói. Rồi bỗng nhiên thế giới đã đổi thay hoàn toàn ở Cartagena. Không hề có dấu hiệu của chiến tranh đang tàn phá đất nước và tôi khó mà tin được rằng nỗi cô đơn không đau đớn này, mặt biển vô bờ kia, cùng những xúc cảm mênh mông vì đã đi đến nơi tất cả lại xảy ra với đời tôi chỉ sau có một tuần lễ.
Tôi kéo chiếc va ly đi chen chúc giữa đám đông vào lúc sáu giờ chiều. Một người đàn ông gầy còm nhìn tôi không chớp mắt. Ông ta chặn tôi lại và xin vác thuê chiếc va-ly. Tôi cảm ơn và được nghe ông cất giọng cha chú nói cụ thể:
- Với ba mươi “dê”.
Không thể được. Ba mươi xu tiền thuê vác va-ly sẽ ngoạm một miếng lớn vào bốn peso ít ỏi còn lại của tôi trong khi phải tuần tới may ra mới nhận được chi viện của bố mẹ.
- Số tiền đó bằng giá trị cả chiếc va-ly và đồ đạc cất ở trong đấy- tôi nói với ông ta.
Thật ra nhà trọ cho chúng tôi cũng không còn quá xa. Ông lão đành chấp nhập ba “dê” và vác va-ly trên vai với sức mạnh phi thường so với tấm thân gầy còm rồi chạy chân đất như một vận động viên trên con đường mấp mô bị bỏ quên từ thời thuộc địa. Trái tim như muốn bứt ra khỏi lồng ngực, tôi, một gã trai hai mươi mốt tuổi, cố hết sức mới đuổi kịp ông già gần đất xa trời. Sau năm dãy phố, ông đến trước cửa lớn của khách sạn và leo từng hai bậc thang một. Vẫn giữ nguyên nhịp thở đều đặn, ông để chiếc va ly xuống và giơ tay ra phía tôi:
- Cho ba mươi “dê”.
Tôi nhắc lại là đã trả tiền công rồi, nhưng ông ta giải thích là ba xu chỉ đến cổng chứ chưa kể tiền vác lên cầu thang. Bà chủ khách sạn ra đón chúng tôi liền giải thích vác lên cầu thang phải tính tiền riêng. Và bà ta cho tôi một lời khuyên nhớ đời:
- Ông sẽ thấy là ở Cartagena mọi thứ đều khác hẳn.
Lại thêm một tin buồn là những người bạn cùng trọ với tôi ở Bogota vẫn chưa đến mặc dù đã đặt phòng cho bốn người ở đây. Chúng tôi đã hẹn nhau có mặt ở khách sạn này trước sáu giờ chiều nay. Do phải thay đổi chuyến xe nên tôi đến chậm ba tiếng đồng hồ, thế mà vẫn đúng hẹn hơn bọn họ, nhưng cũng chả được tích sự gì với bốn peso đã bị thiến đi mất ba mươi ba xu. Bà chủ khách sạn là người mẹ rất dễ thương nhưng lại là nô lệ của chính những quy tắc của mình, như tôi biết rõ sau hai tháng dài vô tận sống ở đây. Bà không đồng ý cho tôi đăng ký nếu không trả trước một tháng tiền thuê: tức là mười tám peso cho một phòng sáu người cùng với ngày ba bữa ăn.
Phải một tuần nữa tôi mới có sự trợ giúp của bố mẹ, tức là va-ly của tôi sẽ không được đưa lên phòng nếu những người bạn chưa tới. Tôi ngồi chờ trên chiếc ghế bành vẽ đầy hoa như trên trời rơi xuống sau một ngày phơi nắng trên chiếc xe tải khốn khổ. Đúng là ngày ấy chẳng ai tin tưởng bất cứ điều gì. Hẹn ngày giờ chính xác gặp nhau chẳng có ý nghĩa gì khi một nửa đất nước đang chìm trong cuộc chiến tranh đẫm máu đã bắt đầu từ mấy năm nay ở các tỉnh và bùng phát ở các thành phố trong vòng một tuần lễ.
Tám giờ giam mình chờ đợi tại cửa khách sạn ở Cartagena mà không hiểu được chuyện gì đã xảy ra với Jose Palencia và các bạn khác, lại thêm một giờ nữa đợi chờ không tin tức, tôi đành đi lang thang trên những con phố vắng ngắt. Tháng Tư ngày ngắn đêm dài. Đèn đường đã bật sáng nhưng yếu đến mức có thể bị lẫn với sao đêm lấp lóe qua những vòm cây. Đó là một đêm lịch sử đối với tôi. Nhờ thực tế tôi đã nhận ra những điều hoang đường mà người ta dạy chúng tôi trong nhà trường về thành phố này. Tôi rưng rưng nước mắt nhìn những tòa lâu đài của các vị bá tước ngày xưa vẫn sừng sững trước mặt, với những người ăn mày nằm ngủ dưới mái hiên. Tôi nhìn thấy nhà thờ lớn không còn tháp chuông vì đã bị tên cướp biển Francis Drake lấy đi để đúc súng. Tôi thấy những hàng cây khô héo và những bức tượng các vĩ nhân mà hình như không phải được tạc bằng đá cẩm thạch mà chính là những xác ướp sống. Bởi vì, ở Cartagena người ta không bảo quản chống lại sự ăn mòn của thời gian, mà ngược lại: người ta giữ thời gian để cho vạn vật tiếp tục có mãi tuổi nguyên thủy của mình trong khi các thế kỷ thì cứ già mãi đi. Thế là ngay trong đêm đầu tiên đến thành phố, tôi tự nghiệm ra rằng Cartagena không phải như là một hóa thạch của các nhà sử học, mà như một thành phố bằng xương bằng thịt và rằng thành phố không còn được duy trì bằng niềm vinh quang chiến trận nữa mà bằng niềm kiêu hãnh của những đổ nát.
Với niềm hưng phấn mới này, tôi quay lại khách sạn vào lúc tháp chuông đồng hồ đánh mười tiếng. Người gác cổng ngái ngủ nói với tôi là chưa thấy anh bạn nào đến, nhưng va-ly của tôi đã được cất trong kho khách sạn. Cho đến lúc đó tôi mới cảm thấy mình chưa ăn và uống tý gì kể từ bữa điểm tâm vớ vẩn ở Barranquilla. Cái đói làm đôi chân tôi rã rời, nhưng có lẽ tôi sẽ hài lòng nếu được bà chủ cho để chiếc va-ly và cho tôi ngủ qua đêm này dù chỉ là ở trên băng ghế ở tiền sảnh. Người gác cổng cười nhạo sự ngây thơ của tôi:
- Đừng có mà tưởng bở! - anh ta nói với giọng đặc sệt vùng Caribe - với đống tiền có trong hầu bao, bà ta ngủ từ lúc bảy giờ tới mười một giờ trưa hôm sau mới dậy.
Tôi thấy lập luận này quá đúng nên đành ra ngủ trên ghế đá ngoài công viên Bolivar ở phía bên kia đường và chờ các bạn đến mà không phải làm phiền ai cả. Khi chuẩn bị ngủ thì tôi bỗng thấy có gì lấp ló sau bóng cây rậm rạp. Đó chính là bức tượng của Simon Bolivar, người anh hùng của đời tôi kể từ khi ông ngoại lệnh cho tôi phải làm như vậy. Người vẫn là nhân vật không thể quên được của tôi mặc cho sự không nhất quán trong tư tưởng của ông hoặc cũng vì chính vì lẽ đó cũng nên. Với đặc tính này, ông ngoại cũng đã đạt đến cấp bậc đại tá và chính ông cũng đã liều thân trong các cuộc chiến tranh do những người tự do tiến hành để chống lại đảng bảo thủ do Bolivar sáng lập. Đang chập chờn trong những ý nghĩ mông lung ấy thì một tiếng hét ngay sau lưng đưa tôi về thực tại:
- Giơ tay lên!
