← Quay lại trang sách

- 16 - Xuân đến, lòng nữ nhi xao động,-Mùa cày, Tây Môn Trâu ra oai.

Mùa xuân năm một ngàn chín trăm sáu sáu chính là những ngày hạnh phúc của chúng ta, phải không Tây Môn Trâu? Những ngày ấy, cái “bùa hộ mệnh” mà bố đưa từ tỉnh về đã phát huy tác dụng, cậu cũng đã trở thành một con trâu đực trưởng thành, cái chuồng bé xíu của nhà tôi đã không thể chứa nổi cái thân hình đồ sộ của cậu. Lúc ấy, trong bầy trâu của công xã đã có mấy con bị thiến, có nhiều người nhắc nhở bố tôi nên xỏ mũi cậu để dễ sai khiến, bố tôi chẳng thèm để ý đến lời họ. Tôi ủng hộ quyết định của bố tôi. Lâu nay tôi vẫn tin rằng quan hệ của chúng ta đã vượt qua quan hệ thông thường giữa nông dân và gia súc. Giữa chúng ta không chỉ đã có sự thấu hiểu, thông cảm mà còn kề vai sát cánh, đồng tâm hiệp lực theo đuổi làm ăn cá thể, chống đối con đường tập thể hóa.

Ba mẫu hai sào đất ruộng nhà tôi bị ruộng công của công xã nhân dân bao vây. Vùng đất này sát bờ sông đào, mỗi năm được phù sa bồi đắp nên tầng đất rất dày, rất phì nhiêu. Với ba mẫu hai sào đất tốt, có được con trâu khỏe như cậu, bố nói, chúng ta cứ đào đất mà ăn. Từ tỉnh trở về, bố mắc chứng mất ngủ trầm trọng. Đêm nào cũng thế, tôi đánh một giấc say sưa, tỉnh dậy vẫn thấy bố ngồi dựa lưng vào tường, xếp bằng tròn trên giường hút thuốc liên tục. Khói thuốc nồng nặc khiến tôi ho sặc sụa và có phần ác cảm. Tôi hỏi:

- Bố! Sao bố chưa đi ngủ?

- Bố ngủ ngay đây, con cứ ngủ đi! Bố đi bỏ cỏ thêm cho trâu đây!

Tôi trở dậy tiểu tiện. Cậu nên biết tôi có bệnh đường niệu. Khi làm lừa, làm trâu, cậu chắc đã nhìn thấy rất nhiều chiếc quần thấm đẫm nước tiểu của tôi được đem ra phơi phóng. Ngô Thu Hương chỉ cần liếc qua những chiếc quần mẹ tôi đem ra phơi là biết cả, ngay lập tức kêu toáng lên:

- Hỗ Trợ, Hợp Tác! Mau mau ra đây mà xem này. Thằng Giải Phóng lại vẽ bản đồ thế giới trên quần của nó đấy!

Hai con bé chạy ngay đến trước chiếc quần của tôi, dùng que củi chỉ vào vết loang của nước tiểu trên quần, bảo nhau: Đây là châu Á, đây là châu Phi, đây là châu Mỹ La tinh, đây là Đại Tây Dương... Nỗi nhục nhã khiến tôi muốn chui xuống đất, vĩnh viễn không quay lại nữa, đồng thời hận mình không có mồi lửa trong tay để đốt quách chiếc quần ô nhục kia đi. Nếu cảnh tượng này mà bị Hồng Thái Nhạc thấy được, chắc chắn ông ta sẽ nói với tôi: Giải Phóng ơi là Giải Phóng! Mày có thể đội cái quần này lên đầu để đi xua quỷ trừ tà, đạn bắn không thủng, mảnh bom găm vào e phải cong vẹo mà thôi...

