Chương 8
Tổng biên tập báo ElEspectador, Guillermo Cano gọi điện thoại cho tôi khi biết tôi đang ở trong văn phòng của Alvaro Mutis, cách trụ sở ban biên tập bốn tầng trong cùng cao ốc mới được khai trương, cách trụ sở cũ khoảng năm dãy phố. Mới đến từ tối hôm trước, tôi dự định sẽ ăn trưa với một số bạn bè của ông, nhưng Guillermo cứ bảo tôi phải đến chào ông trước đã. Và đúng là phải như vậy. Sau những vòng tay ôm hôn nồng nhiệt đúng cách thanh lịch của dân thủ đô và một đôi lời bình luận về tin tức trong ngày, ông kéo tay tôi ra khỏi những người cộng sự của mình trong tòa soạn. “Nghe này, Gabriel, có việc đây - ông nói với tôi với cái vẻ ngây thơ không chịu được - anh làm ơn viết cho tôi một bài xã luận đang còn thiếu để lên khuôn tờ báo, được không?” Ông dùng ngón tay trỏ và ngón cái ra hiệu cỡ nửa cốc nước, và kết luận:
- Dài cỡ này.
Vui hơn cả ông, tôi liền hỏi mình có thể ngồi ở đâu, và ông chỉ ngay chiếc bàn còn để trống với một chiếc máy chữ cổ lỗ sỉ. Không hỏi gì hơn, tôi liền ngồi vào chỗ, suy nghĩ về một đề tài tốt cho họ, và tôi sẽ ngồi trên chính cái ghế này, đúng cái bàn đây với cùng chiếc máy chữ trong mười tám tháng tiếp theo nữa.
Mấy phút sau khi tôi đến, Eduardo Zalamea Borda, Phó Tổng biên tập cũng ra khỏi phòng bên cạnh, mặt đầy tư lự với cuộn giấy trên tay. Ông tỏ vẻ kinh ngạc khi nhận ra tôi.
- Chà chà, ngài Gabo! - gần như ông hét lên với cái tên mà chính mình đã nghĩ ra cho tôi bằng cách cải biến tên Gabito ở Barranquilla, và chỉ có ông dùng. Nhưng lần này thì nó đã được phổ biến rộng rãi ở cả trong tòa soạn và tiếp tục được dùng bằng cả chữ in: Gabo.
Tôi không còn nhớ đề tài bài báo mà Guillermo Cano đã nhờ tôi viết, nhưng ngay từ hồi học ở trường Đại học Quốc gia tôi đã biết phong cách năng động của tờ El Espectador. Nhất là trong chương mục “Ngày qua ngày” trong trang bình luận, xã luận, vốn có uy tín rất xứng đáng, và tôi quyết định làm theo cách đó với sự bình thản mà mẹ Luisa Santiaga đã từng đương đầu với lũ quỷ dữ của những khó khăn trắc trở. Tôi hoàn thành bài báo trong vòng nửa giờ đồng hồ, sửa chữa bằng tay một số sai sót và trao lại cho Guillermo Cano. Ông vẫn đứng dướn mắt qua vòng cung của chiếc kính cận để đọc bài báo. Sự tập trung chú ý dường như không phải chỉ của mình ông mà của cả một vương triều tổ tiên những người tóc trắng, bắt đầu từ ngài Fidel Cano, người sáng lập ra tờ báo vào năm 1887, tiếp tục với người con trai, ngài Luis, và được củng cố bởi em trai của ông này, ngài Gabriel. Rồi khi dòng máu gia tộc đã trưởng thành, người cháu nội Guillermo đã tiếp nhận chức Tổng biên tập ở tuổi hai mươi ba. Giống như những người trong dòng họ trước đây đã từng làm, Guillermo cũng rà soát lại một số ý nhỏ còn nghi ngờ rồi kết thúc bằng việc sử dụng lần đầu tiên cái tên thực dụng và đơn giản hóa của tôi:
- Rất tốt, anh Gabo ạ.
Đêm đầu tiên khi trở lại, tôi nghiệm thấy Bogota không còn như ngày nào nữa dù lòng còn đầy ắp bao kỷ niệm. Cũng như bao nhiêu sự kiện bi thảm khác của đất nước, biến cố ngày mồng 9 tháng 4 cũng đang được người ta tìm mọi cách chôn vùi trong quên lãng hơn là để nó đi vào lịch sử. Khách sạn Grenada đã bị thiêu rụi cùng với công viên đã hơn trăm tuổi của nó và thay vào đó đã xuất hiện tòa nhà quá mới mẻ - Ngân hàng của nước Cộng hòa. Những đường phố cũ ngày nào giờ sẽ vắng vẻ nếu không có những chuyến xe điện đèn sáng choang, và góc phố của tội ác lịch sử đã không còn khoảng không gian mênh mông vì cơn hỏa hoạn gây ra. “Bây giờ đúng là một thành phố lớn”, ai đó đi cùng với tôi kinh ngạc thốt lên. Và nói ra một câu thường tình mà cấu xé hồn tôi:
- Phải cảm ơn ngày mồng chín tháng tư.
Trước đây, tôi chưa bao giờ được ở một nhà trọ thoải mái hơn cái nhà trọ không tên mà Alvaro Mutis đã bố trí cho tôi. Đó là một căn nhà đẹp vì nỗi bất hạnh được ở ngay cạnh công viên quốc gia, nơi mà trong đêm đầu tiên tôi đã phải phát ghen vì cảnh làm tình như trong một cuộc chiến tranh hạnh phúc của những người ở phòng bên cạnh. Ngày hôm sau, nhìn thấy họ đi ra khỏi phòng, tôi không thể ngờ được đó chính là những người của đêm qua: một đứa bé gái gầy còm vận bộ đồ của trại trẻ mồ côi và một ông già đầu bạc cao đến hai mét, có thể bằng tuổi ông của đứa bé. Tôi nghĩ là mình nhầm, nhưng chính họ đã tự khẳng định bằng những tiếng kêu thét như sắp chết hằng đêm cho đến tận sáng sớm.
El Espectador đăng bài báo của tôi trên trang xã luận ở vị trí tốt. Suốt buổi sáng, tôi đã dạo qua các cửa hàng lớn để mua quần áo theo yêu cầu bắt buộc của Mutis và tôi tự nghĩ ra giọng nói lơ lớ tiếng Anh để mua vui cho các cô bán hàng. Tôi ăn trưa với Gonzalo Mallarino và những nhà văn trẻ khác được mời đến để giới thiệu tôi với hội đoàn của họ. Tôi không còn biết gì về Guillermo Cano cho đến mãi ba ngày sau khi ông gọi cho tôi lúc tôi đang ở văn phòng của Mutis.
- Nghe này, Gabo, anh đang có chuyện gì vậy? - anh nói với tôi với vẻ nghiêm túc bắt chước không được đúng lắm của Tổng biên tập. - Ngày hôm qua chúng tôi lên khuôn báo chậm vì chờ bài của anh đấy.
Tôi vội đi xuống tòa soạn báo để nói chuyện với ông ấy. Đến bây giờ tôi cũng không biết làm cách nào mà hồi đó tôi có thể tiếp tục viết các bài báo không ký tên hàng ngày vào buổi chiều suốt một tuần lễ mà không ai nói với mình một câu về công việc và lương bổng. Trong những cuộc đàm đạo về văn chương, những biên tập viên của tờ báo coi tôi như người của họ và sự thật đúng là như vậy dù tôi vẫn không hình dung ra mức độ cam kết của mình với tòa báo ra sao.
Chuyên mục “Ngày qua ngày”, gồm những bài không bao giờ ký tên tác giả, thường bắt đầu bằng bài về chính trị của Guillermo Cano. Theo quy định của Ban lãnh đạo tờ báo, sau đó sẽ đến bài về đề tài tự do của Gonzalo Gonzalez, ông còn phụ trách thêm chuyên mục khá thú vị và được quần chúng ưa thích nhất của tờ báo là “Hỏi và đáp”, nơi ông giải đáp bất cứ thắc mắc nào của độc giả với bút danh Gog, nhưng không phải lấy từ tên Giovanni Papini mà chính âm đầu của tên ông. Sau đó, họ cho in các bài của tôi, và thỉnh thoảng lắm mới có những bài đặc biệt của Eduardo Zalamea vì hàng ngày ông đã phụ trách mục hay nhất của trang xã luận và bình luận - “Thành phố và thế giới” - với bút danh Ulises, không phải từ tác phẩm của Homero - như ông thường nói - mà từ tác phẩm của James Joyce.
