Chương 7
Như thế là tôi đã đăng bài báo đầu tiên ở trang bình luận của tờ El Heraldo của Barranquilla vào ngày 5 tháng 1 năm 1950. Tôi không muốn ký tên thật của mình để giữ gìn sức khỏe ngộ nhỡ ra mà không phát triển được như đã xảy ra ở tờ El Universal. Bí danh thì tôi không phải nghĩ đến lần thứ hai: Septimus, lấy từ Septimus Warren Smith, nhân vật rất lôi cuốn của Virginia Woolf trong quyển Bà Dalloway. Tên của chuyên trang - “La Jirafa” - là mật danh thân tình của người bạn nhảy duy nhất ở Sucre mà chỉ có tôi mới biết.
Hình như những cơn gió tháng Giêng năm nay thổi mạnh hơn mọi năm, cố lắm người ta mới đi được ngược gió trên những đường phố bị dập vùi tơi bời cho đến tận sáng sớm. Mỗi sáng thức dậy, đề tài bàn luận đầu môi của mọi người là thiệt hại do những cơn gió điên cuồng gây ra trong đêm, như cuốn phăng những giấc mơ cùng những chuồng gà và biến những mái tôn thành những cỗ máy chém biết bay.
Hôm nay, tôi nghĩ rằng những cơn gió điên cuồng ngày ấy quét sạch mọi dấu vết của quá khứ vô sinh và mở những cánh cửa cuộc đời mới cho mình. Quan hệ của tôi với nhóm bạn không còn là chuyện làm hài lòng nhau nữa mà đã biến thành sự kết dính trong chuyên môn. Lúc đầu, chúng tôi bàn luận về những đề tài trong các dự án hoặc trao đổi với nhau những nhận xét chẳng có gì là bác học nhưng không thể nào quên được. Nhận xét cuối cùng đối với tôi xảy ra vào một buổi sáng, lúc tôi vào quán cà phê Japy đúng lúc 3 giờ. German Vargas đang im lặng đọc nốt “La Jirafa” được cắt từ báo ngày hôm đó. Những người khác ngồi quanh bàn đang chờ lời phán quyết với nỗi sợ hãi thành kính làm làn khói thuốc trong phòng càng thêm đặc quánh. Đọc xong, không thèm nhìn tôi, German xé nát bài báo thành từng mảnh, rồi không nói nửa lời anh ta vứt vào mớ rác đầu thuốc và diêm đầy ứ trong cái gạt tàn. Không ai nói gì, cả làn khói thuốc trên bàn cũng không thay đổi và cũng chẳng ai bàn tán gì về chuyện này nữa. Nhưng bài học này giúp ích cho tôi những khi bị chi phối bởi cơn lười nhác hoặc sự vội vàng cẩu thả mà nhảy xổ vào công việc, viết ào một đoạn cho xong.
Những người chủ khách sạn rẻ mạt nơi tôi sống gần một năm đã xem tôi như người nhà. Tài sản duy nhất của tôi lúc đó là những đôi dép đã đi vào lịch sử và hai bộ quần áo mà tôi tự giặt mỗi khi tắm và chiếc cặp da tôi khoắng được trong phòng trà sang trọng nhất ở Bogota hôm mồng 9 tháng 4. Tôi dùng để đựng các bản thảo đang viết và mang nó đi khắp nơi, đó cũng là vật độc nhất có thể mất. Tôi không dám để nó thậm chí trong két sắt của ngân hàng với bảy lần khóa. Người duy nhất mà tôi tin tưởng trong những đêm đầu tiên chính là anh chàng gác khách sạn kỹ tính, Lácides, người chịu nhận nó như vật đặt cọc thay cho tiền phòng hàng ngày. Họ hồi hộp và ngại ngùng khi nhận của tôi một mớ giấy lộn xộn viết bằng máy chữ rồi cất vào trong ngăn kéo ở quầy lễ tân. Tôi nhận lại vào ngày hôm sau, đúng vào giờ đã hứa và trả tiền rất đúng hẹn nên họ chấp nhận đồ đặt cọc này trong ba đêm liên tiếp. Sự thỏa thuận này nghiêm chỉnh đến mức có một vài lần tôi chỉ để chiếc cặp trên quầy không nói gì hơn là câu chào hỏi rồi lấy chìa khóa đi lên phòng.
German theo dõi sát sao mọi thiếu thốn của tôi đến mức biết được cả việc tôi không có chỗ ngủ và lén cho tôi một đồng rưỡi để thuê giường. Tôi không bao giờ biết được tại sao anh ấy tường tận những chuyện này. Nhờ đạo đức tốt mà tôi giành được sự tín nhiệm của nhân viên khách sạn thậm chí còn được các cô gái điếm cho mượn xà phòng tắm. Trong chỉ huy sở của mình, với bộ ngực tầm cỡ vũ trụ và bộ não cỡ quả bí đỏ, bà chủ Catalina - bà mập - điều khiển mọi sinh hoạt. Kẻ dưới trướng của bà ta là Jonas San Vicente, một người lai vốn là một tay thổi kèn siêu hạng cho đến khi bị lũ cướp đánh gẫy hết răng chỉ để cướp lấy chiếc mũ. Móm mém và không còn đủ hơi để thổi nữa, anh ta đành đổi nghề khác và không thể kiếm được việc gì tốt hơn cho thân thể cường tráng của mình ngoài việc ngủ trên giường bằng vàng của bà mập Catalina. Bà ta lại có lòng đã thân tình giúp anh trong hai năm trời từ những đêm khốn nạn nằm vật vờ ở ngoài cảng sông leo lên chiếc ngai của bà chủ lớn. Tôi may mắn làm quen được với tính khôn ngoan và bàn tay phóng khoáng của cả hai người để làm vui lòng bạn bè của họ. Nhưng họ mãi cũng không hiểu tại sao có đến bao nhiêu lần tôi không có nổi một đồng rưỡi để ngủ dù được những người có thế lực đưa đón trên những chiếc xe du lịch sang trọng.
Tôi cũng chưa bao giờ có thể phát hiện được nguyên nhân vì sao trong những ngày sinh hoạt giản dị như vậy, tôi lại lún sâu trong nỗi chán chường. Cuốn tiểu thuyết đang dở dang - Ngôi nhà, - sau sáu tháng khởi viết tôi bỗng nhận ra nó là một trò hề ngớ ngẩn. Tôi đã nói nhiều về nó hơn là viết vài trang ít ỏi mà tôi cho đăng trên “La Jirafa” và tạp chí Crónica khi tôi cạn đề tài. Trong những ngày cuối tuần, khi những người khác đã trốn trong nhà, thì tôi nhận thấy mình cô đơn vô cùng giữa thành phố vắng vẻ. Một gã nghèo rớt mùng tơi, nhút nhát như lũ chim cút nhưng lại tỏ ra kiêu ngạo đến khó chịu và thẳng thắn đến tàn bạo. Tôi cảm thấy mọi nơi đều thừa thãi kể cả ở những người quen biết. Tình trạng này trở nên trầm trọng hơn kể cả trong tòa soạn El Heraldo, nơi tôi cặm cụi viết suốt cả mười tiếng đồng hồ liên tục trong xó xỉnh vắng vẻ không đụng đến ai, giữa màn khỏi thuốc lá rẻ tiền được hút không ngưng nghỉ trong nỗi cô đơn sầu thảm. Tôi viết vội vàng, nhiều khi đến tận sáng bạch, lên những tờ giấy in rồi bỏ vào chiếc cặp da kè kè mang theo bên mình.
Một trong những lần lơ đãng thường xảy ra vào những ngày tháng ấy, tôi đã bỏ quên chiếc cặp da trên một chiếc taxi và tôi hiểu, không một chút cay đắng nào, rằng đây lại thêm một cú đá hậu vào tình cảnh rủi ro của mình. Tôi không cố công tìm cách lấy lại chiếc cặp, nhưng Alfonso Fuenmayor, lo lắng về sự lười nhác của tôi, đã soạn và cho đăng một mẩu tin vào cuối bài trong chuyên mục của tôi: “Thứ Bảy vừa rồi, một mớ giấy tờ đã bị bỏ quên trên chiếc xe ô tô dịch vụ công cộng. Vì người chủ của mớ giấy đó và tác giả của chương mục này là một người duy nhất nên cả hai người ấy sẽ vô cùng biết ơn. Ai đó đang giữ mớ giấy ấy hãy vui lòng báo tin cho bất cứ một trong hai người. Mớ giấy không có một chút giá trị nào: đó chỉ là những bài ‘ La Jirafa’ chưa được in”. Hai ngày sau, có ai đó đã để những trang bản thảo của tôi ở cổng tòa soạn El Heraldo, nhưng không có chiếc cặp da và với ba lỗi chính tả được sửa bằng một nét chữ màu xanh rất đẹp.