Tôi vui vẻ giơ tay lên vì tin chắc là các bạn đã đến nhưng nào ngờ lại gặp phải hai viên cảnh sát đang chĩa súng vào mình. Họ muốn biết tại sao tôi vi phạm lệnh giới nghiêm bắt đầu từ hai giờ trước đây. Tôi không hề biết là nó đã được ban hành từ Chủ nhật trước như họ nói thậm chí cũng không hề nghe thấy tiếng kèn hoặc tiếng chuông và bất cứ một tín hiệu gì cho tôi hiểu rằng đã có lệnh giới nghiêm. Hai viên cảnh sát lơ đễnh ngó mớ giấy tờ tùy thân của tôi và nghe tôi giải thích vì sao phải ở đây. Họ trả lại tôi giấy tờ mà không thèm ngó ngàng gì đến. Họ hỏi tôi có bao nhiêu tiền và tôi nói là chưa đến bốn peso. Một người liền hỏi xin điếu thuốc lá, tôi đưa mẩu thuốc định hút trước khi ngủ. Anh ta giằng lấy và hút đến tận móng tay. Một lúc sau, có lẽ là vì muốn được hút thuốc hơn là vì nghĩa vụ thực thi luật pháp họ lôi tôi đi tìm cửa hàng thuốc còn mở cửa để mua loại thuốc lá rời bán lẻ từng xu. Dưới vầng trăng đầy đặn, đêm sáng hơn và mát mẻ hơn, sự im lặng cũng giống như một thứ vật chất vô hình mà người ta có thể hít thở được tựa không khí. Lúc đó, tôi mới hiểu câu nói của bố mà trước đây không bao giờ chúng tôi tin là chơi đàn vĩ cầm vào lúc rạng sáng trong sự im lặng của nghĩa địa sẽ cảm nhận được những bản valse tình yêu có thể được vọng đến khắp nơi trong vùng Caribe.
Mệt mỏi vì không tìm được cửa hàng bán thuốc lá lẻ, chúng tôi liền đi ra phía cảng nơi có nếp sinh hoạt riêng với những con tàu từ Curazao, Aruba và các nơi trong quần đảo nhỏ Antillas hướng đến. Ở đây, những người có giấy phép đi trong giờ giới nghiêm từ trong phố đổ ra vui chơi. Họ ăn uống cho đến rạng sáng ở một tiệm ngoài trời. Tiệm này không có tên chính thức và người ta chỉ kháo nhau đó là La Cueva (Hang động).
Hai viên cảnh sát đến đó như về nhà mình. Người ta mời chúng tôi cùng ăn tối. Họ đối xử với hai người cảnh sát thân mật như người hầu. Một người nghiêm nghị và có phản xạ của đứa bé ngoan ngoãn trên bàn ăn. Người kia có vẻ đần, trừ khi ăn và hút. Tôi do nhút nhát nên gọi ít thức ăn hơn họ; khi tôi mới cảm thấy giải quyết được phân nửa cái đói thì họ đã ăn xong. Sau bữa ăn, tôi đi cùng với hai viên cảnh sát làm nốt chuyến tuần tra đã bị trễ. Mặt trăng như một đĩa vàng trên trời. Từ nơi xa, cơn gió nhẹ cuốn theo tiếng nhạc và tiếng reo hò của đám hội lớn. Hai viên cảnh sát biết rõ trong các khu dân nghèo vào thời điểm giới nghiêm cũng không có ai lên giường mà thường tụ tập trong các đám nhảy múa được luân phiên tổ chức ở từng nhà, cho đến tận sáng bạch nên chẳng có ai đi ra phố.
Khi chuông điểm hai giờ thì chúng tôi về đến khách sạn và tôi biết chắc là các bạn đã đến, nhưng khốn nạn thay tay gác đêm không chịu đánh thức bất cứ ai dậy vì bất cứ lý do gì. Hai viên cảnh sát hiểu ngay là tôi không có chỗ ngủ nên quyết định đưa tôi về đồn. Tôi cảm thấy như bị làm nhục nên nổi cáu văng ra một câu xấc xược. Kinh ngạc vì phản ứng trẻ con của tôi, một viên cảnh sát dí nòng súng vào bụng tôi để lập lại trật tự.
- Bỏ thói mất dạy đó ngay đi - ông ta nói trong tiếng cười sặc sụa. - Anh phải nhớ là mình đang bị bắt vì vi phạm lệnh giới nghiêm đấy!
Và thế là tôi được ngủ trong một buồng giam dành cho sáu người trên một chiếc chiếu chua loét mùi mồ hôi của kẻ khác trong cái đêm đầu tiên hạnh phúc ở Cartagena.
Hiểu được tâm hồn của thành phố còn dễ hơn việc sống sót qua ngày đầu tiên. Chưa đến hai tuần lễ tôi đã giải quyết xong mối quan hệ với bố mẹ, họ hoàn toàn ủng hộ quyết định của tôi về sống ở một thành phố không có chiến tranh. Bà chủ khách sạn, ân hận vì kết án tôi ngủ một đêm trong trại giam, đã bố trí tôi ở với hai mươi sinh viên khác trong những phòng được cải tạo lại trên sân thượng của ngôi nhà rất xinh đẹp của bà được xây từ thời thuộc địa. Tôi không còn gì phải phàn nàn, vì các phòng này là một bản sao khu ký túc xá của trường trung học nội trú với giá rẻ hơn nhà trọ ở Bogota nhưng lại có đầy đủ dịch vụ.
Việc nhập học ở khoa luật được giải quyết trong một giờ với bài kiểm tra trước mặt của Chủ nhiệm khoa, Ignacio Velez Martinez, và một thầy giáo môn kinh tế chính trị học mà trong bộ
nhớ của tôi không ghi được đầy đủ tên họ. Theo lệ thường, việc thi nhập học được tiến hành trước sự hiện diện của tất cả sinh viên năm thứ hai. Theo kết quả bốc thăm, đề tài đầu tiên là cuộc nội chiến nước Mỹ mà tôi hoàn toàn mù tịt. Tiếc là trước đó tôi chưa kịp đọc các tác phẩm của các nhà văn mới của Mỹ vừa được bán ở Colombia, nhưng cũng còn may là lúc đó tiến sĩ Velez Martinez bắt đầu nói đến cuốn Túp lều của bác Tom, mà tôi biết khá rành từ hồi còn học phổ thông. Tôi vội vớ lấy dịp may. Có lẽ hai thầy giáo đã bị một đòn tình cảm đánh gục vì bảy mươi phút dành cho cuộc kiểm tra đã được chúng tôi tận dụng hết để làm một cuộc phân tích tình cảm về sự ô nhục của chế độ nô lệ ở miền Nam nước Mỹ thời đó. Và thế là xong. Tức là theo kiểu bốc thăm xoay vòng nòng súng ru lô có một viên đạn trong ổ, số thời gian dành cho bài kiểm tra của tôi trở thành một cuộc nói chuyện vui vẻ lại được điểm khá cùng một tràng vỗ tay thân mật.