Alvaro Mutis cần phải thực hiện chuyến đi công tác ở Port-au-Prince (thủ đô Haiti - ND) vào những ngày đầu năm mới, và anh mời tôi cùng đi. Hồi đó, Haiti là đất nước của những giấc mơ của tôi sau khi đọc xong tiểu thuyết Vương quốc trên thế gian này của Alejo Carpentier (Nhà văn nổi tiếng của Cuba-ND). Ngày 18 tháng Hai tôi vẫn chưa trả lời lời mời của anh ấy, thì đã bắt tay viết một bài báo về nữ hoàng Anh đơn độc trong cung điện Buckingham rộng mênh mông. Tôi để ý là bài này được đăng trên đầu của chuyên mục “Ngày qua ngày” và được mọi người trong văn phòng của chúng tôi đưa ra những lời bình phẩm tốt. Tối hôm đó, trong buổi liên hoan nhỏ tại nhà của Tổng biên tập José Salgar, ông Eduardo Zalamea đã đưa ra những lời khen ngợi còn nhiệt tình hơn nữa. Sau đó, có người tốt bụng còn nói với tôi rằng ý kiến này đã làm tan biến những dè dặt bấy lâu nay và Ban lãnh đạo tờ báo sẽ chính thức giao cho tôi một công việc cố định.
Ngày hôm sau, ngay từ lúc sáng sớm, Alvaro Mutis đã gọi tôi đến văn phòng của anh ấy để báo tin buồn là chuyến đi Haiti đã bị hủy bỏ. Nhưng anh đã không nói với tôi quyết định này đã được đưa ra sau một cuộc nói chuyện ngẫu nhiên với Guillermo Cano. Trong lần nói chuyện đó, Guillermo đã chân thành đề nghị không đưa tôi cùng đi đến Port-au-Prince. Alvaro cũng chưa bao giờ đến Haiti, nên muốn biết lý do tại sao. “Bởi vì khi đã đến đó - Guillermo nói với anh ta - anh sẽ biết rằng nơi ấy là chốn mà Gabo thích nhất trên thế gian này”. Và chấm dứt buổi chiều bằng một lời kết tuyệt vời:
- Nếu Gabo đi Haiti hắn ta sẽ mãi mãi không chịu trở về nữa đâu.
Alvaro hiểu ngay và quyết định hủy chuyến đi, và anh báo cho tôi như là một quyết định của công ty. Thế là không bao giờ tôi được biết Port-au-Prince, nhưng hoàn toàn không biết lý do thực sự cho đến mãi mấy năm gần đây Alvaro mới kể lại cho tôi chuyện này, trong vô vàn những buổi ngồi ôn lại kỷ niệm cũ giữa hai người đã lên hàng ông nội, ngoại. Về phần mình, Guillermo sau khi đã trói chặt tôi vào bản hợp đồng với tờ báo, lại nói với tôi trong nhiều năm rằng: ông rất muốn có một thiên phóng sự lớn về Haiti, nhưng không bao giờ tôi được đi và cũng không giải thích vì sao.
Chưa bao giờ trong đầu tôi vấn vương ảo tưởng trở thành biên tập viên trong biên chế của báo El Espectador. Tôi hiểu là người ta đăng truyện ngắn của tôi vì lúc này ở Colombia đang rất thiếu tác phẩm thuộc thể loại này, nhưng biên tập hàng ngày cho một tờ báo buổi chiều đúng là một thách thức hoàn toàn khác hẳn đối với một người chưa được rèn luyện nhiều trong giới báo chí xung kích. Với tuổi đời nửa thế kỷ, được nuôi dưỡng trong căn nhà đi thuê và với những máy móc thừa của tờ El Tiempo - một tờ báo giàu có, hùng mạnh và kiêu ngạo, - El Espectador chỉ là một tờ báo buổi chiều mười sáu trang chật chội, nhưng năm ngàn bản hàng ngày của nó lại được những người phát hành tranh nhau giành giựt ngay ở cửa xưởng in và được người ta đọc trong nửa tiếng đồng hồ ở các quán cà phê im ắng trong thành phố cổ. Eduardo Zalamea Borda đã từng trực tiếp tuyên bố với đài BBC Luân Đôn rằng: đây là tờ báo hay nhất thế giới. Nhưng điều đáng khích lệ nhất không phải chỉ đơn thuần là lời tuyên bố, mà gần như tất cả những người tham gia làm ra nó cũng như những người đọc nó đều tin đó là sự thật.
Tôi phải thú nhận rằng chỉ một ngày sau khi chuyến đi Haiti bị hủy bỏ, tim tôi đã nhảy rộn lên khi Luis Gabriel Cano, Tổng quản lý, gọi tôi đến văn phòng của ông ta. Cuộc gặp gỡ, với đầy đủ mọi thủ tục hình thức cũng không kéo dài quá năm phút đồng hồ. Luis Gabriel vốn nổi tiếng là cục cằn, một người bạn hào hiệp và một người quản lý keo kiệt, nhưng lúc đó và đến tận bây giờ tôi vẫn thấy ông là một người rất tỉ mỉ và thân mật. Bằng những lời trịnh trọng, ông đưa ra lời đề nghị tôi ở lại tòa soạn báo trên cương vị biên tập viên trong biên chế để viết về các thông tin chung, các bài trình bày ý kiến của Ban biên tập, và tất cả những gì cần thiết trong giai đoạn khó khăn nhất trước khi báo lên khuôn, với mức lương hàng tháng là chín trăm peso. Tôi như bị hụt hơi. Khi lấy lại được hơi thở tôi liền hỏi lại một lần nữa số lương là bao nhiêu, và ông ấy đã nhắc lại từng chữ rõ ràng: chín trăm peso. Ấn tượng của tôi chắc là quá mạnh nên mấy tháng sau - trong một buổi lễ - ông Luis Gabriel thân yêu của tôi đã nói rằng: hôm đó ông diễn giải sự ngạc nhiên của tôi như một lời từ chối. Điều nghi ngờ cuối cùng đã được chính ngài Gabriel nói ra: “Trông anh ta gầy và xanh xao quá mức làm chúng tôi sợ anh ấy bị chết ngay trong phòng làm việc”. Thế là tôi bước vào làm biên tập viên chính thức của El Espectador, nơi chỉ trong không đầy hai năm tôi đã ngốn số lượng giấy lớn nhất trong cả đời mình.
Đó là một dịp may ngẫu nhiên. Người đáng sợ nhất trong tòa báo chính là ngài Gabriel Cano, vị trưởng lão. Ông tự quyết định lập ra những quy chế kiểm tra hết sức gắt gao trong Ban biên tập. Ông đọc soi mói với chiếc kính lúp phóng đại từng milimét tất cả cho đến tận từng dấu phẩy ít ai để ý nhất trong ấn phẩm hàng ngày, bằng bút mực đỏ, ông đánh dấu tất cả mọi thiếu sót trong từng bài báo và cắt dán lên một tấm bảng tất cả những bài bị trừng phạt với những lời bình đáng sợ của chính ông. Ngay từ ngày đầu, chiếc bảng này được đặt tên là “Bức tường nhục nhã”, và tôi nhớ là không một biên tập viên nào thoát khỏi ngòi bút khát máu của ông.
Sự thăng tiến nhanh chóng đầy ấn tượng của Guillermo Cano lên chức Tổng biên tập của El Espectador ở tuổi hai mươi ba hình như không phải là nhờ vào những thành tích cá nhân nở rộ sớm, mà chẳng qua là thực hiện một quyết định đã được dự kiến sẵn trước khi ông ra đời. Vì vậy, điều ngạc nhiên đầu tiên của tôi chính là việc phát hiện ra rằng ông thực sự xứng đáng với cương vị một Tổng biên tập chứ không như người ngoài vẫn thường nghĩ ông chỉ là một đứa con ngoan ngoãn mà thôi. Tôi cũng rất chú ý đến khả năng nắm bắt tin tức nhanh nhạy của ông.