Lương hàng ngày vừa đủ cho tôi trả tiền phòng ở, nhưng điều tôi ít quan tâm nhất vào những ngày tháng ấy là cái vực thẳm nghèo nàn. Rất nhiều lần tôi đã không trả được tiền phòng và đi lang thang trong đêm ở đại lộ Bolivar. Gặp bất cứ người quen nào tôi cũng chào từ xa, nếu như tôi xứng đáng nhìn người ta, rồi đi thật xa để về chỗ nghỉ thường lệ, nơi mà nhiều lần tôi mải đọc sách cho đến khi thấy hoảng sợ vì những tia nắng sớm mai. Bởi vì vào thời gian này, tôi vẫn là một người đọc không biết chán dù không theo một hệ thống nào. Nhất là thơ ca, dù là thơ dở, bởi vì trong những thời điểm trạng thái tâm lý tệ hại nhất, tôi vẫn tin tưởng rằng thơ dở sớm hay muộn rồi cũng sẽ dẫn đến thơ hay.
Trong những bài trên mục “La Jirafa”, tôi luôn chứng tỏ rất nhạy cảm với nền văn hóa nhân dân, ngược hẳn với những truyện ngắn tưởng như những điều bí ẩn theo kiểu Kafka do một người chẳng biết ở xứ nào viết ra. Tuy nhiên, từ trong sâu thẳm của tâm hồn, tôi phải nói lên sự thật rằng tấn thảm kịch của đất nước Colombia chỉ như tiếng vọng xa xôi đến với tôi, chỉ cho đến khi dòng sông máu đã tràn bờ, tôi mới thật sự xúc động. Chưa hết điếu thuốc này đã đốt điếu khác, rít thuốc như người bị bệnh hen thèm uống bầu không khí, ba bao thuốc lá trong một ngày, để lại dấu thuốc lá trên móng tay và trong tiếng ho khù khụ của con chó già...tất cả những thứ đó đã làm xáo động tuổi trẻ của tôi. Cuối cùng thì tôi vẫn là một kẻ nhút nhát và buồn bã, như một người Caribe tốt bụng, luôn có ý thức giữ gìn thế giới riêng tư của mình đến mức khi có ai hỏi về nó tôi sẽ trả lời bằng những ngôn từ hoa mỹ. Lúc đó, tôi tin rằng số phận đen đủi của tôi là bẩm sinh, vô phương cứu chữa, nhất là trong quan hệ với phụ nữ và tiền bạc, nhưng tôi đã không quan tâm đến, bởi vì tôi cho rằng may mắn trong cuộc đời không phải là yếu tố cần thiết để tôi viết hay. Tôi không thiết đến vinh quang, tiền bạc, hay sự trường thọ bởi vì tôi đinh ninh rằng mình sẽ chết yểu và vất vưởng ngoài phố.
Chuyến đi bán nhà với mẹ đã kéo tôi ra khỏi vực thẳm và niềm tin chắc chắn vào cuốn tiểu thuyết mới chỉ mở ra cho tôi chân trời của một tương lai khác. Trong vô số các chuyến đi trong đời, đó là một chuyến đi có ý nghĩa quyết định, bởi vì nó chứng tỏ rằng cuốn sách dự định viết chỉ là một thứ sáng tạo chữ nghĩa mà không có cơ sở nào trong thực tế thơ ca. Dự định đó đương nhiên bị vỡ tan tành khi đối mặt với thực tế trong chuyến đi đầy sức gợi cảm.
Hình mẫu của một bản hùng ca như tôi mơ ước chỉ có thể là của chính gia đình mình, vốn đã không phải là nhân vật chính, cũng chẳng phải là nạn nhân của cái gì cụ thể mà chính là nhân chứng vô tích sự và nạn nhân của tất cả. Tôi bắt đầu viết cuốn tiểu thuyết này ngay trong giờ đầu tiên khi trở về, bởi vì lúc này tôi không cần sắp đặt các phương tiện giả, chính niềm xúc cảm mãnh liệt đã cuốn hút tôi ngay lúc tôi về đến ngôi nhà xưa của ông bà ngoại. Ngay từ những bước chân đầu tiên trên bãi cát nóng bỏng của thị trấn, tôi đã nhận ra rằng phương pháp của mình không phải là thích hợp nhất để kể lại thiên đường trần gian của sự điêu tàn và nỗi nhớ khắc khoải, mặc dù trước đó tôi đã mất rất nhiều thời gian và công sức mới tìm được phương pháp đúng. Công kia việc nọ bận rộn đến ngạt thở của tờ Crónica lúc đang chuẩn bị xuất bản không hề gây cản trở mà ngược lại: là một thứ phanh kìm hãm bớt niềm khát khao đến cháy bỏng.
Ngoại trừ Alfonso Fuenmayor - là người bắt gặp tôi trong cơn sốt sáng tạo mấy giờ sau khi tôi bắt đầu viết cuốn tiểu thuyết này - còn những người bạn khác suốt một thời gian dài vẫn cứ tưởng tôi đang tiếp tục dự án cũ của Ngôi nhà. Tôi quyết định cứ để mọi người nghĩ như thế vì sợ họ phát hiện ra sự thất bại của một ý tưởng được tôi nói đến quá nhiều cứ như đã là một tác phẩm bậc thầy. Ngoài ra, còn vì lý do mê tín mà đến tận bây giờ tôi vẫn tin theo, tức là cùng lúc kể một câu chuyện và viết một câu chuyện khác song song với nhau để người ta không thể biết được chuyện nào vào với chuyện nào, nhất là trong các bài phỏng vấn của báo chí, vốn là một thể loại hư cấu nguy hiểm đối với những nhà văn nhút nhát không muốn nói gì hơn những điều cần nói. Tuy nhiên, có lẽ German Vargas, nhờ sự nhạy cảm của mình, đã phát hiện ra điều này, bởi vì mấy tháng sau khi ông Ramon trở về Barcelona, anh đã viết trong một bức thư: “Tôi tin là Gabo đã từ bỏ dự án “Ngôi nhà” rồi và hiện đang chúi mũi vào cuốn tiểu thuyết khác”. Còn ông Ramon tất nhiên đã biết điều này trước khi ra đi.
Ngay từ dòng đầu tiên tôi đã tin chắc rằng cuốn sách mới phải dựa trên những kỷ niệm của đứa bé bảy tuổi sống sót qua cuộc thảm sát dân thường xảy ra vào năm 1928 ở vùng trồng chuối. Nhưng ngay lập tức tôi đã gạt phương án này bởi vì câu chuyện sẽ bị giới hạn vào quan điểm của một nhân vật không có nhiều phương thức thơ ca để có thể kể lại. Lúc đó tôi nhận ra ngay rằng việc mạo hiểm đọc Ulysses từ năm hai mươi tuổi , và sau này đọc Âm thanh và cuồng nộ, đó là một sự liều lĩnh quá sớm. Thế là tôi quyết định đọc lại chúng với một cái nhìn bớt định kiến. Đúng là nhiều điều trước đây mà tôi cứ cho là mô phạm hoặc khép kín trong tác phẩm của Joyce và Faulkner thì lúc này lại có vẻ đẹp và vẻ giản dị mê hồn. Tôi dự định đa dạng hóa các lời độc thoại bằng tiếng nói của tất cả mọi người, với một dàn hợp xướng kiểu Hy Lạp để dẫn chuyện, giống như Trong lúc tôi hấp hối, tức là sự suy ngẫm của cả gia đình đứng xung quanh người đang hấp hối. Tôi cảm thấy không đủ khả năng lặp lại phương thức giản dị chỉ dẫn tên của từng nhân vật trong từng cảnh đối thoại như trong các vở kịch, và đã nghĩ ra cách chỉ dùng ba tiếng nói của ông, mẹ và đứa trẻ; mỗi người vốn có chất giọng và âm vực khác nhau nên tự phân biệt được với người khác. Người ông trong cuốn tiểu thuyết sẽ không phải là chột mắt như ông ngoại của tôi mà là người thọt chân; bà mẹ tư lự, trầm ngâm nhưng thông minh như mẹ tôi, còn đứa bé thì đứng im, sợ hãi và nghĩ ngợi như mọi đứa khác ở tuổi đó. Đó không phải là một tìm tòi sáng tạo mà chỉ là một phương thức kỹ thuật.