Thôi, chuyện ô nhục của quá khứ không nên kể nữa, may mắn làm sao là từ ngày theo bố làm ăn cá thể, cái bệnh đái dầm quái ác ấy tự nhiên không uống thuốc mà khỏi. Đây cũng là nguyên nhân quan trọng để tôi ủng hộ làm ăn cá thể, phản đối tập thể... Trăng sáng như gương chiếu rọi vào gian phòng chật chội của chúng tôi khiến tất cả trở nên lấp lánh, ngay cả con chuột đang lọ mọ kiếm ăn trên bếp lò cũng được dát bạc. Tiếng than vãn của mẹ tôi xuyên qua vách, tôi đã biết mẹ thường xuyên mất ngủ vì bà đang rất lo lắng cho tôi, vẫn hi vọng vào viễn cảnh bố dắt tôi vào công xã, cả nhà đoàn tụ, quây quần bên nhau. Nhưng với tính cách ngoan cố bảo thủ như thế, bố làm sao có thể nghe lời mẹ được? Trăng đẹp quá khiến tôi không sao ngủ được, tôi muốn biết con trâu nhà tôi ban đêm thế nào, nó thức cả đêm hay là ngủ như con người? Lúc ngủ nó nằm hay đứng? Nhắm hay mở mắt?... Tôi khoác chiếc áo bông lên người, rón rén bước ra vườn. Tôi nhón gót vì mặt đất quá lạnh. Ngoài vườn, ánh trăng càng rực rỡ, trăng sáng bàng bạc chiếu trên cây hạnh, bóng nó ngả dài mờ mờ trên đất. Tôi nhìn thấy bố cầm sàng đang sàng cỏ. Trong bóng trăng thân hình bố dường như cao lớn hơn bình thường. Ánh trăng chiếu lên sàng và lên đôi tay to bự đang cầm sàng của bố, tiếng lào xào vang lên. Hình như chiếc sàng đang treo lơ lửng giữa không trung và tự động đung đưa, còn đôi tay của bố chỉ là bộ phận nhỏ của chiếc sàng. Cỏ trên sàng được bố đổ vào máng và ngay sau đó tôi nghe tiếng nhai rau ráu của con trâu. Trong bóng tối nhờ nhờ tôi thấy đôi mắt nó sáng long lanh, ngửi thấy cái mùi trâu âm ấm nồng nồng. Tôi nghe bố tôi thì thầm: Tiểu Hắc, Tiểu Hắc! Ngày mai chúng ta bắt đầu ra đồng. Mày cứ ăn cho no, no mới có sức. Ngày mai chúng ta sẽ cày những đường cày thật đẹp để bọn người theo chủ nghĩa xã hội kia xem nhé, để họ thấy Mặt Xanh là một nông dân cừ nhất thiên hạ, con trâu của Mặt Xanh cũng là một “đệ nhất danh ngưu”! Con trâu bỗng ngẩng cao đầu, gục gặc mấy cái tựa hồ như trả lời bố tôi. Bố nói tiếp: Họ bảo ta phải xỏ mũi mày, toàn đánh rắm! Trâu của tao cũng là con tao, hiểu tính người. Tao đối với mày rất tốt, không xem mày là trâu, mà là người. Là người thì việc gì phải xỏ mũi, phải không? Còn có người khuyên tao thiến mày đi, càng thối! Tao nói với họ, các người về mà thiến con trai của mình ấy! Tiểu Hắc, mày nói đi, tao bảo thế có đúng không? Trước mày, tao đã nuôi một con lừa. Tiểu Hắc, đó cũng là một con lừa có một không hai trong thiên hạ, dễ nuôi, hiểu tính người, lại còn rất dũng mãnh. Nếu không phải bọn người luyện gang thép xẻ thịt nó, chắc rằng lúc này nó vẫn còn sống. Nhưng nói đi nói lại, con lừa ấy mà còn thì tao sẽ không có mày. Lúc ở chợ tao đã nhìn đúng mày. Tiểu Hắc, tao khẳng định mày chính là con lừa đen đã đầu thai, chúng ta có duyên phận với nhau, phải không?

Mặt của bố khuất trong bóng tối, tôi không nhìn thấy, chỉ thấy đôi tay to bè đặt lên vành máng cỏ của ông, cũng chỉ nhìn thấy đôi mắt xanh xanh như ngọc thạch của con trâu. Lông của con trâu khi mới mua về có màu hạt dẻ, sau đó thì ngày càng tối dần và bây giờ thì đã đen bóng, do vậy mà bố đã gọi là Tiểu Hắc. Tôi ho lên một tiếng làm bố giật mình, hoảng hốt chạy ra giống như một thằng ăn trộm bị người ta phát hiện bỏ chạy khỏi chuồng trâu.

- Là con à? Sao lại đứng đây? Vào ngủ đi!

- Bố! Tại sao bố lại không ngủ?

Bố ngẩng đầu quan sát các vì sao trên trời, rồi nói:

- Được rồi, bố đi ngủ đây!

Trong cơn mơ màng, hình như bố lại trở dậy và đi đâu đó. Trong lòng đầy nghi hoặc, chờ cho bố ra khỏi nhà, tôi bò dậy đi theo. Ra đến vườn, ánh trăng càng sáng tỏ hơn trước, giống như từng sợi lụa rực rỡ, mát rượi treo lơ lửng giữa không trung đung đưa đung đưa như có thể kéo xuống từng sợi mà quấn quanh mình, đưa lên miệng mà hôn mà ngửi... Tôi nhìn về phía chuồng trâu. Ô! Sao mà nó trở nên rực rỡ và to lớn làm vậy? Không có một chút bóng tối nào cả, phân trâu trên đất trắng muốt như bánh bao, nhưng bố và trâu đều không có ở trong chuồng. Quá đỗi kinh ngạc, tôi đi ra phía cổng, mắt vẫn ngó về phía cái chuồng. Sao chỉ trong chớp mắt mà họ biến đi đâu nhỉ? Không những bố mà con trâu cũng biến mất. Có lẽ nào họ đã biến thành ánh trăng? Cổng đang mở! Tôi hiểu ra rằng bố và trâu đã ra ngoài. Nửa đêm thế này, họ đi đâu?