Nhiều khi ông phải đối đầu với tất cả mọi người, dù không đủ lý lẽ, cho đến khi thuyết phục được tất cả nghe theo ý kiến của ông. Thời kỳ đó, nghề báo chưa được giảng dạy trong trường đại học mà người ta phải đứng học bên cạnh máy in, phải hít vào lồng ngực toàn mùi mực in báo, và El Espectador đã có những người thầy giỏi giang nhất có tấm lòng nhân ái cùng với những bàn tay sắt. Guillermo Cano bắt đầu học những chữ đầu tiên ở đó với những nhận xét nghiêm khắc và uyên bác. Kinh nghiệm nặng nề nhất của đời ông có lẽ là việc được đề bạt nhanh, thoát một cái đã lên đến chức vụ cao nhất không qua các cấp trung gian, từ một anh học việc lên thẳng người thầy bậc cao. Ai không gần gũi ông thì khó mà hình dung được sau cái vẻ mềm mỏng dịu dàng và hơi né tránh lại là ý chí quyết tâm sắt đá trong cá tính của ông. Với nhiệt tình cao độ, ông lao vào những trận đánh lớn đầy hiểm nguy, không bao giờ dừng bước kể cả khi biết rằng phía sau sự nghiệp cao thượng có thể có thần chết đang rình rập.
Tôi chưa từng quen biết một người nào ngang bướng với sinh hoạt cộng đồng, dị ứng mạnh mẽ với những vinh quang cá nhân và lẩn xa mọi khoái lạc quyền lực như ông. Ông ít có bạn hữu, nhưng số ít bạn bè đó đều là người rất tốt và tôi cảm thấy vinh hạnh được là một trong số ít đó từ những ngày đầu tiên. Có lẽ vì tôi là một trong những người non nớt nhất trong số những nhà báo già dặn ngồi trong Ban biên tập, điều này làm cho giữa hai chúng tôi hình thành một mối quan hệ cộng sự mãi mãi không bao giờ suy suyển. Điều làm cho tình bạn của chúng tôi trở thành mẫu mực chính là khả năng ứng biến của ông đối với những mâu thuẫn giữa hai chúng tôi. Những bất đồng chính trị là rất sâu sắc và ngày càng theo đà phát triển của sự phân rã trên thế giới, nhưng bao giờ chúng tôi cũng tìm được một quan điểm chung để tiếp tục cùng nhau đấu tranh cho sự nghiệp mà chúng tôi cho là chính đáng.
Ban biên tập ở trong một phòng rất rộng, bàn làm việc được xếp dọc theo hai bên, bầu không khí đầy chất hài hước lành mạnh và châm biếm nặng nề luôn luôn ngự trị. Dario Bautista, một loại người kỳ lạ, phiên bản của Bộ trưởng Tài chính, ngay từ tiếng gà gáy đầu tiên đã tìm mọi cách khuấy đảo, làm hỏng buổi bình minh của các vị quan chức cao hơn bằng hàng loạt những lời tiên đoán - mà phần nhiều là đúng - về tương lai xám xịt của họ. Còn Felipe Gonzalez Toledo, biên tập viên về lĩnh vực tư pháp, một nhà báo bẩm sinh đã nhiều lần đi trước cả các cuộc điều tra của chính phủ bằng nghệ thuật tháo ốc vít lôi tội phạm ra ánh sáng. Guillermo Lanao, phụ trách tin tức của mấy bộ phận, đã giữ được bí quyết vẫn mãi là trẻ thơ cho đến khi ở lứa tuổi cổ lai hi. Rogelio Echavarría, một nhà thơ lớn, phụ trách tờ báo buổi sáng, nên không bao giờ chúng tôi được gặp vào ban ngày. Người anh họ của tôi Gonzalo Gonzalez, một chân băng bột vì chấn thương trong một trận đá bóng, phải học để trả lời những câu hỏi về tất tật mọi thứ trên đời vì thế mà trở thành chuyên gia tạp pí lù. Mặc dù ở trường đại học đã từng là cầu thủ bóng đá hạng nhất, nhưng anh vẫn có niềm tin vĩnh hằng là phải tiếp tục học lý thuyết về bất cứ việc gì bất chấp mọi kinh nghiệm thực tiễn. Dẫn chứng hùng hồn nhất là trong giải vô địch bowling giữa các nhà báo, trong khi chúng tôi tập suốt đêm đến sáng ở sàn đấu thì anh ta dành thời gian nghiên cứu một cuốn sách hướng dẫn về các quy luật vật lý của trò chơi này, và cuối cùng anh ta đã giành được chức vô địch.
Với một biên chế như vậy, phòng biên tập là cả một thế giới vui nhộn vĩnh cửu luôn theo khẩu hiệu không biết là của Darío Bautista hay của Felipe Gonzalez Toledo: “Kẻ nào làm điếm thì ráng mà chịu”.
Tất cả chúng tôi đều biết các đề tài của người khác và luôn giúp nhau khi được yêu cầu hoặc khi có thể. Sự tham gia chung nhiều đến mức có thể nói chúng tôi làm việc bằng cách nói lớn với nhau.
Nhưng khi có việc gì nghiêm trọng thì không nghe thấy cả tiếng thở nữa. Chiếc bàn làm việc duy nhất nằm ngang ở cuối phòng là của Jose Salgar, nhưng ông thường đi lại khắp phòng thông báo tin tức cho mọi người và làm dịu tâm hồn bằng nghệ thuật tung hứng của mình.
Tôi tin rằng buồi chiều Guillermo Cano dẫn tôi đi giới thiệu với từng bàn là trận thử lửa đối với tính nhút nhát của tôi. Tôi như mất khả năng nói và chân thì như bị trật khớp khi Darío Bautista cất giọng vang như sấm nói mà không nhìn ai:
- Bậc thiên tài đã đến!
Tôi không biết làm gì hơn là quay nửa người lại rất kịch với hai tay đưa về phía mọi người và nói cái câu đỡ khôi hài nhất vừa nảy ra trong đầu mình:
- Xin được phục vụ các vị.
Đến bây giờ, tôi như vẫn còn thấy tác động của tiếng huýt sáo và hô hoán ầm ĩ của buổi hôm đó, nhưng cũng thấy nhẹ cả người vì không phải ôm hôn tất cả và phải nghe những lời chào tốt đẹp của từng người. Từ giây phút đó, tôi đã trở thành một thành viên mới trong cộng đồng những con hổ nhân từ với tình hữu hảo và tinh thần toàn tâm toàn ý không bao giờ mất nữa. Bất cứ một thông tin nào, dù nhỏ nhất mà tôi cần để viết báo đều có thể nhờ các biên tập viên tương ứng cung cấp mà không bao giờ bị từ chối.
Bài học lớn đầu tiên trong nghề làm báo của tôi được chính Guillermo Cano dạy cho vào đúng buổi chiều toàn bộ Ban biên tập đang ngồi nhìn cơn mưa rào đổ xuống thành phố Bogota như một cơn đại hồng thủy trong suốt ba tiếng đồng hồ không ngưng nghỉ. Dòng nước cuồn cuộn chảy dọc theo đại lộ Jimenez de Quesada cuốn trôi tất cả mọi thứ và để lại một cảnh tượng về nạn đại hồng thuỷ. Tất cả các loại xe ô tô và phương tiện vận chuyển công cộng đều bị ngưng trệ và hàng ngàn hành khách phải đứng trú ở mái hiên các dãy nhà hai bên phố trong cảnh ngập lụt đến mức không thể tệ hơn được nữa. Tất cả biên tập viên tòa báo bị bất ngờ trước thảm họa đúng vào lúc hết giờ, không còn biết làm gì hơn là cho tay vào túi quần, đứng nhìn qua ô cửa sổ như đám trẻ con bị phạt. Bỗng nhiên, Guillermo Cano xuất hiện làm mọi người bừng tỉnh giấc mơ chập chờn. Ông hét to với cả Ban biên tập đang chết lặng:
- Cơn mưa rào này là cả một nguồn tin đấy!