Cuốn sách mới không hề có một thay đổi nào về nội dung trong quá trình viết, hoặc có phiên bản nào khác với bản gốc, trừ một số đoạn bị cắt bỏ và sửa chữa trong khoảng hai năm trước bản in đầu tiên đúng cái thói xấu tiếp tục sửa đến chết mới thôi. Thị trấn - rất khác với dự kiến ban đầu của tôi - đã được miêu tả phù hợp với thực tế hơn sau khi tôi cùng mẹ trở về Aracataca, nhưng tên gọi này - đúng như ông Ramon rất uyên bác đã cảnh báo - tôi nhận thấy không phù hợp, cũng giống như tên Barranquilla vì đều không có tiếng vọng bí ẩn mà tôi muốn tìm cho cuốn tiểu thuyết. Và vậy mà tôi quyết định đặt cho nó cái tên mà chắc là đã được biết từ hồi nhỏ nhưng tính bí ẩn thì mãi đến lúc đó tôi mới thấy hết: Macondo.
Tôi buộc phải thay đầu đề cuốn sách Ngôi nhà - quá quen thuộc với bạn bè - vì nó không còn liên quan gì với dự án mới, nhưng tôi lại mắc sai lầm là ghi hết tất cả những tên gọi mà tôi nghĩ ra trong quá trình viết vào một cuốn vở học sinh, và tôi nghĩ ra đến hơn tám chục cái tên. Cuối cùng tôi đã có mà không phải tìm đâu cả khi đã gần như viết xong và chuẩn bị viết lời nói đầu của tác giả. Đầu đề cuốn sách ào vào mặt tôi như một cái tên khinh miệt nhất, đồng thời lại đầy cảm thông, đó chính là cách mà bà ngoại với nguồn gốc quý tộc của mình đã gọi thứ rác rưởi Công ty chế biến hoa quả : Bão lá úa (La Hojarasca).
Các tác giả đã động viên tôi viết chính là các nhà văn viết tiểu thuyết của Mỹ, đặc biệt là những người có tác phẩm được các bạn ở Barranquilla gửi về Sucre cho tôi. Tôi thấy rõ sự tương đồng về thực chất và tính không thể thay thế được trong quá trình hình thành nhân cách con người và nhà văn trong tôi, giữa nền văn hóa phía Nam sâu sắc với nền văn hóa vùng Caribe mà tôi luôn toàn tâm toàn ý gắn bó. Từ khi nhận thức được như vậy, tôi bắt đầu đọc như một nhà viết tiểu thuyết thủ công thực sự, không chỉ vì thích thú mà còn vì sự tò mò muốn biết các cuốn sách của nhà văn thông tuệ được viết ra như thế nào. Lúc đầu, tôi đọc xuôi từ đầu đến cuối, sau đó lại làm ngược lại, và tôi như muốn moi gan móc ruột các cuốn sách này để tìm bằng được những bí ẩn kín đáo nhất trong cấu trúc của nó. Cũng như vậy, thư viện của tôi cũng chỉ là một công cụ làm việc, nơi tôi có thể tham khảo ngay tức khắc một chương của Dostoievki, hoặc tìm hiểu cụ thể về bệnh động kinh của Julio Cesar, hoặc cơ chế vận hành của bộ chế hòa khí trong xe ô tô. Thậm chí, tôi còn có một quyển sách hướng dẫn cách giết người hoàn hảo để nhỡ ra có nhân vật nào của mình cần đến. Phần còn lại thì do bạn bè hướng dẫn mình đọc và cho mượn sách mà tôi cần phải đọc vào lúc cần thiết, và họ cũng là những người chịu khổ phải đọc tất cả những bản thảo của tôi trước khi được xuất bản.
Tấm gương bạn bè đã cho tôi niềm tự tin vào chính mình, và dự án xuất bản Crónica cuối cùng cũng đã cất cánh. Tinh thần chúng tôi rất xung dù phải đương đầu với những trở ngại gần như không khắc phục nổi, và cuối cùng thì chúng tôi cũng đã có văn phòng riêng của mình ở tầng ba, không có thang máy, nơi luôn vọng lên tiếng rao của người bán hàng rau củ và tiếng còi xe buýt không coi luật pháp là gì trên đường San Blas, ngay bên chợ ồn áo náo nhiệt từ tờ mờ sáng cho đến bảy giờ tối.
Diện tích phòng làm việc chỉ vừa đủ cho mọi người. Văn phòng chưa được lắp điện thoại và máy điều hòa không khí vẫn còn trong chuyện thần thoại vì nó đắt bằng cả cơ ngơi của tờ tuần báo, nhưng dù sao thì Fuenmayor cũng đã kịp lèn vào đầy văn phòng nào là những cuốn bách khoa toàn thư gỡ ra từng khối, những bài cắt ra từ các báo với đủ loại ngôn ngữ và những cuốn sách hướng dẫn các ngành nghề lạ. Trên bàn làm việc Tổng biên tập của anh, chễm chệ chiếc máy chữ Underwood lịch sử phải liều cả mạng sống mới cứu được từ vụ hỏa hoạn tại một sứ quán nước ngoài, và ngày hôm nay, nó là bảo vật của Bảo tàng lãng mạn của thành phố Barranquilla. Một máy chữ khác, được báo El Heraldo cho mượn, do tôi với cương vị oai phong rờ rỡ -Trưởng ban biên tập - chiếm giữ. Có một bàn vẽ cho Alejandro Obregon, Orlando Guerra và Alfonso Melo, ba họa sĩ nổi tiếng đã hứa trong tình trạng hoàn toàn sáng suốt là sẽ minh họa không công cho các bài báo, và họ đã làm đúng như vậy; thứ nhất là do lòng tốt bẩm sinh của cả ba, thứ hai là vì chúng tôi không có một xu để trả công ngay cả cho bản thân mình. Nhiếp ảnh gia thường trực và hy sinh nhiều nhất là Quique Scopell.
Ngoài công việc biên tập theo chức trách, tôi còn phải lên khuôn và sửa bản in mặc cho trình độ chính tả tệ hại của bản thân. Vì tôi vẫn còn làm việc với El Heraldo trong chuyên mục “La Jirafa” nên có ít thời gian viết thường xuyên cho Crónica. Nhưng ngược lại, có thể viết truyện ngắn trong những giờ rỗi vào lúc nửa đêm hay rạng sáng mỗi ngày.
Alfonso, chuyên gia về mọi thể loại, tập trung vào các truyện vụ án mà anh say sưa. Anh dịch hoặc tuyển lựa, còn tôi sẽ đơn giản hóa hình thức của chúng để tiết kiệm khoảng trống trên báo bằng cách loại bớt không những các từ không cần thiết mà cả những sự kiện lòng thòng hời hợt chỉ để lại cốt truyện thuần túy nhưng không ảnh hưởng đến tư tưởng chính yếu. Tức là bỏ bớt tất cả những cái gì có thể bị xem là thừa; mỗi lời còn lại đều phải phục vụ cho cấu trúc trong truyện. Đây là công việc thực hành hữu ích cho công cuộc nghiên cứu mê say của tôi để học kỹ thuật kể một truyện ngắn.