Thế là tôi lại vào đại học để học xong năm thứ hai khoa luật với điều kiện mà tôi không bao giờ thực hiện là phải thi lại một hoặc hai môn chưa đạt trong năm thứ nhất ở Bogota. Một số bạn học rất ưa thích cách thức nắm vấn đề của tôi vì họ theo phái chủ trương tự do sáng tạo trong trường đại học vốn có luật lệ kinh viện nghiêm khắc. Trong giấc mơ cô đơn từ thời trung học, tôi đã luôn ấp ủ niềm hy vọng làm tốt các bài thi mà không cần phải học. Cũng may là trong đời thực có nhiều thầy giáo thuần thục trong nghệ thuật duy trì lệ tổ chức các buổi khiêu vũ vào thứ Sáu hàng tuần dù có nguy cơ đàn áp ngày càng khốc liệt trong thời gian có lệnh giới nghiêm. Các cuộc khiêu vũ vẫn được tổ chức nhờ sự thỏa thuận qua bàn tay trái với các nhà chức trách trong suốt thời gian giới nghiêm. Khi lệnh này được bãi bỏ thì những đêm khiêu vũ lại càng sôi nổi hơn, nhất là ở Torices, Getsemaní, Popa, các khu dân nghèo ưa thích hội hè nhảy múa nhất trong những năm đen tối đó. Một trong những đêm say sưa nhất ở khu Getsemaní, tôi bỗng thấy có ai đập mạnh vào lưng và nói vào tai:
- Đồ ăn cướp!
Hóa ra là Manuel Zapata Olivella, một cư dân ngoan cố của phố Mala Crianza, nơi mà từ cụ tổ người châu Phi cho đến ông bà nội ngoại của anh đã từng sống. Chúng tôi đã gặp nhau ở Bogota trong ngày 9 tháng 4 rực lửa nên điều ngạc nhiên đầu tiên khi gặp lại ở Cartagena là cả hai vẫn sống. Không chỉ là một bác sĩ từ thiện, Manuel còn là một nhà văn, một chính khách tích cực và một người truyền bá âm nhạc vùng Caribe, nhưng nguyện vọng cháy bỏng nhất của ông là tìm cách giải quyết vấn đề cho tất cả mọi người. Trong khi chúng tôi vừa trao đổi kinh nghiệm về ngày thứ Sáu bi thảm và kế hoạch tương lai của mình thì Manuel liền đề nghị tôi thử vận may trong nghề làm báo. Tháng trước, nhà lãnh đạo phái tự do, Domingo Lopez Escauriaza, đã sáng lập tờ nhật báo El Universal mà thư ký tòa soạn là Clemente Manuel Zabala - một nhà nghiên cứu âm nhạc uyên thâm và là một người cộng sản đã ngưng hoạt động chứ không phải là một nhà báo mà người ta vẫn từng đồn thổi. Zapata Olivella cứ thúc giục tôi đến gặp ông vì biết ông đang tìm những người mới để làm thứ báo chí sáng tạo mẫu mực chống lại thứ sáo mòn và nhẫn nhục đang ngự trị trong làng báo cả nước, nhất là ở Cartagena vốn là một trong những thành phố trì trệ bậc nhất.
Tôi biết rõ làm báo không phải là nghề của mình. Tôi muốn trở thành một nhà văn khác hẳn, nhưng lại bắt chước những tác giả khác chẳng có gì giống mình cả. Thế là vào thời gian đó, tôi đang dừng lại để suy nghĩ bởi vì sau ba truyện ngắn đầu tiên được đăng ở Bogota và rất được Eduardo Zalamea và các nhà phê bình, tốt có, xấu có, khen ngợi, tôi cảm thấy mình đang ở trong đường hầm không lối thoát. Ngược với suy nghĩ của tôi, Zapata Olivella cứ nhấn mạnh rằng báo chí và văn chương trong thời gian ngắn nữa cũng chỉ là một, và rằng giữ mối quan hệ với tờ El Universal có thể bảo đảm cho tôi đạt được cả ba mục tiêu cùng một lúc: kiếm sống một cách xứng đáng và có ích, có được một chuyên môn mà bản thân nó đã là một nghề quan trọng và được làm việc với Clemente Manuel Zabala, người thầy tốt nhất trong ngành báo chí. Tính nhút nhát đã ngăn tôi không hiểu được lý lẽ giản đơn như vậy và suýt nữa sẽ là một nỗi bất hạnh của đời mình. Nhưng Zapata Olivella không bao giờ chịu thất bại và anh đã ép tôi đi đến số nhà 381 đường San Juan de Dios, trụ sở tòa soạn của tờ báo vào năm giờ chiều ngày hôm sau.
Đêm đó, tôi ngủ chập chờn. Vào buổi điểm tâm sáng hôm sau, tôi hỏi bà chủ khách sạn phố San Juan de Dios ở đâu và bà ta chỉ tay ra phía cửa sổ.
- Ngay kia kìa - bà ta nói với tôi - chỉ cách đây hai dãy phố thôi.
Nơi đó là tòa soạn El Universal, ngay trước bức tường lớn của nhà thờ San Pedro Claver, ông thánh đầu tiên của châu Mỹ mà thân thể không bị hư hại dù đã phơi bày ra từ hơn một trăm năm nay. Đó là một căn nhà theo lối kiến trúc thời thuộc địa pha thời cộng hòa có hai cửa ra vào lớn và những cửa sổ rộng khiến người ta có thể nhìn thấy bên trong tòa báo là như thế nào. Nhưng nỗi hãi hùng của tôi lại đang ngồi phía sau cầu thang thô mộc cách cửa sổ khoảng ba mét: đó là một người đàn ông đứng tuổi và cô đơn, mặc bộ đồ trắng, có nước da sạm đen, tóc đen cứng và thường viết bằng bút chì trên chiếc bàn cũ đầy ắp giấy tờ. Tôi đi đi lại lại hai ba vòng và lần thứ tư cũng vẫn như lần thứ nhất, tôi hoàn toàn tin rằng người đó chính là Clemente Manuel Zabala, đúng y như tôi đã hình dung từ trước, nhưng trông đáng sợ hơn. Quá sợ hãi, tôi quyết định không đến cuộc hẹn chiều hôm đó với người đàn ông mà chỉ nhìn qua cửa sổ cũng biết là quá biết về đời và nghề. Trở về khách sạn và tận hưởng thêm một ngày không ân hận, nằm ngửa đọc Bọn làm bạc giả của André Gide và hút thuốc liên tục. Vào lúc năm giờ, cửa phòng ngủ bật mở rầm như tiếng súng:
- Mẹ kiếp, đi nào! - từ cửa Zapata Olivella đã hét toáng lên với tôi - Zabala đang chờ cậu đấy, và nên nhớ là không có ai ở cái đất nước này dám để ông ấy chờ đâu nhé.
Khởi đầu là bước khó khăn nhất của một sự kiện mà ta tưởng tượng như là cơn ác mộng. Zabala tiếp đón tôi mà không biết phải làm gì nên cứ rít thuốc liên tục trong bầu không khí nóng ngột ngạt. Ông chỉ ra tất cả. Một bên là Ban lãnh đạo và Ban trị sự, phía khác là Ban biên tập và xưởng nơi có ba bàn còn trống vào giờ còn sớm này và trong cùng là một máy in dây chuyền.
Tôi rất ngạc nhiên là Zabala đã đọc ba truyện ngắn của tôi và ông thấy bài viết của Zalamea là hợp lý.
- Riêng tôi thì thấy không đúng - tôi nói với ông. - Tôi không thích những truyện ngắn đó. Tôi viết nó vì những thôi thúc vô thức và sau khi được in ra không biết mình phải tiếp tục từ đâu nữa.
Zabala hít một hơi thuốc lá thật sâu và nói với Zapata Olivella:
- Đó là một dấu hiệu tốt đấy.
Manuel vội đón lấy thời cơ và nói với ông ấy rằng tôi có thể rất hữu ích cho tờ báo trong thời gian rảnh rỗi ở trường đại học. Zabala cho biết rằng ông cũng nghĩ như vậy khi Manuel Zapata xin cho tôi một cuộc hẹn. Và tối hôm trước, ông đã giới thiệu tôi như một cộng tác viên tiềm năng của tờ báo với ngài Lopez Escauriaza, Tổng biên tập.
- Thật là tuyệt vời. - Tổng biên tập đã dịu dàng mỉm cười và nói.