Đó là một mệnh lệnh mà mọi người phải tuân theo răm rắp. Các biên tập viên chúng tôi chạy ngay về vị trí chiến đấu dùng điện thoại nắm lại từng số liệu chi tiết theo yêu cầu của Jose Salgar để viết từng đoạn một bài phóng sự về cơn mưa rào của thế kỷ. Những xe cấp cứu của bệnh viện và những xe của cảnh sát tuần tra đều bị bất động trong hàng xe bị chết máy vì ngập nước làm kẹt cứng đường phố. Hệ thống đường ống gia đình bị nước lụt làm tắc nghẽn, không còn đủ lực lượng cứu hộ để đi cứu chữa khẩn cấp. Ở một số khu phố, dân cư phải sơ tán khẩn vì đập nước sắp vỡ. Ở các khu khác thì hệ thống đường nước bị vỡ. Hè phố đầy người già tàn tật, bệnh nhân và trẻ em bị ngạt. Trong cảnh hỗn loạn đó có năm chủ ca nô thường đi câu cá cuối tuần đã tổ chức cuộc thi tốc độ dọc theo đại lộ Caracas nơi bị ngập sâu nhất thành phố. Những tư liệu cập nhật tức thì này được Jose Salgar phân phát lại cho các biên tập viên để viết bài cho số báo đặc biệt tổ chức một cách ngẫu hứng. Những phóng viên nhiếp ảnh vận ngay áo mưa đi chụp nóng ở bên ngoài. Trước lúc năm giờ chiều, Guillermo Cano viết bài tổng hợp tuyệt vời về một trong những cơn mưa rào tai hại nhất mà người ta còn nhớ đến tại thành phố này. Cuối cùng, khi mưa vừa tạnh, thì số báo đặc biệt không dự kiến trước của El Espectador được phát hành như mọi ngày chỉ ra chậm có một tiếng đồng hồ.
Mối quan hệ ban đầu của tôi với Jose Salgar quả là khó khăn nhất nhưng đồng thời cũng mang tính sáng tạo hơn cả. Tôi tin rằng anh ta có vấn đề ngược hẳn với tôi: anh ấy luôn luôn tìm cách bắt các phóng viên trong nhóm của mình phải hát thật to nốt đô từ trong lồng ngực mình, còn tôi thì mong muốn họ đặt nốt đô đó trong dòng nhạc đang thịnh hành. Nhưng những cam kết khác với tờ báo đã trói chân tay tôi và tôi chỉ có thời gian rảnh rỗi vào các ngày Chủ nhật. Hình như Salgar để mắt đến tôi như một phóng viên còn những người khác lại đặt tôi vào đề tài phim ảnh, những bài bình luận, xã luận và các vấn đề văn hóa, bởi vì tôi luôn được coi là nhà văn chuyên viết truyện ngắn. Nhưng từ những bước đi ban đầu ở vùng bờ biển, ước mơ của tôi luôn luôn là trở thành phóng viên, và tôi cũng biết rằng Salgar là người thầy tốt nhất, nhưng ông ấy đóng chặt cửa có lẽ với hy vọng tôi phải dùng vũ lực để phá cửa xông vào. Chúng tôi làm việc rất tốt, thân mật và năng động, và mỗi lần phải đưa qua ông một bài vở gì đó đã viết xong theo nhận xét của Guillermo Cano và cả Eduardo Zalamea thì ông đều thông qua không một chút dè dặt, nhưng ông không tha thứ kiểu hình thức. Làm động tác như đang cố mở nút chai, ông nói với tôi một cách nghiêm chỉnh như chính niềm tin của mình:
- Phải vặn cổ con thiên nga.
Tuy nhiên, ông không bao giờ tỏ ra hung hăng. Ngược lại, ông là một người thân mật, từng trải, và thăng tiến nhờ thành tích tốt trong công việc, từ việc phân phát cà phê trong xưởng lúc mười bốn tuổi, cho đến khi trở thành thư ký tòa soạn có uy quyền nghề nghiệp nhất nước. Tôi tin là ông không tha thứ cho sự lãng phí trong nghệ thuật tung hứng con chữ trữ tình của tôi ở một đất nước đang rất cần có những phóng viên xung kích. Ngược lại, tôi cho rằng không có thể loại báo chí nào tốt hơn phóng sự trong việc phản ánh cuộc sống hàng ngày. Tuy nhiên, ngày nay tôi hiểu rằng sự cương quyết làm theo ý mình của hai chúng tôi là cách kích động tốt nhất để tôi thực hiện ước mơ trở thành phóng viên của mình.
Dịp may đã đến với tôi vào lúc 11 giờ 20 phút sáng ngày 9 tháng 6 năm 1954 khi tôi vừa đi thăm bạn ở trại giam Modelo của Bogota trở về. Quân lính được trang bị như chuẩn bị ra trận đang ngăn chặn một đám sinh viên trên đại lộ số Bảy chỉ cách hai dãy phố nơi đã xảy ra vụ giết hại Jorge Eliécer Gaitán. Đó là một cuộc biểu tình phản đối việc một sinh viên bị lính của tiểu đoàn Colombia được huấn luyện cho cuộc chiến tranh ở Triều Tiên giết hại ngày hôm trước và đó là cuộc đụng độ đầu tiên ngoài đường phố của thường dân chống lại các lực lượng vũ trang.
Từ chỗ tôi đứng, người ta chỉ nghe được tiếng hò hét tranh cãi của đám sinh viên đòi tiếp tục được đi đến Dinh Tổng thống và đám lính thì ra sức ngăn cản. Trong đám đông hỗn loạn, tôi không nghe rõ nội dung cụ thể của cuộc tranh cãi, nhưng sự căng thẳng thì thấy rõ trong bầu không khí. Bỗng nhiên, không hề cảnh báo trước, người ta nghe thấy một loạt súng nổ. Một số sinh viên và người đi đường trúng đạn chết ngay tại chỗ. Những người sống sót định đưa những người bị thương đi bệnh viện liền bị đám lính dùng báng súng đánh bật trở lại. Đám lính xua đuổi mọi người chạy khỏi khu vực này và phong tỏa các đường phố xung quanh. Trong cơn chạy hoảng loạn, tôi đã sống lại trong mấy giây đồng hồ cảnh rùng rợn của sự kiện ngày mồng 9 tháng 4, vào đúng giờ này và ở chính nơi đây.
Tôi chạy ngược lên ba dãy phố về phía tòa soạn El Espectador và thấy cả Ban biên tập trong tư thế chiến đấu. Tôi vừa thở hổn hển vừa kể lại những gì đã thấy ở nơi xảy ra cuộc tàn sát, nhưng người ít biết nhất thì lại đang ngồi viết ào ào bài tường thuật đầu tiên về tên tuổi của chín sinh viên bị chết và tình trạng thương tật của những người ở trong bệnh viện. Tôi tin chắc là mình sẽ được lệnh kể lại hành động tàn bạo đó vì tôi là người duy nhất tận mắt chứng kiến, nhưng Guillermo Cano và Jose Salgar đã thống nhất với nhau đây phải là một bài báo tập thể trong đó từng người viết riêng phần của mình. Người biên tập chính sẽ là Felipe Gonzalez Toledo để đảm bảo bài tường thuật mạch lạc và thống nhất về nội dung sau cùng.
- Cứ an tâm đi - ông ta nói vì nhận ra vẻ chán chường của tôi. - Người ta đều biết ở đây chúng ta làm chung cả dù không có chữ ký.
Về phần mình, Ulises an ủi tôi rằng bài xã luận mà tôi cần phải viết có thể sẽ rất quan trọng vì đấy là vấn đề cực kỳ nghiêm trọng trong lĩnh vực trật tự công cộng. Ông ấy có lý, nhưng đó sẽ là một bài rất tế nhị và mang tính định hướng chính trị của tờ báo nên nó sẽ được vài người cấp cao nhất trực tiếp viết. Tôi tin rằng đó là một bài học chính đáng cho tất cả, nhưng riêng với tôi thì thật vô cùng đau đớn. Vụ việc này là dấu chấm hết tuần trăng mật giữa chính phủ của các lực lượng vũ trang và báo chí thuộc phái tự do. Bắt đầu từ tám tháng trước khi tướng Rojas Pinilla lên cầm quyền, đất nước có vẻ được dễ thở hơn sau những cuộc tắm máu liên tục và kéo dài cho đến tận ngày hôm ấy của hai chính phủ bảo thủ. Đối với tôi, đó cũng là trận thử lửa trong giấc mơ trở thành phóng viên của mình.