Một số truyện hay nhất của Jose Felix Fuenmayor đã cứu một vài số thứ Bảy của chúng tôi, nhưng khâu phát hành vẫn còn quá mạo hiểm. Tuy nhiên, cứu cánh vĩnh hằng vẫn là cá tính mạnh mẽ của Alfonso Fuenmayor, một người chưa bao giờ được coi là doanh nhân ưu tú. Nhưng trong sự nghiệp của chúng tôi, anh đã dốc hết tính bền bỉ mạnh hơn sức lực của mình để vượt qua mọi trở lực từng bước một với tính hài hước đáng sợ. Anh phải làm tất cả mọi việc từ việc viết những bài xã luận sáng suốt nhất đến việc giành các hợp đồng quảng cáo, vay tiền và những bài hợp tác độc quyền khó nhất. Nhưng đó vẫn chỉ là những điều kỳ diệu vô sinh. Khi những người bán báo trở về với chồng báo còn nguyên vẹn, chúng tôi lại phải tự mình đi phát hành tại các căng tin yêu thích, từ El Tercer Hombre đến những quán thầm kín ở cảng sông, nơi nếu có chút đỉnh tiền thì chúng tôi lại phải nhận bằng các loại rượu.
Bogota đến với chúng tôi một cách bình đẳng, nhưng không có người nào trong số bạn bè hữu ích cố công đóng góp duy trì tờ tuần san. Chỉ có Jorge Zalamea đã hiểu được sự tương đồng giữa tạp chí của ông và tuần san của chúng tôi nên đã đề nghị một hợp đồng trao đổi bài vở giữa hai cơ quan nhằm đem lại kết quả tốt. Nhưng tôi cho rằng không ai đánh giá được cái kỳ diệu mà Crónica đã có. Hội đồng biên tập gồm mười sáu người do chúng tôi lựa chọn trên cơ sở thành tựu được công nhận của từng người, và tất cả họ đều là người bằng xương bằng thịt nhưng lại hùng mạnh và vị trí quan trọng đến mức không ai dám nghi ngờ gì về họ.
Crónica còn có thêm một tầm quan trọng khác vì nó buộc tôi phải sáng tác khẩn cấp những truyện ngắn để lấp chỗ trống khốn khổ vào lúc chuẩn bị lên khuôn. Tôi ngồi bên máy chữ cũng lúc đó người lên khuôn và thợ in cũng vào chỗ của mình. Từ con số không tôi phải nghĩ ra một câu chuyện đủ lấp đầy khoảng trống. Và qua cách đó tôi đã viết “Bằng cách nào Natanael thực hiện chuyến viếng thăm” để giải quyết một vấn đề khẩn cấp lúc tảng sáng và “Đôi mắt của chó xanh” năm tuần sau đó.
Truyện ngắn đầu tiên trong hai truyện là khởi nguồn của một loạt tác phẩm có cùng nhân vật mà tôi đã sử dụng cái tên, dù không được phép, từ nhân vật của André Gide. Sau đó, tôi viết “Số phận cuối cùng của Natanael” để giải quyết một tấn thảm kịch khác vào giờ chót. Cả hai truyện ngắn này đều nằm trong loạt sáu truyện mà tôi đã cất vào kho không một chút nuối tiếc nào vì tôi nghiệm ra rằng chúng chẳng có liên quan gì với mình. Trong số đó, tôi chỉ nhớ mang máng một truyện không hề có cốt truyện: “Bằng cách nào Natanael vận đồ cô dâu” . Nhân vật này ngày hôm nay tôi nhận thấy chẳng giống bất cứ người nào đã quen biết và cũng không hề dựa trên kinh nghiệm sống của bản thân hoặc của người khác, và thậm chí tôi cũng không thể hình dung tại sao nó lại là truyện ngắn của tôi với một đề tài sai lầm như vậy. Natanael chỉ là một cuộc phiêu lưu văn học chẳng có lợi ích nhân bản gì cả. Cũng đáng nhớ lại những điều tệ hại này để không quên rằng: một nhân vật không thể được sáng tạo từ con số không, như tôi đã muốn làm với Natanael. Cũng may là trí tưởng tượng không đủ để tôi tự vượt xa quá chính mình và, cũng đáng tiếc là theo thỏa thuận thì công việc văn chương cũng phải được trả công tốt như việc gắn các viên gạch, và nếu chúng ta trả công đủ và đúng giờ cho thợ in, thì càng phải trả cao hơn cho các nhà văn.
Tiếng vang tốt nhất mà chúng tôi có được trong công việc ở Crónica là những bức thư mà ông Ramon gửi cho German Vargas. Ông quan tâm đến những tin tức ít ngờ nhất và hỏi về bạn bè và các sự kiện ở Colombia, và German đã gửi cho ông các bài báo và những bức thư dài bất tận, kể cho ông nghe nhiều tin tức mà kiểm duyệt ngăn cấm. Tức là đối với ông Ramon có hai tờ Crónica: tờ báo do chúng tôi làm và tờ tóm tắt của German vào cuối tuần. Những nhận xét nồng nhiệt hoặc nghiêm khắc của ông Ramon về các bài của chúng tôi là sự đánh giá cao nhất.
Tôi vô tình được biết rằng: trong số các nguyên nhân mà người ta dùng để giải thích về những trục trặc của Crónica và về tính không chắc chắn của cả nhóm, có một số người đổ cho sự bất hạnh bẩm sinh và dễ lây nhiễm của tôi. Như là bằng chứng kết tội chết, họ lấy ngay bài phóng sự của tôi về Berascochea, cầu thủ bóng đá người Brazil. Trong bài này, tôi muốn hòa hợp giữa thể thao và văn học trong một thể loại mới nhưng đã thất bại thê thảm. Khi tôi biết được sự nổi tiếng không xứng đáng của mình thì việc này đã lan truyền rộng rãi trong giới khách hàng của Japy. Hoảng loạn đến tận lỗ chân lông, tôi phải bàn ngay việc này với German, người đã biết rõ vụ này cũng như những người khác trong nhóm.
- Yên tâm đi, thầy ạ! - anh nói với tôi không một chút nghi ngờ - Viết như anh viết mà không bị ai đánh chỉ có thể là một vận may mà thôi.
Không phải tất cả đều là đêm đen. Đêm hôm 27 tháng 7 năm 1950, trong lễ hội ở quán bà da đen Eufemia, tôi đã có một chút dũng khí lịch sử trong cuộc đời viết văn của mình. Tôi không hiểu vì sao bà chủ nổi hứng ra lệnh làm món khoai tây chiên thịt đầy tính hùng ca, làm những chú vạc hốt hoảng trước mùi hoang dại ấy đã nhỏ dãi lòng thòng và kêu rít lên xung quanh bếp lò. Một khách hàng bốc đồng đã túm lấy cổ một con vứt ngay vào chảo nước đang sôi. Con vật chỉ kịp kêu lên một tiếng đau đớn đập cánh được một lần thì bị chìm nghỉm dưới đáy địa ngục. Tên sát thủ dã man đã toan tóm thêm một con nữa thì bị bà da đen Eufemia tìm cách đuổi đi bằng quyền lực của mình:
- Đứng im, đồ quỷ - bà ta thét - lũ vạc móc mắt ông bây giờ!
Chỉ có tôi là quan tâm đến việc này vì chỉ mình tôi không ăn món khoai tây phạm thánh đó. Thay vì đi ngủ, tôi đã đến văn phòng Crónica và viết một hơi truyện ngắn về ba vị khách của một nhà chứa bị lũ vạc móc mắt mà không ai tin. Truyện gói trong bốn trang khổ giấy công sở và được kể lại ở ngôi thứ nhất số nhiều với giọng kể không tên. Đó là một thứ hiện thực trong suốt, tuy nhiên nó lại bí ẩn nhất trong số các truyện ngắn của tôi, và đi theo một hướng mà tôi suýt nữa từ bỏ vì không thể theo được. Tôi bắt đầu viết từ lúc bốn giờ sáng hôm thứ Sáu và kết thúc vào lúc tám giờ sáng. Với sự đồng phạm không thể thiếu được của Porfirio Mendoza, người sắp chữ từ ngày đầu thành lập của El Heraldo, chúng tôi đã sửa lại bản kẽm chuẩn bị sẵn cho số ngày mai của Crónica. Vào phút cuối cùng, lo lắng vì chiếc máy chém là thời hạn lên khuôn, tôi phải đọc đầu đề vừa chọn của truyện ngắn cho Porfirio sắp trực tiếp các con chữ đúc đồng: “Đêm của những con vạc” .