Chúng tôi không bàn thêm gì nữa nhưng thầy Zabala hẹn tôi chiều mai quay lại để giới thiệu với Héctor Rojas Herazo, nhà thơ và họa sĩ giỏi giang và là người viết bình luận chính của báo. Vì nhút nhát nên tôi đã không dám thú nhận đó là người đã dạy tôi môn vẽ hồi ở trường San Jose. Vừa ra khỏi, Manuel đã nhảy cững lên ở trên quảng trường trước tường nhà thờ San Pedro Claver và nói to với niềm vui hơi sớm:
- Thấy chưa, hổ đực, gươm đã tuốt ra rồi nhé!
Để khỏi làm anh cụt hứng, tôi liền đáp lại bằng việc thân mật ôm anh, nhưng tôi vẫn rất hoài nghi về tương lai của mình. Manuel hỏi tôi thấy ông Zabala như thế nào và tôi nói đúng điều mình nghĩ: đó là một người đi câu tâm hồn. Có lẽ đó là nguyên nhân quyết định việc các nhóm thanh niên tập hợp quanh ông. Tôi kết luận, dù chưa đánh giá đúng người đàn ông già trước tuổi này, và chính cách sống đã ngăn trở ông đóng vai trò quyết định trong đời sống công cộng của đất nước.
Tối hôm ấy, Manuel gọi cho tôi, vừa cười sặc sụa vừa kể về cuộc nói chuyện tức thì với Zabala. Zabala nói về tôi rất nhiệt tình và khẳng định niềm tin của ông là đã kiếm được người quan trọng cho chuyên mục bình luận của tờ báo và ông Tổng biên tập cũng nghĩ như vậy. Nhưng lý do thực sự mà anh gọi cho tôi là để báo tôi biết là điều duy nhất mà thầy Zabala còn lo lắng chính là tính nhút nhát e dè có thể sẽ là một cản trở lớn trong cuộc đời tôi.
Sở dĩ cuối cùng tôi quyết định đến với tờ báo là vì sáng hôm sau, khi tôi vừa ở phòng tắm ra thì một người bạn cùng phòng ngủ đã dí vào mắt tôi trang sự kiện của tờ El Universal. Đó là một bài viết khủng khiếp về việc tôi đến thành phố và rằng tôi cam kết trở thành nhà văn trước khi việc này thành sự thật và sẽ trở thành nhà báo xuất sắc chỉ hai mươi bốn giờ sau khi lần đầu tiên được nhìn thấy từ bên trong tòa báo. Manuel liền gọi điện chúc mừng nhưng tôi bực bội trách anh đã viết những điều vô trách nhiệm như vậy mà không hề báo trước với tôi nửa lời. Tuy vậy, có điều gì đó đã thay đổi trong tôi và có lẽ đó là đổi thay vĩnh viễn, khi tôi biết được rằng bài báo đó chính là do thầy Zabala trực tiếp viết. Thế là tôi thít lại dây lưng quần và quay lại tòa báo để cảm ơn ông. Ông gần như không để ý đến lời tôi nói. Ông giới thiệu tôi với Héctor Rojas Herazo đang mặc quần ka-ki và áo sơ mi hoa sặc sỡ của xứ Amazon, giọng oang oang sấm và không ngơi miệng cho đến khi con mồi bị mắc bẫy mới thôi. Tất nhiên là ông không còn nhớ tôi là một trong những học trò của mình hồi ở trường San Jose ở Barranquilla.
Thầy Zabala - như tất cả mọi người vẫn gọi - gợi chúng tôi nhớ lại hai hoặc ba người bạn chung và một số khác mà tôi có lẽ đã quen biết. Sau đó, ông để chúng tôi ở lại và quay về với cuộc chiến tranh tàn khốc. Héctor tiếp tục nói chuyện với tôi trong tiếng đều đều của máy in như tiếng mưa phùn nhẹ tênh tựa như anh cũng chẳng có liên quan gì đến Zabala nữa cả.
Mười giờ đêm, khi tòa báo đóng cửa thì thầy Zabala khoác áo, thắt lại cà vạt, bước tới với bước đi của nghệ sĩ múa ba lê và chút sức trẻ còn lại, đến mời chúng tôi đi ăn tối. Tất nhiên là ở nhà hàng La Cueva, nơi bất ngờ Jose Dolores và một số người ăn khuya nhận ra tôi. Lại càng ngạc nhiên hơn khi một trong hai viên cảnh sát bắt tôi phải kể một chuyện vui diễn ra trong cái đêm tệ hại mà tôi phải ngủ trong trại giam và tịch thu của tôi bao thuốc mới hút được mấy điếu. Héctor cũng thi nói tếu với Jose Dolores làm đám thực khách cười vỡ bụng trong khi thầy Zabala im lặng với vẻ hài lòng. Tôi cũng tham gia dăm câu vô thưởng vô phạt, nhưng tối thiểu cũng để mọi người biết mình là một trong số ít khách hàng được Jose Dolores xem như vật tín chấp để có thể phục vụ mọi người trả chậm đến bốn lần trong một tháng.
Sau khi ăn tối, tôi và Héctor tiếp tục cuộc nói chuyện buổi chiều khi bước đi thong thả trên đại lộ Martires đối diện với bãi biển đậm đặc mùi phế thải của khu chợ công cộng. Đó là một đêm trong sáng giữa trung tâm thế giới. Trong buổi rạng sáng này, Héctor đã hé cho tôi những tia sáng đầu tiên về lịch sử ngầm của Cartagena, được che bằng tấm khăn đẫm nước mắt, mà có lẽ nó gần với thực tế hơn sự hư cấu vui vẻ của các nhà kinh viện. Anh đã kể cho tôi về mười liệt sĩ được đúc tượng đá đặt hai bên đại lộ để chủ nghĩa anh hùng của họ được lưu danh muôn thuở. Theo cách kể lại của nhân dân - cũng giống như của anh - thì khi đặt các bức tượng này lên bệ đá, các nhà điêu khắc không khắc tên và ngày sinh của từng người lên bức tượng mà lại khắc trên bệ. Cho nên sau khi dỡ các bức tượng xuống để lau các vết xây xát nhân kỷ niệm một trăm năm, người ta không còn biết lắp lại cho đúng chỗ cũ đành để vào bất cứ bệ nào còn trống và thế là không còn biết đúng tên tuổi của từng người nữa. Chuyện này được người ta đồn thổi như là một chuyện khôi hài từ nhiều năm nay, nhưng tôi thì nghĩ ngược lại, việc để cho các anh hùng liệt sĩ không còn tên cụ thể là lập lại công bằng lịch sử không vì công tích trong cuộc đời từng người riêng lẻ mà vì họ cùng có chung một số phận.
Những cuộc vui và nói chuyện thâu đêm suốt sáng được lặp lại gần như hàng ngày trong những năm tháng tôi sống ở Cartagena, nhưng ngay từ đêm thứ hai hay thứ ba gì đó tôi đã nhận ra rằng, Héctor có sức hút mọi người ngay lập tức nhờ tình bằng hữu sâu đậm mà chỉ những người yêu mến anh thực sự mới hiểu được. Anh rất dịu dàng, nhưng đồng thời cũng có thể nổi cơn tức giận ngay lập tức, rồi sau lại tự khen mình như Chúa Hài Đồng. Chúng tôi hiểu anh là người như thế nào và tại sao thầy Zabala làm hết cách để chúng tôi yêu mến anh như yêu mến chính ông vậy. Đêm đầu tiên cũng như những đêm sau đó, chúng tôi ở trên đại lộ Martires cho đến tận rạng sáng mà không lo lệnh giới nghiêm vì chúng tôi là nhà báo.
Ba giờ sau, tôi thức dậy vì cú điện thoại của thầy Zabala với một câu nói không được hạnh phúc mấy:
- Tác phẩm bậc thầy viết đến đâu rồi?