Sau đó ít lâu, người ta đã cho đăng ảnh xác một đứa bé vô thừa nhận ở trong hội trường của ngành pháp y mà tôi nhận thấy giống hệt ảnh một đứa bé mất tích được đăng mấy ngày hôm trước. Tôi đưa cho trưởng phòng pháp lý, Felipe Gonzalez Toledo xem, và ông đã gọi cho người mẹ của đứa trẻ đầu tiên mà chưa tìm thấy. Đó là một bài học thường xuyên. Người mẹ của đứa trẻ mất tích chờ Felipe và tôi ở phòng chờ của hội trường. Tôi thấy bà thật đáng thương và nhỏ nhoi nên tôi ước mong với tất cả tấm lòng mình là xác chết đó không phải là con của bà. Trong tầng hầm lạnh giá, dưới ánh đèn sáng trưng, có khoảng hai mươi cái bàn để xác chết cứng như đá phủ khăn dơ bẩn. Cả ba chúng tôi đi theo người canh xác chậm chạp đi đến chiếc bàn gần cuối cùng trong góc phòng. Thò ra ngoài chiếc khăn phủ có đôi giày nhỏ buồn thảm với gót sắt mòn vẹt vì đã dùng nhiều. Người mẹ nhận ra ngay, mặt tím ngắt nhưng bà cố giữ hơi thở cho đến khi người canh xác ướp giở tấm khăn lên. Tấm thân của một đứa trẻ khoảng chín tuổi với đôi mắt mở to ngỡ ngàng và vẫn vận bộ đồ khi người ta tìm thấy bị chết trong một rãnh thoát nước ven đường cách đây mấy ngày. Người mẹ hét lên đau đớn rồi gục ngã xuống đất. Felipe đỡ bà dậy và cố tìm lời an ủi, còn tôi thì tự hỏi không biết điều này có xứng với cái nghề mà mình mơ ước hay không. Eduardo Zalamea khẳng định là không. Ông cũng nghĩ rằng những bài ký sự được độc giả quan tâm là một chuyên ngành khó cần có bản lĩnh riêng và một trái tim đã qua thử thách. Không bao giờ tôi còn có ý định theo đuổi công việc này nữa.
Một thực tế khác cũng buộc tôi phải trở thành người phê bình điện ảnh. Trước đây, tôi chưa bao giờ có ý nghĩ là sẽ làm việc này, nhưng những gì đã xảy ra trong rạp chiếu phim Olympia của ngài Antonio Daconte ở thị trấn Aracataca và sau đó trong trường học lưu động của Alvaro Cepeda đã tạo ra cho tôi những nhân tố cơ bản để viết các bài báo về định hướng phim ảnh với quan điểm hữu ích hơn so với quan điểm thông thường lúc đó ở Colombia. Ernesto Volkening, một nhà văn lớn và phê bình văn học người Đức sống ở Bogota từ thời chiến tranh thế giới, vẫn có bài bình luận trên Đài phát thanh Quốc gia về các cuốn phim được trình chiếu lần đầu, nhưng chỉ hạn chế dành cho những thính giả là chuyên gia về điện ảnh. Cũng có một số nhà bình luận giỏi nhưng không thường xuyên tập hợp xung quanh tác giả kịch bản người xứ Catalan, ông Luis Vicens, ở Bogota từ thời nội chiến ở Tây Ban Nha. Chính ông là người đầu tiên lập ra câu lạc bộ phim ảnh với sự đồng tình tham gia của họa sĩ Enrique Grau, nhà phê bình Hernando Salcedo và với sự khéo léo của nữ nhà báo Gloria Valencia de Castano Castillo, vốn là người có uy tín số một. Trong nước có một lượng khá lớn công chúng yêu thích những phim hành động và bi kịch đầm đìa nước mắt, còn phim chất lượng cao chỉ bó hẹp trong số khán giả có văn hóa và những nhà phát hành phim, các chủ rạp càng ngày càng ít mạo hiểm đối với những phim chỉ chiếu được ở rạp ba ngày. Giành giật được thêm khán giả mới từ trong đám đông công chúng đòi hỏi phải có một khả năng sư phạm cao, và có đủ năng lực để khuyến khích, thúc đẩy họ đến với phim có chất lượng và đồng thời giúp cho các nhà phát hành phim, các chủ rạp, vốn cũng muốn như vậy, nhưng không thể chu cấp đủ kinh phí. Nhưng trở ngại chính lại là từ phía các nhà phát hành phim vì họ thường xuyên đe dọa cắt các bản hợp đồng quảng cáo đối với các tờ báo - mà đây là một nguồn thu cơ bản - nếu đăng bài nghiêm khắc phê phán các phim thương mại. El Espectador là tờ báo đầu tiên dám mạo hiểm, và giao cho tôi nhiệm vụ hàng tuần là viết các bài bình luận về buổi công chiếu các phim mới với tính chất như những bài học căn bản cho người hâm mộ hơn là một bài thuyết giảng giáo lý. Theo thỏa thuận chung của mọi người, để đề phòng bất trắc, tôi phải thường xuyên giữ nguyên vẹn giấy mời ưu tiên để chứng tỏ mình vào dự với vé mua ở quầy.
Những bài báo đầu tiên đã làm an tâm các nhà phân phối và các chủ rạp bởi vì chỉ phê bình về số phim chất lượng của Pháp. Trong số đó, có Puccini, một bản tổng hợp dài về cuộc đời của nhà nhạc sĩ vĩ đại; Những đỉnh dát vàng, là chuyện rất hay về nữ ca sĩ Grace Moore, và Lễ hội của Enriqueta, một hài kịch bình lặng của Julien Duvivier. Các chủ doanh nghiệp mà tôi gặp ở ngay cửa ra vào rạp đều bày tỏ sự hài lòng vì các bài báo phê bình này. Alvaro Cepeda, ngược lại, đã từ Barranquilla gọi điện đánh thức tôi dậy từ lúc sáu giờ sáng ngay khi biết lòng dũng cảm của tôi:
- Mẹ kiếp, sao anh dám viết bài phê bình phim mà không xin phép tôi! - anh hét to trong tiếng cười ngất ngưởng qua máy điện thoại - và lại với đầu óc ngu muội về điện ảnh của anh nữa cơ chứ!
Đương nhiên, anh đã biến thành người trợ lý thường xuyên của tôi mặc dù không bao giờ anh nhất trí với ý tưởng không biến thành trường học mà chỉ là định hướng cơ bản cho công chúng khán giả mà thôi. Tuần trăng mật với các chủ doanh nghiệp cũng không thật ngọt ngào như lúc đầu chúng tôi nghĩ. Khi chúng tôi đương đầu với những phim thương mại trong sạch và giản dị, thì ngay cả những người cảm thông nhất trong số các nhà phát hành phim cũng phải lên tiếng than phiền về sự cứng rắn trong các bài phê bình của chúng tôi. Eduardo Zalamea và Guillermo Cano đã rất khéo léo thông qua điện thoại làm vui lòng họ cho đến cuối tháng Tư thì một nhà phát hành ngạo mạn tự xưng là lãnh tụ đã gửi một thư ngỏ lên án chúng tôi dọa nạt công chúng xem phim làm ảnh hưởng đến lợi ích của họ. Tôi thấy cái nút của vấn đề là tác giả của bức thư đã không hiểu ý nghĩa của từ dọa nạt, nhưng tôi cũng cảm thấy mình đang đứng bên bờ thất bại, bởi vì tôi tin là trong cơn khủng khoảng phát triển của tờ báo, ngài Gabriel Cano không dễ gì từ bỏ các hợp đồng quảng cáo phim chỉ vì thú vui mỹ học đơn thuần. Ngay hôm nhận được bức thư, ông cho triệu tập các con và Ulises đến họp khẩn cấp, và tôi chắc rằng sau cuộc họp, phòng điện ảnh của tôi sẽ chết và bị mai táng ngay. Tuy nhiên, ngay sau cuộc họp, khi đi ngang qua bàn làm việc của tôi, ngài Gabriel, với vẻ láu lỉnh của người ông đã nói với tôi:
- Cứ yên trí, anh bạn trẻ cùng tên nhé.