Với truyện này tôi khởi đầu một thời kỳ mới sau chín truyện ngắn còn ở cửa thiên đường siêu hình và vẫn chưa có một dự định nào để đi tiếp cái thể loại mà tôi vẫn chưa nắm thật chắc. Một tháng sau, Jorge Zalamea cho in lại trên Critica, một tạp chí tuyệt vời chuyên đăng các thi phẩm lớn. Năm mươi năm sau, trước khi viết đến đoạn này, tôi đọc lại nó và đã không thay đổi một dấu phẩy nào. Trong cái mớ bòng bong không phương hướng hồi đó, truyện ngắn này như sự khởi đầu của mùa xuân.
Tôi nghĩ rằng sự trở về của Alvaro Cepeda, với tấm bằng của Đại học Columbia - một tháng trước vụ giết hại con vạc - có ý nghĩa quyết định đến việc chèo chống số phận hẩm hiu của tạp chí trong những ngày tháng ấy. Anh trở về với mái tóc thưa hơn, không còn bộ ria mép và trông hoang dại hơn so với khi ra đi. German Vargas và tôi đã chờ anh suốt mấy tháng, và chỉ lo anh ta giảm sự hăng hái trong thời gian ở New York. Chúng tôi buồn cười đến chết khi thấy anh từ máy bay đi xuống, mặc veston đeo cà vạt, và ngay từ trên cầu thang đã cầm thành quả đầu tiên của Hemingway trên tay - Phía bên kia dòng sông và giữa hàng cây - để vẫy chào: . Tôi cướp trên tay anh, xoa xoa cả hai bìa cuốn sách, và toan hỏi anh điều gì thì Alvaro nói trước:
- Như cục cứt ấy mà!
German Vargas nói thầm vào tai tôi: “Vẫn y như trước”. Alvaro cải chính ngay với chúng tôi rằng ý kiến của anh vừa rồi về cuốn sách là câu nói đùa, bởi vì chỉ mới bắt đầu đọc trên máy bay từ Miami về. Nhưng dù sao thì anh cũng nâng cao tinh thần của chúng tôi bằng việc gieo thêm mầm bệnh sởi báo chí, điện ảnh và văn học. Trong những tháng tiếp theo, khi còn đang thích nghi với việc thay đổi của khí hậu, anh vẫn giữ chúng tôi trong cơn sốt bốn mươi độ.
Đó là sự lây nhiễm tức thì. “La Jirafa” mà từ mấy tháng trước vẫn quẩn quanh như người mù, đã bắt đầu hít thở bầu không khí mới với hai trích đoạn của bản thảo Ngôi nhà. Một đoạn là “Đứa con của ngài đại tá”, không bao giờ ra đời, và đoạn khác là “Ny”, một bé gái trốn chạy mà tôi gọi cửa nhiều lần để tìm con đường khác, nhưng nó không bao giờ trả lời.
Tôi cũng lấy lại được sự quan tâm của người lớn bằng những mẩu chuyện khôi hài, không phải như là một thứ giải trí trong ngày Chủ nhật, mà như một thể loại văn học mới vốn bị tuyên án vô lý, bị đẩy vào trong phòng ngủ của trẻ con. Nhân vật chính của tôi, trong vô vàn các nhân vật khác, là Dick Tracy. Ngoài ra, tại sao lại không nhỉ, tôi cũng giành lại niềm thành kính đối với điện ảnh mà ông ngoại đã từng gieo vào lòng tôi và được ngài Antonio Daconte nuôi dưỡng suốt thời gian ở Aracataca, được Alvaro Cepeda biến thành nỗi đam mê thánh thiện ở một đất nước mà những phim hay nhất đều được biết qua câu chuyện của những người khách lạ. Ngày trở về của anh trùng hợp may mắn với việc trình chiếu lần đầu hai tác phẩm điện ảnh bậc thầy: Intruder in the Dust (Kẻ tiếm quyền) do Clarence Brown làm đạo diễn dựa trên tiểu thuyết của William Faulkner và Bức ảnh của Jenny, do William Dieterle đạo diễn dựa vào tiểu thuyết của Robert Nathan. Tôi đã viết bình luận về hai cuốn phim này trên “La Jirafa” sau cuộc tranh cãi khá lâu với Alvaro Cepeda. Tôi thích đến nỗi bắt đầu nhìn điện ảnh từ một góc độ khác. Trước khi quen biết anh, tôi không biết rằng điều quan trọng nhất là tên của đạo diễn, là người cuối cùng trong dãy tên giới thiệu trong phim. Tôi cứ cho rằng vấn đề đơn giản là viết kịch bản và điều khiển các diễn viên, còn những việc khác sẽ do đông đảo những người trong ê kíp làm phim thực hiện. Vừa trở về, Alvaro liền cho tôi một khóa bồi dưỡng toàn diện trên cơ sở hò hét và uống rượu trắng cho đến tận sáng sớm tại những căng tin mạt hạng nhất, để dạy vắn tắt cho tôi những gì người ta đã dạy anh về điện ảnh ở Mỹ và khiến anh mơ ước được thực hiện ở Colombia.
Ngoài sự bùng nổ sáng chói ấy ra, những người bạn theo Alvaro trong tốc độ tàu tuần dương chúng tôi đều có cảm tường rằng anh sẽ không có đủ tỉnh táo để ngồi viết. Những người sống gần anh không thể hình dung ra chuyện anh ngồi hơn một giờ bên bàn viết. Tuy nhiên, hai hoặc ba tháng sau khi anh trở về, Tita Manotas - người yêu trong nhiều năm và là vợ cả đời của Alvaro - sợ hãi gọi điện báo cho Alvaro biết là trong khi bán chiếc xe tải nhẹ lịch sự, chị đã bỏ quên trong thùng để găng tay trên xe bản thảo những truyện ngắn chưa in của chồng mà không có bản sao nào khác. Anh không cất công tìm lại với lý do rất riêng của mình “sáu hay bảy truyện ngắn cứt đái ấy mà”. Bạn bè và cánh nhà báo chúng tôi đã giúp Tita tìm kiếm chiếc xe tải đã được bán qua bán lại vài lần suốt dọc duyên hải Caribe và các vùng sâu đến tận Medellín. Cuối cùng, chúng tôi tìm thấy nó trong một xưởng ở Sincelejo, cách chỗ chúng tôi khoảng hai trăm cây số. Bản thảo được viết trên giấy in được chúng tôi đưa ngay cho Tita vì sợ Alvaro đánh mất vì vô tình hay cố ý.
Hai trong số các truyện được đăng trên Crónica, còn các truyện khác thì German Vargas giữ trong hai năm trong khi tìm cách cho nó được xuất bản. Một cuốn sách khác được nhà sách Mundo ấn hành với đầu đề “Tất cả chúng ta cùng đợi” , và đã trở thành một sự kiện xuất bản mà chỉ có giới phê bình kinh viện là cho qua. Đối với tôi - như đã từng viết hồi đó - đó là cuốn truyện ngắn hay nhất được xuất bản ở Colombia.
Còn German Vargas và Alfonso Fuenmayor là những nhà phê bình nghiêm khắc - với chính truyện ngắn của mình hơn là truyện của người khác - nhưng những phát hiện tinh tế của họ về những tài năng trẻ thì không bao giờ sai. Đó là một mùa xuân đầy sáng tạo khi có tin đồn râm ran rằng German thức khuya dậy sớm để viết ra những truyện ngắn cực hay. Nhưng không ai biết được điều gì cụ thể, mãi cho đến nhiều năm sau, khi anh vào phòng ngủ trong nhà bố mẹ đẻ, ở trong đó hàng mấy giờ để đốt bản thảo ngay vào ngày cưới Susana Linares - bạn hàng xóm của tôi - với ý định không cho vợ biết. Susana biết nhưng không thể vào phòng để ngăn anh, bởi vì bà mẹ chồng không cho phép. “Thời ấy - mấy năm sau Susana nói với tôi với giọng khôi hài bị ức chế - trước lễ cưới cô dâu không được vào phòng ngủ của vị hôn phu”.