Phải mất mấy phút tôi mới hiểu là ông muốn nói về bài báo cộng tác của tôi cho số ngày hôm sau. Bây giờ tôi không nhớ là trước đó chúng tôi đã ký hợp đồng hay chưa hay là ông có đề nghị tôi viết bài cộng tác đầu tiên hay không, nhưng sáng hôm đó thì tôi cảm thấy đủ khả năng làm bất cứ việc gì sau một đêm thi olympic nói chuyện. Zabala chắc là hiểu như vậy vì không đề ra một đề tài cụ thể nào cho ngày hôm đó và tôi đề nghị ngay một vấn đề mà mình cho là nóng hổi: lệnh giới nghiêm.
Ông không định hướng gì cho tôi cả. Mục đích của tôi là kể lại cuộc phiêu lưu trong đêm đầu tiên ở Cartagena và tôi trực tiếp viết tay vì không thể quen với chiếc máy chữ thời tiền sử ở tòa báo. Đó là một ca sinh nở kéo dài bốn tiếng đồng hồ được người thầy trực tiếp duyệt lại trước mặt tôi với sự chăm chú đến mức không để cho tôi đoán được ý nghĩ của ông cho đến khi ông tìm được cách nói bớt cay đắng với tôi:
- Không tệ, nhưng không thể đăng được.
Tôi không ngạc nhiên. Ngược lại, tôi đã dự liệu trước và trong giây lát tôi như cất được gánh nặng trần ai phải làm một nhà báo.
Nhưng lý do thực sự của ông mà tôi không biết được lại mang tính quyết định: từ ngày mồng 9 tháng 4, ở bất cứ tòa soạn báo nào trong cả nước, chính phủ đều bố trí một nhân viên kiểm duyệt ngồi ở bộ phận biên tập như biên chế của cơ quan báo, từ sáu giờ chiều với đầy đủ ý chí và quyền lực để không cho phép một chữ nào làm phương hại đến trật tự công cộng.
Lý do mà thầy Zabala đưa ra làm tôi đau hơn so với lý do của chính phủ bởi vì tôi không viết bài đó như một thiên bình luận báo chí mà kể lại một cách khách quan chuyện riêng của mình và không hề có dụng ý làm báo. Ngoài ra, tôi cũng không đề cập đến lệnh giới nghiêm như một công cụ hợp pháp của Nhà nước mà như mẹo của một số nhân viên cảnh sát ngu dốt để xin thứ thuốc lá bán từng xu. Cũng may là trước khi tuyên án tử hình tôi, thầy Zabala còn trả lại bản thảo để tôi sửa lại không phải cho ông mà cho nhân viên kiểm duyệt xem và ông còn làm phúc cho tôi một lời nhận xét như con dao hai lưỡi:
- Giá trị văn học thì bài này có đấy, mà đầy đủ là đằng khác - ông nói với tôi. - Nhưng về việc này chúng ta sẽ nói chuyện sau nhé!
Ông ấy là như vậy. Ngay từ ngày đầu tiên đến tòa báo, khi Zabala nói chuyện với tôi và Zapata Olivella, tôi đã để ý đến thói quen kỳ lạ của ông, vừa nói chuyện với một người vừa nhìn thẳng vào mặt người khác, còn móng tay thì bị đốt cháy vì thuốc lá. Lúc đầu, việc này gây cho tôi một sự thiếu tự tin rất khó chịu. Cách đỡ ngu nhất mà tôi nghĩ ra là cứ chăm chú nghe ông nói nhưng không nhìn ông mà quay sang Manuel. Sau đó, khi đã nói chuyện với Rojas Herazo, với ông Tổng biên tập Lopez Escauriaza và nhiều người khác, tôi nghiệm ra rằng đó là cách nói chuyện rất riêng của ông Zabala khi có đông người. Khi đã tin nhau, ông giải thích là mình thường nhìn nghiêng người đối thoại để khỏi phả khói thuốc lá vào mặt người ta. Tôi chưa quen biết ai có tính tình hiền hậu và cẩn thận, ý thức công dân mạnh mẽ như ông, bởi vì ông luôn luôn biết cách làm điều mình muốn: ông là một nhà bác học trong bóng tối.
Tôi đã từng viết diễn văn, thơ ca thời học sinh ở trường tại Zapaquirá, những tuyên bố yêu nước và những lá thư phản đối về thức ăn dở, và thêm những thứ khác, chưa kể những bức thư mà mẹ gửi trả lại với những lỗi chính tả đã được sửa kể cả khi tôi đã là một nhà văn nổi tiếng. Thế mà bài được đăng trên mục bình luận không còn giống gì với bài tôi đã viết. Giữa những sửa chữa của người thầy và của nhân viên kiểm duyệt, những gì còn lại của tôi chỉ là vài miếng bạc nhạc của thứ văn xuôi trữ tình nhạt nhẽo về ý tứ và phong cách, chưa kể lại còn bị đòn kết liễu về ngữ pháp của anh chàng sửa bản in nữa. Đến phút cuối cùng, họ thống nhất giao cho tôi một cột báo, có lẽ để giảm bớt trách nhiệm, được ký tên đầy đủ và một cái đầu đề thường xuyên là “Xuống dòng” .
Zabala và Rojas Herazo, vốn quen với nỗi cực nhọc hàng ngày của nghề báo, đã an ủi được tôi về nỗi vất vả khi viết bài đầu tiên và thế là tôi đủ can đảm viết tiếp bài thứ hai, bài thứ ba mà cũng không khá hơn. Tôi làm việc ở tòa soạn gần hai năm in được đến hai bài báo mỗi ngày vượt qua cửa ải kiểm duyệt, có ký tên lẫn không ký tên, và suýt nữa thì đã kết hôn với cháu gái của nhân viên kiểm duyệt nữa chứ!
Việc lực lượng cảnh sát đã được quân sự hóa chứng tỏ chính phủ quyết tâm thực hiện quyết liệt hơn chính sách bạo lực chính trị đang làm đổ máu khắp nơi trên cả nước, tuy ở vùng duyên hải biển Caribe tình hình có dịu hơn chút ít. Nhưng đầu tháng Năm, cảnh sát vô cớ tấn công vào một đám rước trong Tuần lễ Thánh trên đường phố ở Carmen de Bolivar, cách Cartagena khoảng hai mươi dặm. Tôi có điểm yếu về tình cảm đối với thị trấn ấy nơi bà bác Mama lớn lên và ông ngoại Nicolas chế tạo ra những con cá nhỏ bằng vàng nổi tiếng. Thầy Zabala sinh ra ở thị trấn San Jacinto bên cạnh, đã giao việc khá kỳ lạ cho tôi là phải sử dụng chuyên mục bình luận tin tức phớt lờ ngăn cản của kiểm duyệt và bất chấp hậu quả. Bài đầu tiên của tôi trên chương mục này không ký tên yêu cầu chính phủ điều tra kỹ lưỡng vụ tấn công đó và trừng phạt những kẻ thủ phạm. Và kết thúc bài viết với câu hỏi: “Chuyện gì đã xảy ra ở Carmen de Bolivar?”. Đứng trước sự làm ngơ của chính quyền, và trong cuộc chiến tranh trực diện với kiểm duyệt, chúng tôi cho in lại câu hỏi trên trong mỗi bài viết hàng ngày trên chính chuyên mục đó với ý chí ngày càng mạnh mẽ hơn. Sau ba ngày, Tổng biên tập khẳng định với Zabala là ông và toàn bộ Ban biên tập đồng ý tiếp tục với đề tài này. Như thế là chúng tôi tiếp tục với câu hỏi đó. Chúng tôi nhận được thông tin không chính thức rằng chính phủ ra lệnh cứ để cho chúng tôi một mình độc thoại cho đến khi đứt hơi thì thôi. Nhưng việc đó đâu dễ, vì câu hỏi hàng ngày của chúng tôi đã lan ra ngoài đường phố trở thành câu chào hỏi nhau của mọi người: “Xin chào người anh em, chuyện gì đã xảy ra ở Carmen de Bolivar vậy?”