Ngày hôm sau, trên chuyên mục “Ngày qua ngày”, xuất hiện bài báo trả lời người phát hành phim nọ do chính Guillermo Cano viết theo đúng phong cách hàn lâm và đoạn cuối đã nói lên tất cả: “Sẽ không hề dọa nạt công chúng và lại càng không thể làm ảnh hưởng đến lợi ích của bất cứ ai nếu trên báo đăng một bài phê bình điện ảnh nghiêm túc và có trách nhiệm, giống như người ta vẫn làm ở các nước khác và phá bỏ thói quen cổ hủ và tai hại là khen hết lời cả cái hay lẫn cái dở”. Đó không phải là bức thư duy nhất và bài trả lời độc nhất của chúng tôi. Nhân viên các rạp chiếu phim cũng dùng những lời cay nghiệt nói về chúng tôi và chúng tôi cũng nhận được nhiều thư trái ngược nhau của những độc giả không ghi địa chỉ. Nhưng tất cả đều vô ích: chuyên mục này vẫn sống sót cho đến khi phê bình điện ảnh không còn là một hiện tượng nhất thời trên cả nước mà biến thành một hoạt động thường nhật của báo chí và đài phát thanh.
Kể từ đó, trong không đầy hai năm, tôi đã viết bảy mươi lăm bài phê bình và tốn không biết bao nhiêu thời gian phải ngồi xem phim để lấy ý tưởng. Ngoài ra còn có khoảng sáu trăm bài xã luận, bình luận, cứ ba ngày có một tin ký tên hoặc không ký tên, và tối thiểu tám mươi bài phóng sự có ký tên hoặc không. Cũng từ thời kỳ đó, các sáng tác văn học đều được đăng trên “Tạp chí Chủ nhật”, phụ trương của chính báo này, trong đó có một số truyện ngắn và toàn bộ loạt truyện “La Sierpe” vì nội bộ tạp chí Lámpara có mâu thuẫn.
Đó là thời kỳ hưng thịnh đầu tiên trong đời tôi, tuy vẫn chưa kịp hưởng thụ. Căn hộ có đủ trang bị nội thất và dịch vụ giặt là mà tôi thuê cũng chỉ có phòng ngủ với buồng tắm, điện thoại và bữa điểm tâm tại giường, và một cửa sổ lớn đón cơn mưa phùn vĩnh cửu của thành phố buồn nhất thế giới. Tôi chỉ dùng căn hộ này để ngủ từ ba giờ sáng sau một giờ đọc sách, cho đến khi có bản tin sáng của đài phát thanh để giúp tôi cập nhật thông tin của một ngày mới.
Tôi vẫn chưa hết băn khoăn rằng đây là lần đầu tiên có một nơi cố định và riêng tư để sống nhưng không đủ thời gian thậm chí để nhận biết được việc này. Tôi vẫn quá bận rộn trong chuyện chơi xổ số với cuộc sống mới nên khoản chi tiêu đáng kể nhất cũng chỉ là chiếc thuyền có mái chèo mà cứ cuối tháng tôi vẫn phải gửi về cho gia đình thật đúng hẹn. Chỉ đến hôm nay tôi mới nhận ra rằng mình có quá ít thời gian tự lo cho cuộc sống riêng mình. Có lẽ vẫn tồn tại trong tôi ý nghĩ của những người mẹ vùng biển Caribe rằng các cô gái ở thủ đô Bogota chịu trao thân cho các chàng trai vùng duyên hải mà không cần chút tình yêu nào chẳng qua chỉ vì muốn thực hiện ước mơ được sống trước biển mà thôi. Tuy vậy, ở căn hộ đầu tiên khi sống độc thân ở Bogota, tôi đã đạt được mục tiêu này không một chút mạo hiểm, khi tôi hỏi người gác xem ở khu nhà này có cấm đoán các chuyến thăm của bạn gái lúc nửa đêm hay không. Anh ta đã dành cho tôi một câu trả lời rất thông minh:
- Cấm đấy, thưa ông, nhưng tôi sẽ không nhìn thấy những gì mình không nhất thiết phải nhìn.
Vào cuối tháng Bảy, không hề báo trước, Jose Salgar đứng như trời trồng trước bàn lúc tôi đang viết bài xã luận và nhìn tôi một lúc lâu. Tôi ngừng giữa câu viết và tò mò hỏi ông ấy:
- Có chuyện gì vậy?
Ông ta vẫn không hề chớp mắt, tay cầm bút chì màu đỏ như đang chơi khúc nhạc bolero vô hình nào đó, và với nụ cười quỷ quái không thèm che giấu ý đồ của mình. Tuy tôi không hề hỏi nhưng ông vẫn giải thích tại sao họ đã không cho phép tôi thực hiện thiên phóng sự về vụ tàn sát sinh viên ở đại lộ số Bảy vì đó là một thông tin rất khó xử lý đối với một người mới vào nghề. Ngược lại, lúc này ông lại tự mình chịu mọi rủi ro cho tôi tấm bằng phóng viên, một cách trực tiếp và không hề có ý định thách thức ai, nếu như tôi đủ khả năng chấp nhận một đề nghị có tính sinh tử của ông:
- Tại sao anh không đi Medellín rồi về kể cho chúng tôi nghe chuyện gì đã xảy ra ở đó?
Không dễ hiểu được ông ta, bởi vì ông đang nói với tôi về một việc đã xảy ra cách đây đã hai tuần lễ nên tôi đành phải nghi rằng đây chỉ là một món ăn nguội không hơn không kém. Được biết là sáng ngày 12 tháng Bảy có một vụ lở đất ở La Media Luna, một nơi xa xôi hẻo lánh phía đông của thành phố Medellín, nhưng những vụ xì căng đan báo chí, sự lộn xộn của các nhà chức trách và nỗi hoảng sợ của nạn nhân đã gây nên một sự rối loạn về hành chính, và nhân đạo đã che khuất sự thật. Salgar không yêu cầu tôi tìm mọi cách dựng lại những gì đã xảy ra mà lại ra lệnh cho tôi phải tìm ra bằng được sự thật ngay tại nơi biến cố xảy ra - và không gì ngoài sự thật - trong thời gian ngắn nhất. Tuy nhiên cách nói của ông đã khiến tôi nghĩ rằng: cuối cùng thì ông cũng đã tháo khóa cho tôi.
Cho đến lúc đó, điều duy nhất mà toàn thế giới biết về Medellín chỉ là chính nơi ấy, Carlos Gardel (ca sĩ nổi tiếng người Argentina chuyên hát nhạc tango - ND) đã bị chết cháy trong một vụ tai nạn hàng không. Tôi biết rằng đó là quê hương của nhiều nhà văn và thi sĩ lớn, ở đó có trường Presentación nơi Mercedes Barcha đã bắt đầu vào học trong năm này. Trước một nhiệm vụ thú vị như vậy, tôi hình dung việc xây dựng lại từng phần thảm cảnh chết người hàng loạt từ một ngọn núi thật là phi thực tế. Tôi hạ cánh xuống sân bay ở Medellín vào lúc mười một giờ sáng cùng với một cơn giông đáng sợ đến mức cứ nghĩ mình sẽ là nạn nhân cuối cùng của vụ lở đất.
Tôi để hành lý, gồm quần áo cho hai ngày và chiếc cà vạt dự phòng lại khách sạn Nutibara và lao ra đường phố. Đây là một thành phố điền dã bình yên vẫn còn không khí tang tóc với số nạn nhân của vụ thiên tai. Alvaro Mutis đã đi cùng để giúp tôi vượt qua nỗi sợ hãi trên máy bay và cho tôi địa chỉ những người có vị thế trong sinh hoạt của thành phố. Nhưng đúng là tôi không biết phải bắt đầu từ đâu. Tôi ngẫu hứng đi trên những đường phố rực rỡ dưới những tia nắng dát vàng của cái nắng chói chang sau cơn giông, và lại trải qua một giờ phải trú trong một nhà kho vì trời lại đổ mưa chồng lên cái nắng. Lúc đó, tôi bắt đầu cảm thấy trong lồng ngực mình những nhịp đập sợ hãi đầu tiên. Tôi cố tìm cách nén nó xuống theo công thức kỳ diệu mà ông ngoại đã từng dùng trong chiến đấu, nhưng nỗi sợ này đè lên nỗi sợ khác khiến tinh thần của tôi hoàn toàn sụp đổ. Tôi cảm thấy không bao giờ có thể hoàn thành nhiệm vụ được giao và không có đủ dũng khí để nói lên điều đó. Tôi hiểu rằng khôn ngoan nhất lúc này là viết một bức thư cảm ơn gửi cho Guillermo Cano, và quay lại Barranquilla sống trong tình trạng đáng thương như sáu tháng trước đây.