Lúc đó, tôi chưa nhận ra rằng mình đang sống một năm khác hẳn trong đời, ngày hôm nay thì tôi biết chắc chắn đó là năm quyết định. Cho đến lúc đó, tôi vẫn hài lòng với cái vẻ đãng trí của mình, vẫn được nhiều người tin yêu và tôn trọng và được một số khâm phục trong cái thành phố nơi người nào cũng sống theo cách riêng của mình. Tôi sống một cuộc sống xã hội bận rộn, tham gia vào các hoạt động văn nghệ và xã hội với đôi dép của người lữ hành dường như được mua để bắt chước theo Alvaro Cepeda, với chiếc quần vải thô duy nhất và hai chiếc áo sơ mi phải giặt trong phòng tắm.
Ngày này qua ngày khác, vì những lý do khác nhau - trong đó cũng có những lý do phù phiếm - tôi bắt đầu phải cải thiện cách ăn mặc của mình. Tôi cắt tóc theo kiểu lính nhà binh, tỉa bớt bộ râu và tập đi đôi giày thượng nghị sĩ được tiến sĩ Rafael Marriaga, thành viên mới của nhóm và là người viết sử của thành phố, tặng bởi nó quá rộng so với khổ chân ông. Tôi bắt đầu cảm thấy ngạt thở bởi cái nóng trong căn buồng ở tòa nhà chọc trời, như thể Aracataca là xứ Siberia vậy, cũng rất khó chịu với các khách hàng khác cứ vừa thức dậy đã nói oang oang, và tôi không ngớt càu nhàu với những con chim cái ăn đêm tiếp tục dẫn về phòng mình hàng tiểu đội thủy thủ nước ngọt.
Ngày hôm nay, tôi mới hiểu được rằng: bộ mặt ăn mày của tôi hồi đó không phải vì nghèo khổ cũng chẳng phải vì là bộ dạng nhà thơ mà vì toàn bộ sức lực được tập trung cho ý chí quyết học viết. Ngay khi con đường tốt đẹp vừa ló dạng, tôi liền từ bỏ tòa nhà chọc trời và dọn đến ở khu Prado tĩnh mịch ở phía bên kia thành phố, cách nhà của Meira Delmar có hai dãy phố và cách khách sạn lịch sử nơi những gã con trai nhà giàu có vẫn nhảy múa với những người tình còn trinh của mình sau lễ Misa vào các ngày Chủ nhật chỉ có năm dãy phố. Hoặc như German đã nói: tôi bắt đầu cải tiến cho cái xấu.
Tôi sống trong nhà của ba chị em nhà Avila - Esther, Mayito và Tona - những người mà tôi đã quen ở Sucre và từ lâu đã tìm mọi cách kéo tôi ra khỏi sự hư hỏng. Thay cho những căn buồng vách ngăn bằng bìa, tôi đã có một phòng riêng với cả buồng tắm và một cửa sổ hướng ra vườn, ba bữa ăn hàng ngày với giá đắt hơn một chút so với đồng lương kéo xe bò của tôi. Tôi mua một chiếc quần và nửa tá áo sơ mi hoa hòe hoa sói sặc sỡ nên có lúc tôi bị nói sau lưng là tên đĩ đực trên tàu thủy. Những người bạn mà bấy lâu nay tôi không hề thấy mặt thì lúc này tôi được gặp ở mọi nơi. Tôi rất phấn khởi khi thấy họ đọc thuộc lòng những lời nói thiếu chín chắn ở “La Jirafa”, và họ rất yêu mến Crónica vì điều mà họ gọi là danh dự thể thao của mình và họ còn đọc các truyện ngắn của tôi dù không hiểu được chúng.
Khi được tin về những điều mới mẻ này, mẹ gửi cho tôi một lời nhắn mang đầy cá tính của bà: “Tiền lại gọi tiền”. Tôi không báo việc dọn nhà cho những người trong nhóm biết, mãi cho đến một buổi tối gặp nhau trong quán cà phê Japy, tôi mới tóm lấy công thức tuyệt vời của Lope de Vega: “Và tôi tự ra lệnh cho mình, vì điều phù hợp với việc tự ra lệnh cho mình là không tuân lệnh của mình”. Tôi không nhớ là ở sân bóng đá có những tiếng la ó như hôm đó không. German thì đánh cược là tôi sẽ không thể nảy ra một ý tứ gì ngoài căn nhà chọc trời. Theo Alvaro tôi sẽ không sống nổi với vòng xoắn ba bữa ăn một ngày, vào đúng giờ nhất định. Alfonso kịch liệt phản đối việc can thiệp vào đời tư của tôi, và hất ngay chuyện này xuống đất bằng một cuộc tranh luận về tính khẩn cấp phải đi đến quyết định triệt để đối với số phận của Crónica. Tôi nghĩ là từ đáy lòng mình, họ cảm thấy có lỗi trong việc lộn xộn của tôi nhưng họ lại quá ngây thơ để biết cảm ơn quyết định của tôi vì dù sao nó cũng đã giúp họ bớt đi một nỗi lo lắng.
Ngược với điều mà mọi người lo sợ, sức khỏe và tinh thần của tôi đã được cải thiện nhiều. Tôi đọc ít hơn vì không có nhiều thời gian, nhưng tôi đã lên giọng trong mục “La Jirafa” và cố hết sức viết tiếp Bão lá úa trong căn phòng mới với chiếc máy thô thiển được Alfonso Fuenmayor cho mượn vào những buổi nửa đêm về sáng, mà trước đây nó vẫn hoài phí với Mono Guerra. Vào những buổi chiều thông thường, trong tòa soạn báo, tôi có thể viết “La Jirafa”, một bài xã luận, một số trong vô vàn tin tức mà tôi không ký tên, cô đọng lại một truyện vụ án và viết bài vào giờ chót trước khi Crónica lên khuôn. May mắn là, thay vì mỗi ngày một dễ dãi hơn thì cuốn tiểu thuyết đang viết dở lại bắt đầu áp đặt ý kiến riêng của mình, chống lại quan điểm của tôi và tôi cũng đủ thật thà để hiểu nó như dấu hiệu của một luồng gió thuận.
Với ý chí đầy quyết tâm, tôi còn sáng tác đột xuất truyện ngắn thứ mười - “Ai đó không nghe lời những đóa hoa hồng này” - để giờ chót lấp vào ba trang trống của Crónica vốn được dành cho người bình luận chính trị bỗng bị cơn đau tim trầm trọng. Chỉ khi sửa bản in truyện ngắn của mình, tôi mới phát hiện ra rằng: lại thêm một vở kịch tĩnh lặng nữa như trước đây khi viết tôi đã không để ý. Trục trặc này khiến tôi ân hận khi đành phải đánh thức người bạn lúc gần nửa đêm để viết ngay cho tôi một bài báo trong không đầy ba tiếng đồng hồ. Cũng với tâm trạng sám hối ấy, tôi cũng ngồi viết một truyện ngắn trong từng ấy thời gian, và hôm thứ Hai, trong cuộc họp của Ban biên tập, tôi nhắc lại việc phải gấp rút đi thực tế viết những bài phóng sự xung kích nhằm kéo tạp chí ra khỏi tình trạng èo uột về nội dung. Tuy nhiên, ý tưởng này - bây giờ đã là của tất cả - một lần nữa lại bị từ chối với lý do có lợi cho hạnh phúc của tôi: nếu chúng tôi đổ ra đường phố với quan điểm điền viên thôn dã mà chúng tôi vẫn có đối với thể loại phóng sự thì tạp chí sẽ lại không ra đúng kỳ hạn - nếu như xuất bản được. - Tôi đã hiểu việc này thế là xong, nhưng không bao giờ tôi từ bỏ được ý nghĩ xấu rằng: lý do thực sự của việc từ chối này chính vì mọi người vẫn cay đắng nhớ lại bài phóng sự của tôi về cầu thủ Berascochea.
Một niềm an ủi lớn trong những ngày đó chính là cú điện thoại của Rafael Escalona, tác giả của những bài hát mà người ta đã và đang tiếp tục hát. Chiều hôm đó, khi tôi đang ngồi viết “La Jirafa” thì điện thoại réo vang, và một giọng nói như bao giọng quen thuộc của những người bạn từ thời ấu thơ, không cần rào trước đón sau đã chào tôi:
- Chào người anh em. Mình là Rafael Escalona đây.