Một buổi tối ít ngờ nhất, không hề báo trước, một đội tuần tra của quân đội bao vây khu phố San Juan de Dios và viên đại tá Jaime Polania Puyo, Tư lệnh lực lượng cảnh sát vũ trang, bước vào tòa soạn El Universal. Chúng tôi vốn biết ông ta là một người cứng rắn trong thời bình cũng như trong chiến tranh, điều này đã được chứng tỏ mấy năm sau khi ông ta chỉ huy tiểu đoàn quân Colombia tham gia chiến tranh ở Triều Tiên. Không ai đi đâu suốt hai tiếng đồng hồ căng thẳng trong lúc ông ta nói chuyện trong phòng kín với Tổng biên tập. Họ uống hai mươi mốt ly cà phê đen nhưng không hút thuốc lá và uống rượu vì cả hai tránh được thói xấu này. Ra khỏi phòng viên Tư lệnh càng tỏ ra căng thẳng hơn lúc chia tay với từng người chúng tôi. Ông dừng lại chỗ tôi hơi lâu, nhìn thẳng vào mắt tôi và nói:
- Ông còn đi xa nữa đấy!
Tôi thấy như tim mình ngừng đập vì nghĩ rằng có lẽ ông ta đã biết rất rõ về tôi, và còn đi xa nữa đối với ông ta có thể là cái chết. Tổng biên tập nói riêng với Zabala rằng viên Tư lệnh biết rõ tên họ của người viết từng bài. Tổng biên tập, theo cách riêng của mình, đã nói với ông ta rằng mọi người trong tòa soạn đều làm theo lệnh của ông và trong cơ quan báo cũng như trong trại lính mọi mệnh lệnh đều phải được thi hành. Dù sao thì viên Tư lệnh cũng khuyên Tổng biên tập là dịu bớt chiến dịch này kẻo nhỡ có kẻ man rợ ở hang động nào đó nhân danh chính phủ của hắn để thực thi công lý thì làm sao. Tổng biên tập và tất cả chúng tôi đều hiểu đến cả những gì ông ta không nói. Điều làm Tổng biên tập ngạc nhiên nhất là ông ta khoe khoang sự hiểu biết kỹ càng về mọi mặt trong sinh họat nội bộ của tòa báo y như ông đã từng sống ở trong đó vậy. Không ai nghi ngờ gì chuyện điệp viên bí mật của ông ta trong tòa báo chính là nhân viên kiểm duyệt mặc dù ông này thề trước vong linh của mẹ rằng mình không phải là gián điệp. Điều duy nhất mà viên Tư lệnh không chịu trả lời trong chuyến thăm là về câu hỏi đã đăng hàng ngày trên báo của chúng tôi. Tổng biên tập vốn nổi tiếng là một người hiểu biết đã khuyên chúng tôi phải tin những lời họ đã nói vì sự thật là có thể sự việc sẽ còn tệ hại hơn.
Từ khi tham gia vào cuộc chiến tranh chống kiểm duyệt, tôi bắt đầu lơ đãng với trường đại học và truyện ngắn. May mà phần lớn các thầy không điểm danh nên đỡ cho tôi lỗi vắng mặt ở lớp. Ngoài ra, khi biết tôi né tránh kiểm duyệt, các thầy theo phái tự do còn lo lắng hơn cả tôi và còn tìm cách giúp đỡ tôi trong các kỳ kiểm tra.
Bố mẹ tôi ngủ ngon lành hơn khi được tôi cho biết là đã kiếm được kha khá tiền trong tòa soạn báo đủ để sống sót. Sự thật thì không phải vậy. Lương học việc chỉ vừa đủ cho tôi chi tiêu trong một tuần lễ. Chưa đầy ba tháng tôi đã phải rời khỏi khách sạn với số nợ không thể trả nổi, nên bà chủ đề nghị trừ một phần vào việc viết một bài báo đăng trên chuyên mục xã hội về lễ sinh nhật lần thứ mười lăm của cháu gái bà ta. Nhưng tôi chỉ chấp nhận vụ buôn bán này có đúng một lần.
Sau buổi đàm đạo thâu đêm, chỗ ngủ thường xuyên và mát mẻ nhất vẫn là đại lộ Martires, dù vẫn còn lệnh giới nghiêm. Vài lần khác thì tôi ngủ trong nhà kho trên những cuộn giấy in báo, hoặc có khi tôi ôm võng lưới đến ngủ ở trong phòng đám sinh viên chịu được những cơn ác mộng và thói xấu nói mớ của tôi. Tôi đã sống sót một cách may mắn như vậy, ăn những gì mình có, ngủ nơi Thượng Đế muốn, cho đến một hôm bộ tộc nhân hậu thuộc gia đình Franco Múnera đề nghị cho tôi ăn ngày hai bữa với một giá cảm thông. Người cha của bộ tộc - Bolivar Franco Pareja - vốn là giáo viên sử ở trường tiểu học, đứng đầu một gia đình toàn những người vui tính, rất hâm mộ các văn nghệ sĩ đã bắt tôi phải ăn hơn cả số tiền đã trả để đầu óc tôi khỏi khô cứng. Nhiều khi tôi không còn tiền trả nữa, họ liền vui vẻ cho trừ nợ bằng buổi ngâm thơ sau mỗi bữa ăn. Nguồn thơ cho phi vụ trao đổi rất hời đó là những bài thơ của Jorge Manrique về cái chết của bố ông và Romancero Gitano của Garcia Lorca.
Những nhà chứa ngoài trời ở bãi biển Tesca, cách xa sự im lặng khó chịu của khu phố, còn mến khách hơn cả các khách sạn cho khách du lịch ở bãi biển. Nửa tá sinh viên chúng tôi ở lỳ trong El Cisne từ ngày đầu để ôn thi cuối học kỳ dưới ánh sáng chói của khu vườn dành cho khiêu vũ. Cơn gió biển và tiếng ầm ào của những con tàu mỗi sớm mai làm chúng tôi quên đi tiếng sấm vùng Caribe và sự khêu gợi của các cô gái nhảy không thích mặc áo khi khiêu vũ và váy thì thật rộng để gió có thể thổi thốc lên tận hông. Thỉnh thoảng, một cô gái bé nhỏ nhớ cha mẹ lại rủ chúng tôi ngủ cùng với chút tình yêu dư thừa vào buổi bình minh. Một trong những cô gái ấy mà tên gọi và vóc dáng tôi còn nhớ rất kỹ, đã bị tôi mê hoặc bằng những câu chuyện thần tiên kể khi ngái ngủ. Nhờ cô ấy mà tôi thi đỗ môn luật La Mã và tránh được vài cuộc vây bắt của cảnh sát khi người ta cấm ngủ ở công viên. Chúng tôi hiểu nhau như một cặp vợ chồng hữu ích, không chỉ trên giường, mà cả những công việc bếp núc mà tôi làm vào sáng sớm để cô ấy có thể ngủ thêm vài giờ đồng hồ nữa.