Với tâm hồn vô cùng khoan khoái như vừa ra khỏi địa ngục, tôi đón taxi trở về khách sạn. Bản tin buổi trưa của đài phát thanh phát bài bình luận dài làm như vụ lở đất mới xảy ra hôm qua. Gã tài xế gần như gào lên trong nỗi tức nghẹn, chửi bới sự tắc trách của chính phủ và sự yếu kém của các lực lượng cứu hộ đối với các nạn nhân, và tôi cũng cảm thấy có lỗi trong nỗi tức giận của anh ta. Lúc này, mưa đã tạnh, bầu trời trong vắt không gian đậm hương thơm của hoa cỏ tỏa ra từ công viên Berrío. Bỗng nhiên, không hiểu vì sao tôi bỗng lên cơn điên.
- Ta làm chuyện này đã - tôi nói với lái xe - trước khi về khách sạn, hãy đưa tôi đến nơi đã xảy ra lở đất.
- Nhưng ở đó có còn gì để xem nữa đâu - anh ta nói với tôi -
Chỉ còn những cây nến thắp sáng và những cây thập giá cho những người chết mà xác không moi lên được.
Tôi nghiệm ra rằng nạn nhân là những người sống sót ở những nơi khác nhau trong thành phố, và chính những người sống đã ào ào kéo cả đến để cứu thi thể của những người đã bị chôn vùi trong lần lở đất đầu tiên. Tấn bi kịch lớn xảy ra khi những người tò mò tràn ngập nơi này và một phần núi khác lại lở tiếp đất đá đổ ập xuống. Như vậy, những người duy nhất có thể kể lại sự kiện này chỉ là số ít người thoát được mấy đợt lở đất liên tiếp và hiện đang sống ở phía bên kia thành phố.
- Tôi hiểu - tôi nói với tài xế, cố kiềm chế giọng nói run run - Anh hãy đưa tôi đến chỗ những người còn sống ấy.
Anh ta quay đầu xe ở giữa phố và lao đi như viên đạn theo hướng ngược lại. Sự im lặng của anh ta không chỉ do tốc độ xe bây giờ mà còn là hy vọng thuyết phục tôi rằng lý lẽ của anh là đúng.
Nguồn tin đầu tiên là hai đứa bé tám và mười một tuổi ra khỏi nhà đi hái củi vào bảy giờ sáng thứ Ba ngày 12 tháng 7. Mới đi được khoảng một trăm mét thì chúng cảm thấy có những mảnh vỡ cỡ lớn của đất, đá từ trên núi lao về phía mình. Chúng chỉ kịp chạy trối chết để trốn thoát. Ở trong nhà, ba đứa em gái cùng mẹ và một đứa em mới sinh đều bị vùi lấp. Những người sống sót duy nhất là hai đứa bé vừa ra khỏi nhà và người bố từ sớm đã đi bán cát cách nhà mười cây số.
Nơi này vốn là vùng đất hoang vu cạnh con đường xa lộ từ Medellín đi Rionegro, mà vào lúc tám giờ sáng không có ai ngoài số nạn nhân trên. Đài phát thanh đã phóng đại tin với bao chi tiết đẫm máu và kêu gọi khẩn thiết nên những người tình nguyện đầu tiên còn đến sớm hơn cả những nhân viên chữa cháy. Vào buổi trưa còn có hai vụ lở đất nữa nhưng không hề có thêm nạn nhân, nhưng lại khiến mọi người thêm hốt hoảng, và đài phát thanh địa phương liền tổ chức buổi truyền thanh trực tiếp ngay tại chỗ xảy ra thảm họa. Lúc này, gần hết cư dân của các làng mạc, thị trấn và khu phố lân cận đã kéo đến đây, thêm những người tò mò khắp nơi trong thành phố cũng đến nghe theo lời kêu gọi của đài phát thanh, và cả những hành khách từ các chuyến xe buýt liên thành phố cũng tràn xuống không phải để hỗ trợ cho việc cứu nạn mà chỉ gây cản trở thêm cho công việc này. Ngoài số thi thể ít ỏi bị chôn vùi hồi sáng lại có thêm ba trăm người bị vùi trong những vụ lở đất tiếp theo sau đó. Tuy nhiên, lúc gần tối, có hơn hai ngàn người đang cuống cuồng thực hiện công việc cứu hộ những người sống sót thì một trận lở sáu trăm ngàn mét khối đất đá ầm ầm lao xuống gây thêm tang thương cho biết bao nạn nhân cứ y như nó xảy ra vào giờ cao điểm ở công viên Berrío của Medellín. Trận thiên tai xảy ra nhanh đến nỗi tiến sĩ Javier Mora, trưởng phòng Công trình công cộng của quận còn thấy trong đống đất đá xác một con thỏ không kịp chạy trốn.
Hai tuần lễ sau, khi tôi đến nơi này người ta chỉ mới phát hiện được bảy mươi bốn xác chết, và còn nhiều người may mắn sống sót. Phần đông trong số họ không chỉ là nạn nhân của vụ lở đất mà còn bị nạn vì sự bất cẩn và sự giúp đỡ lộn xộn không có tổ chức. Cũng như trong các vụ động đất, người ta cũng không thể tính toán được số lượng người nhân dịp này đã chạy thoát cảnh nợ nần hoặc sẽ thay đổi vợ. Nhưng dù sao vận may cũng đến đúng lúc, vì theo một cuộc điều tra sau đó, thì ngay từ ngày đầu, khi mọi người đang nỗ lực tìm cách cứu nạn nhân thì suýt nữa đã xảy ra một vụ sụp lở nữa cỡ năm mươi ngàn mét khối đất đá. Hơn mười lăm ngày sau, với sự giúp đỡ của những người sống sót đã hồi phục sức khỏe, tôi đã có thể dựng lại câu chuyện này mà lúc thảm họa xảy ra người ta không thể làm được vì không tiện nói ra và cũng vì thực tế quá khủng khiếp và đau lòng.
Nhiệm vụ của tôi như vậy chỉ thu hẹp vào việc tìm lại sự thật đã mất trong mớ bòng bong những giả thiết và dựng lại tấn thảm kịch đối với mọi người đúng như trình tự và nằm ngoài mọi tính toán chính trị và tình cảm. Alvaro Mutis đã dẫn tôi đi đường thẳng khi gửi tôi đến gặp bà Cecilia Warren, một người làm công tác xuất bản và bà này đã giúp tôi sắp xếp lại các tư liệu mà tôi thu thập được khi trở lại nơi đã xảy ra thảm họa. Bài phóng sự được đăng thành ba chương và ít nhất nó cũng có công đánh thức, dù đã chậm mất hai tuần, sự quan tâm của mọi người đối với một tin đã bị lãng quên và đặt lại đúng thứ tự của tấn bi kịch.