Năm phút sau, chúng tôi đã ngồi bên nhau trong phòng riêng của quán cà phê Roma để thiết lập tình bạn cho cả đời. Ngay sau khi chào nhau, tôi đã ép Escalona hát những bài mới nhất của anh.
Những vần thơ ngắn trong giọng hát trầm bổng với tiếng gõ nhịp nhàng bằng ngón tay trên bàn. Thơ ca dân gian của quê hương trong bộ trang phục mới đi dạo chơi từng đoạn, từng đoạn. “Anh sẽ tặng em bó hoa lưu ly để nhắc em đừng bao giờ quên anh”, anh hát. Về phần mình, tôi cũng chứng tỏ với anh là nhớ thuộc lòng nhiều bài dân ca quê anh mà tôi học được từ thuở bé trên dòng sông ào ạt của truyền thống truyền khẩu. Nhưng điều làm anh ngạc nhiên nhất là nghe tôi nói về tỉnh của anh, cứ như thể là tôi ở đó lâu lắm vậy.
Mấy ngày trước trong khi đi xe buýt từ Villanueva đến Valledupar, Escalona vừa sáng tác nhẩm trong đầu nhạc và lời cho một bài hát mới, để biểu diễn trong lễ hội hóa trang vào Chủ nhật tới. Đó là một tài nghệ bậc thầy bởi vì anh không biết ký xướng âm, cũng không biết chơi bất kỳ loại nhạc cụ nào. Ở một thị trấn dọc đường, có một người nghệ sĩ hát rong lên xe cùng đàn phong cầm và ngồi cạnh Escalona. Anh đã hát nhỏ vào tai người nghệ sĩ hát rong hai đoạn đã hoàn chỉnh của bài hát mới.
Giữa đường người hát rong xuống xe và Escalona tiếp tục đi đến Valledupar, nơi anh phải nằm liệt giường vì cơn cảm sốt bốn mươi độ. Ba ngày sau là Chủ nhật lễ hội hóa trang và bài hát chưa được làm xong mà Escalona đã hát vào tai người hát rong đã đánh bạt tất cả những bài hát cũ và mới suốt từ Valledupar đến tận mũi Vela. Chỉ có anh mới biết ai là người phổ biến bài này trong lễ hội hóa trang và là người đã đặt tên cho nó: “Bà già Sara” .
Đó là chuyện có thật và điều đó cũng chẳng có gì là lạ ở vùng đất và các phường hội, nơi mà điều tự nhiên chính lại là điều kỳ lạ nhất. Những người hát rong thường hát từ làng này qua làng khác trong các lễ hội tôn giáo hoặc ngoại đạo, đặc biệt trong lễ hội hóa trang về những câu chuyện vui nhộn hoặc chỉ là chuyện đời thường. Rafael Escalona là trường hợp ngoại lệ. Là con trai của đại tá Clemente Escalona, cháu của giáo chủ nổi tiếng Celedón, đã tốt nghiệp tú tài ở trường phổ thông trung học Santa Marta, và bắt đầu sáng tác bài hát từ rất nhỏ, khiến cả nhà phát hoảng vì cho rằng hát với đàn phong cầm là nghề lao động chân tay. Anh không những là người hát rong duy nhất tốt nghiệp tú tài mà còn là một trong số rất ít người biết đọc và biết viết thời bấy giờ, và là người được quý trọng và yêu mến nhất từ trước đến nay. Nhưng anh không phải là người hát rong cuối cùng, con số này lên tới hàng trăm và càng ngày càng trẻ tuổi hơn. Trong những ngày cuối cùng của nhiệm kỳ tổng thống, Bill Clinton đã biết được điều này khi nghe một nhóm trẻ em trường tiểu học đi từ tỉnh này sang hát cho ông nghe ngay tại Nhà Trắng.
Vào những ngày may mắn đó, tôi đã tình cờ gặp Mercedes Barcha, con gái của dược sĩ ở Sucre, người mà tôi đã đặt vấn đề hôn nhân khi em mới mười ba tuổi. Khác với những lần trước đây, lần này em đã chấp nhận lời mời đi khiêu vũ của tôi vào Chủ nhật tới ở khách sạn Prado. Cho đến lúc đó, tôi mới biết là em đã cùng gia đình dọn đến ở Barranquilla vì tình hình chính trị ngày càng căng thẳng. Demetrio, cha của em, là một người thuộc phái tự do hăng hái nhất, đã không hề lo sợ trước những lời đe dọa đầu tiên khi bọn cảnh sát tăng cường các cuộc săn lùng và nhục mạ trước đám đông. Tuy nhiên, trước sức ép của những người trong gia đình, ông đành thu dọn số của nả ít ỏi còn lại ở Sucre, đến lập một cửa hàng bán thuốc tại Barranquilla bên cạnh khách sạn Prado. Mặc dù cùng tuổi với bố tôi, nhưng ông luôn giữ mối quan hệ bằng vai phải lứa với tôi - một tình bạn thường được hâm nóng trong quán rượu ở phía trước nhà và có hơn một lần cả hai chúng tôi đều say khướt, bò lê bò càng cùng đám bạn bè ở quán El Tercer Hombre.
Mercedes lúc đó đang học ở Medellín và chỉ về nhà trong dịp nghỉ lễ Giáng Sinh. Em luôn vui vẻ và thân mật với tôi, nhưng có tài ảo thuật để lẩn tránh các câu hỏi với những câu trả lời không có bất cứ một nội dung cụ thể nào. Tôi đành phải chấp nhận cách đó như là một chiến lược nhân hậu, hơn là làm mặt lãnh đạm hoặc từ chối, và tôi hài lòng với việc được thường xuyên gặp bố em và các bạn bè của ông ở căng tin trước nhà. Nếu ông không nhận ra mối quan tâm của tôi trong những ngày nghỉ lễ Giáng Sinh đầy khao khát ấy thì đó chính là điều bí mật được giữ kín nhất trong suốt hai mươi thế kỷ đầu tiên của đạo Gia-tô. Trong một vài lần ở quán El Tercer Hombre, ông khoe khoang câu mà em đã từng nói với tôi trong lần khiêu vũ đầu tiên ở Sucre: “Bố em nói rằng chàng hoàng tử sẽ cưới em vẫn chưa hiện diện”. Tôi cũng không biết chắc là em có tin điều đó hay không, nhưng em hành xử cứ như là đã tin vào điều này. Cho đến hôm gần đến lễ Giáng Sinh năm đó, em chấp nhận cho chúng tôi được gặp nhau Chủ nhật tới, trong lễ khiêu vũ buổi sáng của khách sạn Prado. Tôi rất mê tín nên tin rằng có được điều may mắn này là nhờ vào mái tóc và bộ ria mép nghệ sĩ mà tay thợ cạo đã khéo tạo cho, và cũng nhờ bộ veston vải đay thô và chiếc cà vạt lụa mua trong dịp bán đấu giá của những người Thổ Nhĩ Kỳ. Chắc là em sẽ đi với bố như mọi lần, tôi mời cả em gái Aida Rosa, đang nghỉ với tôi, cùng đi. Nhưng Mercedes xuất hiện một mình; vui tươi, khiêu vũ với vẻ tự nhiên pha chút giễu cợt nên bất cứ một lời đề nghị nghiêm túc nào đối với em lúc đó cũng trở nên lố bịch. Hôm ấy là ngày khởi đầu mùa biểu diễn của anh bạn tôi, Pacho Galán, người sáng tạo ra vũ điệu bất hủ - Merecumbé - mà người ta múa quanh năm, và là nguồn cội của bầu không khí mới ở Caribe cho đến nay vẫn còn sức sống.
Mercedes múa rất thạo các vũ điệu thời thượng và lợi dụng sự khéo léo của mình để tế nhị lẩn tránh những lời đề nghị phiền nhiễu mà tôi đưa ra. Tôi nhận thấy chiến thuật của em là làm cho tôi tin rằng em không nghĩ những đề nghị của tôi là nghiêm túc, nhưng em làm việc này khéo đến mức tôi vẫn cứ tìm cách tiếp tục.