Đến lúc đó, tôi đã bắt đầu thông thạo công việc biên tập mà tôi coi là có hình thức văn học hơn là báo chí. Bogota, cơn ác mộng của quá khứ đã cách xa hơn hai trăm dặm và cao hơn hai ngàn mét trên mặt nước biển, chỉ còn làm tôi nhớ đến những cảnh đổ nát trong ngày mồng 9 tháng 4. Tiếp tục say sưa nghệ thuật và văn học, nhất là trong những cuộc đàm đạo lúc nửa đêm, nhưng tôi cũng bắt đầu mất đi sự say mê hứng thú làm nhà văn. Đúng là như vậy, vì tôi không viết được truyện ngắn nào nữa kể từ khi được in ba truyện trên báo El Espectador, cho đến khi Eduardo Zalamea tìm thấy tôi vào đầu tháng Bảy và đề nghị, qua trung gian của thầy Zabala, gửi cho báo ông truyện ngắn khác sau sáu tháng im hơi lặng tiếng. Lời đề nghị dù bất cứ của ai cũng buộc tôi phải tìm mọi cách lấy lại ý tưởng đã mất trong các bản thảo của mình và tôi viết “Chiếc xương sườn khác của cái chết” , hầu như rất ít thay đổi so với bản thảo cũ. Tôi nhớ rất rõ là truyện này không hề có cốt truyện chuẩn bị sẵn và cứ viết đến đâu, tôi lại bịa ra đến đấy. Giống như các truyện ngắn trước đây, nó cũng được in trên phụ trương “Cuối tuần” vào ngày 25 tháng 7 năm 1948, và tôi không viết thêm truyện ngắn nào nữa cho đến tận những năm sau, khi đời tôi đã có nhiều đổi thay. Tôi chỉ còn thiếu việc từ bỏ hẳn những buổi lên lớp ít ỏi ở khoa luật mà tôi thỉnh thoảng đáo qua chỉ để tiếp tục nuôi dưỡng mơ ước của bố mẹ mà thôi.
Tôi cũng không ngờ mình sẽ là người học trò khá nhất trong thư viện của Gustavo Ibarra Merlano, một người bạn mới mà thầy Zabala và Rojas Herazo nhiệt tình giới thiệu cho tôi. Anh ấy vừa tốt nghiệp đại học sư phạm ở Bogota trở về và ngay lập tức tham gia vào các cuộc đàm đạo lúc nửa đêm của El Universal và các cuộc nói chuyện lúc sáng sớm trên đại lộ Martires. Giữa đôi môi núi lửa của Héctor và tính đa nghi sáng tạo của thầy Zabala, Gustavo cho tôi cảm giác về sự nghiêm túc có hệ thống mà những ý tưởng ngẫu hứng và vụn vặt của tôi còn thiếu và cho cả tính nhẹ dạ trong tôi nữa. Và tất cả những điều anh làm với tôi đều bằng cả tình thương mến và một cá tính sắt thép.
Vào ngày hôm sau, anh đã mời tôi đến nhà bố mẹ ở bãi biển Marbella với biển cả rộng mênh mông như sân sau, và một thư viện trên bức tường cao mười hai mét, mới mẻ và được sắp xếp khoa học, nơi chỉ lưu giữ những cuốn sách cần đọc đủ để sống thanh thản mà không hề ân hận. Thư viện có các tác phẩm cổ điển Hy Lạp, La-tinh và Tây Ban Nha được giữ gìn tốt đến mức cứ tưởng nó chưa hề được mở ra đọc, nhưng thực ra bên lề sách đều có những ghi chép rất uyên thâm, một số bút tích thậm chí bằng tiếng La-tinh. Gustavo còn sôi nổi đọc to lên và khi đọc mặt anh đỏ lựng đến tận chân tóc. Trước khi quen biết nhau, một người bạn đã nói với tôi về anh: “Đó là một vị thầy tu”. Tôi hiểu ngay tại sao mình lại dễ tin anh, và khi đã quen biết anh thật nhiều thì lại càng thấy không thể nào không tin anh được.
Trong lần gặp nhau đầu tiên ấy, chúng tôi đã nói chuyện đến tận sáng và tôi học được rằng: việc đọc sách là chuyện lâu dài và phải hết sức đa dạng, nhưng phải dựa vào vốn kiến thức sâu sắc của các vị trí thức công giáo mà trước đây tôi chưa từng nghe nói bao giờ. Anh đã biết tất cả mọi điều cần biết về thơ ca, đặc biệt là việc anh đã đọc thơ của các nhà thơ cổ điển La Mã - Hy Lạp bằng chính ngôn ngữ của họ. Anh cũng có thông tin về những người bạn chung và cho tôi biết nhiều thông tin quý giá để tôi càng yêu mến họ hơn. Anh cũng khẳng định tầm quan trọng của việc làm quen với ba nhà báo ở Barranquilla - Cepeda, Vargas và Fuenmayor - về những người này, chính Rojas Herazo và thầy Zabala cũng đã nói rất nhiều với tôi. Ngoài ra, tôi còn chú ý thấy anh không những có hiểu biết sâu rộng mà còn bơi giỏi như một vận động viên Olympic. Điều khiến anh lo lắng nhất cho tôi chính là việc tôi cho rằng các tác phẩm cổ điển Hy Lạp và La Mã là đáng chán và vô ích ngoại trừ Odyssey mà tôi đã phải đọc đi đọc lại từng đoạn hồi còn học phổ thông. Anh cho quan niệm của tôi là khá nguy hiểm. Trước khi chia tay, anh cầm một cuốn sách bìa bọc da, trịnh trọng đưa cho tôi và nói: “Anh có thể trở thành một nhà văn khá, nhưng sẽ không bao giờ thành nhà văn xuất sắc nếu không hiểu kỹ các tác giả cổ điển Hy Lạp”. Cuốn sách đó chính là toàn tập của Sófocles. Từ lúc đó, Gustavo đã trở thành một trong những người có ảnh hưởng quyết định trong cuộc đời tôi, bởi vì ngay trong lần đọc đầu tiên Vua Edipo, tôi đã coi tác phẩm này là vô cùng hoàn hảo.
Đó là một đêm lịch sử đối với tôi vì tôi đã phát hiện ra cùng một lúc cả Gustavo Ibarra lẫn Sófocles và cũng vì chỉ mấy giờ sau đó tôi suýt chết vì chuyện vớ vẩn trong buồng của cô bồ bí mật ở El Cisne. Bây giờ tôi còn nhớ như chuyện mới vừa xảy ra hôm qua. Lúc đó, có một thằng cha mà tôi đã tưởng chết từ hơn một năm bỗng đạp bung cửa buồng nhảy vào chửi bới om sòm. Tôi nhận ra gã bạn học từ thời tiểu học ở Aracataca thường giận dữ đòi chiếm giữ chiếc giường nằm. Từ đó, chúng tôi không còn gặp lại nhau. Lúc này tôi giả bộ làm ngơ khi hắn nhận ra tôi trần như nhộng và run cầm cập vì sợ ở trên giường.
Trong năm đó, tôi cũng quen Ramiro và Oscar de la Espriella, những người ưa nói chuyện dông dài, nhất là về những căn nhà bị đạo đức công giáo cấm đoán. Cả hai cùng sống với bố mẹ ở Turbaco, cách Cartagena một giờ đi xe, và hàng ngày đều có mặt trong các cuộc đàm đạo của các văn nghệ sĩ ở quán kem Americana. Ramiro đã tốt nghiệp khoa luật ở Bogota, rất quen thuộc với nhóm El Universal vì cộng tác không thường xuyên trên một chuyên mục. Bố của anh ta là một luật sư thuộc phái Tự do và người vợ thì rất xinh đẹp tính tình lại ngay thẳng. Tình bạn của Ramiro với tôi được lưu lại trong một bức tranh sơn dầu do nữ họa sĩ Cecilia Porras vẽ khi hai chúng tôi ngồi trong quán cà phê nơi chúng tôi thường gặp bà cùng với bạn bè, hai lần một ngày. Khi Ramiro và tôi chia tay nhau, giữa hai người xảy ra cuộc cãi cọ bất tận về ai sẽ là chủ nhân của bức tranh. Cecilia giải quyết một cách công bằng, bà cắt đôi bức tranh, người nào lấy phần người đó. Mấy năm sau, phần của tôi bị bỏ quên dưới đáy tủ quần áo ở Caracas và không bao giờ tôi tìm lại được.