Tuy vậy, kỷ niệm sâu sắc nhất của tôi về những ngày đó không phải là những gì đã làm mà là việc suýt làm được, nhờ vào trí tưởng tượng mơ màng của người bạn học từ thời ở Barranquilla - Orlando Rivera Figurita, mà tôi vô tình gặp được trong ít phút rảnh rang của công việc điều tra. Anh ta về sống ở Medellín từ mấy tháng nay và mới cưới được cô vợ Sol Santamaría, một nữ tu xinh đẹp và có tinh thần tự do được anh cứu thoát khỏi tu viện sau bảy năm nghèo đói, khổ hạnh và chay tịnh. Trong lúc say rượu, Figurita để lộ cho tôi biết một kế hoạch tuyệt vời do anh và vợ cùng vạch ra để cứu Mercedes Barcha ra khỏi khu nội trú. Một thầy tu, bạn thân của họ, vốn nổi tiếng về nghệ thuật làm lễ đính hôn, sẵn sàng làm lễ cưới cho chúng tôi vào bất cứ giờ nào. Điều kiện duy nhất, tất nhiên, là phải được Mercedes đồng ý, nhưng chúng tôi không tìm cách nào xin được ý kiến của cô lúc này đang bị giam lỏng trong bốn bức tường. Ngày nay, hơn lúc nào hết, sự tức giận lại cắn rứt lòng tôi vì không được cùng bị bắt để cùng sống trong một tấn bi kịch như bao thiên truyện đăng tải trên báo. Về phần mình, Mercedes chỉ được biết kế hoạch đó hơn năm mươi năm sau khi đọc nó trong bản thảo của cuốn sách này.
Đó là một trong những lần cuối cùng mà tôi được gặp Figurita. Trong ngày hội carnaval (vũ hội hóa trang) năm 1960, khi đang hóa trang thành hổ Cuba, anh bị trượt ngã khỏi xe hoa và bị trật mắt cá chân trong đám ngổn ngang rác rưởi của ngày hội và được đưa về nhà ở Baranoa.
Trong đêm thứ hai làm việc ở Medellín về vụ sạt lở đất, có hai biên tập viên của nhật báo El Colombiano - còn trẻ hơn tôi - chờ tôi ở khách sạn với ý định bằng mọi giá phải phỏng vấn tôi về những truyện ngắn đã xuất bản cho đến lúc đó. Họ phải khó nhọc lắm mới thuyết phục được tôi bởi vì từ hồi đó đến giờ tôi đã và vẫn có thành kiến, có lẽ hơi bất công, đối với các cuộc phỏng vấn, được hiểu là một buổi hỏi đáp mà cả hai bên đều cố sức giữ cho bằng được cuộc nói chuyện. Tôi mắc chứng bệnh thành kiến này từ hồi còn làm cho hai tờ báo, nhất là ở Crónica, nơi tôi đã cố làm lây bệnh này sang các cộng tác viên. Nhưng lần này thì tôi chấp nhận trả lời phỏng vấn lần đầu tiên với phóng viên báo El Colombiano, và đó là một sự tự sát chân thành.
Đến hôm nay, trong suốt năm mươi năm và đã có mặt trên nửa thế giới, khi đã là nạn nhân của vô vàn cuộc phỏng vấn, tôi vẫn chưa tự thuyết phục được mình về tính hiệu quả của thể loại này, cả chiều đi và chiều về. Tuyệt đại bộ phận những cuộc phỏng vấn về bất cứ đề tài nào mà tôi không lẩn tránh được có thể coi là một phần quan trọng trong các tác phẩm hư cấu của mình, bởi vì chỉ có vậy: những tưởng tượng phóng túng về cuộc đời tôi. Ngược lại, những cuộc phỏng vấn được tôi coi là vô giá không để xuất bản mà chỉ dùng làm tài liệu cơ bản cho phóng sự, được tôi đánh giá là thể loại tuyệt vời của cái nghề hay nhất thế giới.
Dù sao thì thời gian không phải là những phiên chợ. Chính phủ của tướng Rojas Pinilla, lúc này lại thường xuyên xung đột công khai với báo chí và dư luận công chúng, đã quyết định, từ tháng Chín, tách tỉnh Chocó xa xôi và heo hút bị quên lãng thành ba phần chia cho ba tỉnh láng giềng trù phú: Antioquia, Caldas và Valle. Để đến được tỉnh lỵ Quibdó, chỉ có mỗi con đường độc đạo với điều kiện hạ tầng tồi tệ đến mức để đi hết một trăm sáu mươi cây số phải mất hơn hai mươi tiếng đồng hồ.
Ở tòa soạn báo, chúng tôi xem đây là việc đã rồi, không có cách nào để ngăn cản cuộc xẻ thịt tỉnh lỵ nhỏ nhoi này vì lệnh đã được một chính phủ vốn có điều tiếng với giới báo chí tự do ban hành. Ba ngày sau, Primo Guerrero, phóng viên thường trú lâu năm của El Espectador ở Quibdó thông báo rằng đang có một cuộc biểu tình của quần chúng với đông đảo các gia đình, đầy đủ mọi thành viên kể cả trẻ em, đã chiếm quảng trường chính với quyết tâm ở lại đó dầm sương dãi nắng cho đến khi chính phủ từ bỏ ý định của mình. Những bức ảnh đầu tiên cho thấy rõ hình ảnh những bà mẹ quật khởi bế con trên tay, nét mặt xanh xao sau những ngày không ngủ trơ gan chịu trận ngoài trời. Hàng ngày, cùng với những tin này chúng tôi còn có thêm những bài bình luận hoặc những tuyên bố của các chính khách và trí thức người tỉnh Chocó đang sinh sống ở Bogota, nhưng hình như chính phủ cố giành chiến thắng bằng cách làm ngơ. Nhưng vài ngày sau, Jose Salgar tiến lại gần bàn làm việc của tôi với chiếc bút chì múa tít trên tay và gợi ý tôi đi điều tra xem thực sự việc gì đang xảy ra ở Chocó. Tận dụng cái quyền năng ít ỏi có được sau bài phóng sự về Medellín, tôi cố từ chối, nhưng không đủ trọng lượng. Guillermo Cano, đang ngồi viết quay lưng về phía chúng tôi, liền nói to mà không thèm nhìn lại:
- Đi đi, Gabo. Những gì ở Chocó chắc còn tuyệt hơn những gì mà anh định đi xem ở Haiti đấy!
Thế là tôi đi mà không kịp hỏi làm sao tôi có thể viết được bài phóng sự về một cuộc biểu tình phản đối phi bạo lực. Cùng đi với tôi còn có phóng viên ảnh Guillermo Sanchez, người từ mấy tháng nay cứ quấy rầy tôi bằng điệp khúc rằng: chúng ta phải làm chung một bài phóng sự về chiến tranh. Phát chán vì những lời nói đi nói lại đó, tôi phải thét vào mặt anh ta:
- Cuộc chiến tranh khỉ mốc nào hả?
- Đừng cau có như vậy Gabo! - anh ta đột ngột nói ra sự thật - thì anh chẳng thường nói là đất nước này đang ở trong thời kỳ chiến tranh kể từ ngày Độc lập đến nay, đó sao?
Sáng sớm ngày thứ Ba 21 tháng 9 anh ta có mặt tại tòa soạn ăn vận như một chiến binh chứ không phải là phóng viên ảnh, đeo lủng lẳng khắp người nào máy ảnh và túi nọ bịch kia cứ y như đi đưa tin về một cuộc chiến tranh bị bưng bít. Ngạc nhiên đầu tiên là có thể đi Chocó bằng một sân bay phụ không hề có dịch vụ gì, đang nằm chìm trong những đống xe tải chết dí từ lâu và những chiếc máy bay hoen rỉ. Chiếc máy bay của chúng tôi còn sống được là nhờ phép mầu, nó thuộc chủng loại Catalina huyền thoại từ chiến tranh thế giới lần thứ hai do một công ty vận tải tư nhân điều hành. Không có ghế ngồi, khoang máy bay ngắn và tối thui với những cửa sổ che kín và chất đầy các bao đựng sợi để làm chổi. Chúng tôi là hai hành khách duy nhất. Viên lái phụ mặc áo sơ mi dài tay, trẻ và to lớn như các viên phi công trong phim ảnh, bảo chúng tôi ngồi trên các bao hàng sẽ dễ chịu hơn. Anh ta không nhận ra tôi, nhưng tôi biết anh ta là cầu thủ bóng chày giỏi trong các giải đấu ở Cartagena.
Việc cất cánh của máy bay thật đáng sợ, kể cả với những hành khách thường xuyên như Guillermo Sanchez vì tiếng nổ vang trời của các động cơ và tiếng cót két của những tấm sắt thân máy bay, nhưng khi máy bay đã ổn định độ cao trên bầu trời trong sáng của vùng bình nguyên thì anh ta tỏ ra rất thoải mái như một cựu chiến binh