Đúng mười hai giờ, em giật mình vì đã khá muộn và để tôi đứng như trời trồng ngay giữa điệu nhảy, cũng không cho phép tôi tiễn ra cửa. Em gái tôi cảm thấy lạ vì chuyện này nên tự thấy mình có lỗi. Cho đến hôm nay tôi còn tự hỏi không biết tấm gương xấu này có liên quan gì đến quyết định bất ngờ của em xin vào tu viện ở Medellín hay không. Từ ngày hôm đó, Mercedes và tôi đã tạo ra một mật mã riêng để hiểu nhau mà không cần nói, và thậm chí không cần gặp nhau.
Một tháng sau, ngày 22 tháng 1 năm sau, tôi lại có tin về em trong một bức điện ngắn gọn mà em gửi cho tôi ở tòa soạn El Heraldo: “Chúng giết chết Cayetano rồi”. Đối với chúng tôi, chỉ có một người mang tên ấy: Cayetano Gentile, người bạn chung của chúng tôi ở Sucre, một bác sĩ nổi tiếng, hoạt náo viên trong các buổi khiêu vũ và rất yêu nghề. Ngay lúc đó, người ta kể lại rằng ông đã bị hai người em của cô giáo trường Chaparral đâm chết bằng dao. Trong ngày hôm đó qua hệ thống điện tín, tôi đã biết đầy đủ câu chuyện.
Phản ứng lúc đó của tôi là phản ứng tự nhiên của một nhà báo. Tôi quyết định đi về Sucre để viết bài về sự kiện này, nhưng trong tòa soạn mọi người lại diễn giải chuyến đi này của tôi là vì động cơ tình cảm. Ngày ấy người Colombia chúng tôi thường giết nhau, người này có thể giết người kia vì bất cứ một lý do gì, và thỉnh thoảng chúng tôi còn bịa ra cớ để giết nhau nữa, nhưng những tội ác cá nhân thì chỉ dành cho những người giàu có ở các thành phố. Tôi thấy đây là một đề tài vĩnh cửu và bắt đầu thu thập chứng cứ. Khi mẹ phát hiện ra việc làm bí mật của tôi, bà nài nỉ tôi đừng viết thiên phóng sự này. Ít nhất là trong lúc mẹ của Cateyano, bà Julieta Chimento còn sống, vì bà là bạn trong lễ Thánh hóa, là người mẹ đỡ đầu của Hernando, đứa em thứ tám của tôi. Lý do của mẹ - không thể thiếu được trong một thiên phóng sự - rất có sức nặng. Hai đứa em của cô giáo đang đuổi theo Cateyano khi anh định trốn vào nhà mình, thì bà Julieta, lại vội đóng cửa ra vào vì nghĩ rằng con mình đang ở trong phòng ngủ. Thế là chính anh lại không thể vào nhà mình, và chúng đã giết anh bằng dao khi anh đứng dựa vào cánh cửa đóng kín.
Cảm xúc của tôi lúc ấy là muốn viết ngay một thiên phóng sự về tội ác này nhưng tôi lại gặp ngay một số trở ngại. Điều tôi quan tâm không những chỉ là tội ác này mà là đề tài văn học về trách nhiệm tập thể. Nhưng tôi lại không đưa được một lý do nào để thuyết phục được mẹ và nếu không được phép của bà mà cứ viết theo ý mình thì thật là thiếu tôn trọng lời dặn của người. Nhưng không có ngày nào mà tôi không thấy nôn nao trong lòng nỗi mong muốn được viết về chuyện này. Khi tôi bắt đầu cam chịu thì, nhiều năm sau, trong lúc chờ máy bay ở sân bay An-giê, bỗng cửa phòng chờ cho hành khách có vé hạng nhất bật mở và một vị hoàng tử Ả Rập vận chiếc áo chùng sang trọng dáng vẻ theo đúng dòng dõi hoàng tộc của mình bước vào. Trong tay ông ấy cầm một con chim ưng cái và thay vì đội mũ da của người đi săn bằng chim ưng lại đặt trên đầu chiếc mũ đính vàng và kim cương. Tất nhiên tôi nhớ ngay đến Cayetano Gentile, người đã học được từ cha những nghệ thuật săn bắn bằng chim, lúc đầu bằng chim diều hâu bản địa sau đó là các loài chim nhập từ xứ Ả Rập. Khi chết, ở trang trại của anh còn một chuồng chim ưng săn chuyên nghiệp. Hồi ấy tôi có biết cuộc phỏng vấn lịch sử mà George Plimpton thực hiện đối với nhà văn Hemingway đăng trên The Paris Review về phương pháp biến một nhân vật trong đời thực thành nhân vật trong tiểu thuyết. Hemingway đã trả lời: “Nếu tôi giải thích cách làm việc đó ra sao, và cứ như thế thì sẽ thành một sách hướng dẫn cho các luật sư chuyên về các vụ án phỉ báng”. Tuy nhiên từ sáng hôm ấy ở An-giê, trong tôi đang có sự mâu thuẫn: tôi cảm thấy không thể nào sống yên ổn nữa nếu không viết lại câu chuyện về cái chết của Cateyano.
Mẹ vẫn cương quyết ngăn cản tôi viết dù với bất cứ lý do nào, mãi đến ba mươi năm sau tấn thảm kịch, mẹ mới gọi cho tôi lúc tôi ở Barcelona để thông báo tin buồn là bà Julieta Chimento - mẹ của Cayetano vẫn không thể gượng dậy nổi vì sự vắng mặt của người con trai - đã chết. Nhưng lần này với đạo đức đã được thử thách, mẹ không còn lý do gì nữa để ngăn cản bài phóng sự.
- Chỉ có một điều trên cương vị là người mẹ, mẹ yêu cầu con phải viết về Cayetano như là con trai của mẹ - mẹ nói với tôi.
Truyện có tên gọi Ký sự về một cái chết đã được báo trước đã được đăng hai năm sau đó. Mẹ đã không đọc truyện này với một lý do, mà tôi xem đó là cái đáng quý nhất ở bà và tôi lưu giữ mãi trong bảo tàng riêng của mình: “Một chuyện xấu xảy ra ở trong đời không thể là tốt trong một cuốn sách”.
Một tuần sau cái chết của Cateyano, điện thoại trên bàn làm việc của tôi đổ chuông vào lúc năm giờ chiều khi tôi bắt đầu viết theo nhiệm vụ hàng ngày của mình cho báo El Heraldo. Bố tôi gọi. Ông vừa đến Barranquilla mà không báo trước và ông hẹn gặp tôi khẩn cấp ở quán cà phê Roma. Giọng nói căng thẳng của ông làm tôi giật mình, nhưng tôi còn hoảng hơn khi thấy ông ăn mặc luộm thuộm chưa từng thấy cùng với bộ râu không cạo, bộ quần áo màu xanh da trời nhàu nát vì đi xe và chỉ còn cái bóng dáng điềm tĩnh kỳ lạ của người chiến bại.
Tôi buồn phiền đến mức không thể truyền đạt đầy đủ nỗi đớn đau và sự minh mẫn trong lời kể của bố, về tình cảnh khốn khó của gia đình ở Sucre, chốn thiên đường của cuộc sống dễ dàng và đầy các cô gái trẻ đẹp, nay đã rung chuyển trong cơn địa chấn của bạo lực chính trị. Cái chết của Cateyano chỉ là một dấu hiệu.
- Con không thể hình dung ra cảnh địa ngục ở đó vì con đang sống ở một ốc đảo hòa bình - bố nói với tôi. - Nhưng những người chúng ta còn sống được ở nơi ấy chẳng qua là nhờ được Đức Chúa biết đến mà thôi.
Bố là một trong số ít ỏi đảng viên đảng Bảo thủ không phải lẩn trốn trước những người thuộc phái Tự do đang kích động vì sự kiện ngày mồng 9 tháng Tư, và chính những người cùng đảng đã từng núp bóng ông nay lại quay ra khinh bỉ coi ông là kẻ ôn hòa. Bố vẽ lên một bức tranh đáng sợ - và hết sức thực tế - để biện minh cho quyết định lầm lẫn từ bỏ tất cả để đưa gia đình đến Cartagena. Tôi không có lý lẽ và trái tim để chống lại quyết định của bố, nhưng nghĩ rằng có thể khuyên ông có một giải pháp bớt triệt để hơn là việc phải chuyển nhà ngay tức khắc.
Cần phải có thời gian để suy nghĩ. Hai cha con im lặng ngồi uống nước, mỗi