Còn Oscar de la Espriella vốn là người ham vui nên rất đồng tình với ý kiến của William Faulkner rằng nhà chứa chính là nơi ngủ tốt nhất đối với một nhà văn, bởi vì buổi sớm mai thường rất tĩnh lặng, đêm nào cũng có lễ hội và dễ ăn nói với cảnh sát. Tuy nhiên, một đêm nọ, tôi lại ân hận vì đã tin mù quáng vào lời nói của William Faulkner khi một gã tình nhân cũ của Mary Reyes, bà chủ nhà chứa, bỗng giật tung cửa vào nhà, lôi đứa con chung của hai người đang ở với bà ta đi ra. Người tình mới của Mary là một sĩ quan cảnh sát, mặc quần đùi từ trong phòng ngủ bước ra sẵn sàng bảo vệ danh dự và tài sản của nhà bằng khẩu súng ru-lô giắt lưng, nhưng tên kia đã đón ông ta bằng một loạt đạn nổ to như trọng pháo ngay trong phòng khiêu vũ. Viên sĩ quan cảnh sát giật bắn mình vội trốn vào phòng. Khi tôi ló mặt ra khỏi buồng thì khách làng chơi cũng đang nhìn thằng bé đang sợ hãi đến vãi đái ra quần ở cuối hành lang, trong khi đó bố của nó dùng tay trái chải tóc và khẩu súng ngắn còn đọng hơi khói nằm bên tay phải. Người ta chỉ nghe tiếng chửi rủa của Mary đối với gã sĩ quan cảnh sát đang sợ đến teo cả hai tinh hoàn.
Những ngày đó cũng có một người cao lớn không hề báo trước đã bước vào tòa soạn El Universal. Mọi người ngạc nhiên khi thấy lưng và cánh tay của anh ta đầy vết sẹo. Anh giải thích: “Đó là vết cào của sư tử”. Đó là Emilio Razzore vừa đến Cartagena để chuẩn bị cho chuyến trình diễn của một trong những gánh xiếc gia đình lớn nhất thế giới. Họ đã rời La Habana trên chiếc tàu xuyên đại dương Euskera mang cờ Tây Ban Nha từ tuần trước và sẽ đến đây vào thứ Bảy tới. Razzore ở gánh xiếc từ trước khi ra đời và không cần xem anh biểu diễn cũng biết là người dạy thú dữ. Anh gọi từng con thú theo tên riêng của chúng như con cái trong nhà và chúng đáp lại bằng thái độ vừa hiền vừa dữ tợn. Anh thường tay không chui vào chuồng hổ và sư tử để trực tiếp cho chúng ăn. Con gấu cưng nhất đã dùng bàn tay yêu thương tát cho anh một phát khiến anh phải nằm viện suốt một mùa xuân sau đó. Sau nhiều giờ nghe anh kể những chuyện kỳ lạ, tôi đã viết một bài trên El Universal và cả gan buông câu, “Đó là người đàn ông nhân đạo nhất mà tôi từng được quen biết”. Đó không phải là quá lời vào cái thời tôi mới hơn hai mươi tuổi, nhưng bây giờ tôi tin là câu đó vẫn đúng. Chúng tôi và anh em trong tòa báo cùng ăn ở La Cueva, và ở đó, chính anh đã khiến tôi cảm thấy yêu những câu chuyện về những con thú dữ đã được thuần hóa bởi tình yêu thương. Một đêm nọ, tôi mạo muội xin anh đưa đến chỗ gánh xiếc, dù chỉ là để lau chuồng cho bầy hổ khi chúng không còn ở trong đó nữa. Anh không nói gì nhưng bắt tay tôi trong im lặng. Tôi nghĩ là anh đã đồng ý. Tôi chỉ nói chuyện này với Salvador Mesa Nicholls, nhà thơ và là người có tình yêu cuồng nhiệt đối với loài dê và vừa đến Cartagena cùng phụ với Razzore. Ở tuổi tôi, anh cũng đã đi theo đoàn xiếc nên đã cảnh báo tôi rằng người nào nhìn thấy các chàng hề khóc lần đầu tiên sẽ muốn đi theo họ nhưng hôm sau sẽ hối hận ngay. Tàu Euskera đã không đến đúng hẹn và không thể nào thiết lập được thông tin với nó. Sau một tuần, chúng tôi nhờ hệ thống dịch vụ điện tín dò tìm tin tức về điều kiện thời tiết trên biển Caribe, nhưng không ngăn được những tin tức khủng khiếp bắt đầu lan truyền trên báo chí và đài phát thanh. Những ngày căng thẳng đó, Mesa Nicholls và tôi luôn ở cạnh Emilio Razzore đang vô công rồi nghề ngủ trong khách sạn. Anh suy sụp hẳn về thể xác, trong nỗi chờ đợi bất tận cho đến khi trái tim khẳng định với chúng tôi rằng tàu Euskera sẽ mãi mãi không đến bất cứ nơi đâu nữa và không bao giờ còn ai biết tin tức gì về nó nữa. Người dạy thú còn tự giam mình trong phòng suốt ngày cho đến hôm sau anh đến tòa báo để nói với tôi rằng cuộc chiến hàng ngày trong suốt trăm năm nay không thể biến mất chỉ trong một ngày; rằng anh sẽ về Miami không gia đình và không một cái đinh nào để xây dựng lại, từng mảnh một, từ con số không bởi gánh xiếc đã bị chìm dưới đáy biển. Xúc động trước ý chí vượt qua tấn thảm kịch của anh, tôi hứa sẽ đi cùng anh đến Barranquilla để tiễn anh trên chuyến bay sang Florida. Trước khi lên máy bay, anh cảm ơn ý định của tôi đến thăm gánh xiếc và hứa sẽ cho tìm tôi khi có gì đó cụ thể. Khi chia tay, anh ôm tôi xiết mạnh khiến tôi cảm thông sâu sắc tình yêu của anh đối với những con sư tử. Từ đó trở đi, không bao giờ tôi còn biết tin về anh nữa.
Máy bay đi Miami khởi hành lúc mười giờ sáng cùng ngày với bài báo của tôi về Razzore: ngày 16 tháng 9 năm 1948. Vừa định về Cartagena ngay trong buổi chiều thì tôi bỗng nảy ra ý định rẽ vào thăm El Nacional, nhật báo buổi chiều nơi những người bạn của bạn tôi đang làm việc ở Cartagena. Tòa soạn đặt trong một ngôi nhà cũ nát của khu phố cổ, với một phòng dài, giữa có vách ngăn bằng gỗ không bóng người ngồi. Cuối phòng, một anh bạn trẻ tóc vàng, mặc áo sơ mi dài tay đang ngồi gõ nhịp trên chiếc máy đánh chữ rào rào như pháo nổ. Tôi rón rén đi vào cố tránh tiếng cót két rầu rĩ của nền gỗ và đứng ở chỗ vách ngăn, chờ cho đến khi anh quay lại; anh bỗng hỏi cộc lốc với chất giọng du dương của người dẫn chương trình chuyên nghiệp:
- Gì đấy?
Anh có mái tóc ngắn, gò má cao và đôi mắt trong sáng long lanh, ánh lên nét khó chịu vì bị ngắt mạch làm việc. Tôi trả lời anh với khả năng có thể, nhấn từng chữ:
- Tôi là García Márquez.
Tôi e rằng chỉ nghe tên này German Vargas có thể vẫn chưa biết đó là ai mặc dù ở Cartagena những người quen biết có bảo tôi là họ đã nói chuyện với bạn bè ở Barranquilla khá nhiều về tôi ngay từ khi mới được đọc truyện ngắn đầu tiên.