Con đường yên tĩnh đến rợn ngợp, bờ tường, hàng cây, mặt đất đều nhuộm một màu bạc, ngay cả câu khẩu hiệu màu đen viết bằng đại tự trên tường cũng phủ một màu bạc lóa mắt: “Đả đảo những phần tử đương quyền trong đảng muốn đi theo con đường tư bản chủ nghĩa, tiến hành cuộc vận động ‘tứ thanh’ đến cùng!” Câu đại tự này là do Tây Môn Kim Long viết. Anh ta đúng là một thiên tài, trước đây chưa từng thấy anh ta viết đại tự, nhưng cách đây mấy ngày, anh ta một tay xách thùng mực đen, một tay dùng cây bút to tướng bằng tơ gai thấm đầy mực và viết lên tường. Nét chữ tròn trịa, đều tăm tắp, khỏe khoắn, mỗi chữ to bằng một con dê cái đang có chửa khiến mọi người phải trầm trồ thán phục. Kim Long là người có trình độ nhất của làng, là một thanh niên được dân làng coi trọng, ngay cả một số sinh viên trong đội công tác “tứ thanh” đã kết bạn với anh ta cũng vì do kính nể tài năng. Anh ta đã gia nhập Đoàn thanh niên Cộng sản, nghe đâu còn đã làm đơn xin gia nhập Đảng nữa cơ đấy. Do vậy mà anh ta làm việc gì cũng cố gắng biểu hiện tính tích cực đối với Đảng nhằm tranh thủ cảm tình của cán bộ lãnh đạo.

Trong đội công tác “tứ thanh” có tay Thường Thiên Hồng, vốn là một người rất tài hoa, đang là học sinh ngành âm nhạc của trường nghệ thuật tỉnh. Anh ta đã dạy cho Kim Long những điều cơ bản về nhạc lý của người Tây. Vào những ngày mùa đông năm ấy, hai chàng thanh niên cùng tập hát những bài ca cách mạng. Giọng của họ cao vút, hùng tráng còn hơn cả tiếng lừa kêu. Tiết mục của họ thường mở đầu cho các kỳ đại hội xã viên. Anh chàng họ Thường này hay đến nhà tôi, có lần nhìn kỹ tôi thấy anh ta rất đẹp trai. Mái tóc xoăn rất tự nhiên, mặt trắng hồng, đôi mắt sáng, mồm rộng luôn tươi cười, thân thể cao lớn... không giống tí nào với những thanh niên trong làng. Tôi thường nghe những kẻ đố kỵ trong làng gọi anh ta bằng cái tên “Lừa lớn kêu”, còn Kim Long vì theo anh ta học hát nên cũng bị gán cho cái biệt danh “Lừa nhỏ kêu”. Hai con “Lừa kêu” này tính tình giống hệt nhau, thân thiết như anh em ruột, thiếu điều mặc chung một cái quần!

Cuộc vận động “tứ thanh” trong làng là nhằm kiểm thảo một loạt tất cả cán bộ của thôn. Đội trưởng dân quân kiêm đội trưởng đại đội sản xuất Hoàng Đồng dùng công quỹ vào việc không rõ ràng, bị cách chức. Bí thư chi bộ thôn Hồng Thái Nhạc vì thui một con dê đen của công xã trong ruộng mạ, bị đình chỉ công tác... Nhưng có điều, họ nhanh chóng được phục chức, chỉ có tay thủ kho của đội sản xuất vì ăn trộm thức ăn cho ngựa của công xã là bị cách chức vĩnh viễn. Thực ra nó chỉ là một trò diễn kịch, rất náo nhiệt, chiêng trống vang trời, cờ xí phất phới, biểu ngữ đầy tường; xã viên ban ngày ra đồng, ban đêm họp kiểm thảo. Thằng cá thể bé con tôi nói thực lòng cũng ưa trò vui nên trong những ngày ấy, tôi rất muốn vào công xã, theo đuôi hai chàng “lừa kêu” để xem cả thế giới náo loạn. Những hành vi của hai chàng “lừa kêu” có văn hóa nhất này làm say đắm trái tim của rất nhiều cô gái trẻ, tình yêu nảy mầm. Tôi nhận ra người chị cùng mẹ khác cha của tôi là Tây Môn Bảo Phượng đã chết mê chết mệt anh chàng họ Thường, còn hai chị em sinh đôi Hỗ Trợ và Hợp Tác cùng yêu Kim Long, chẳng có ai để ý đến tôi cả. Có lẽ họ vẫn cho tôi là một đứa miệng còn hôi sữa, họ đâu có biết rằng tình yêu của tôi đã chớm, đâu biết tôi đã để ý Hoàng Hỗ Trợ.

Được rồi, bây giờ tôi trở về với chuyện chính đây! Lúc đi trên đường, tôi chẳng hề thấy bóng dáng của bố tôi và con trâu. Có lẽ nào họ đã bay lên cung trăng? Tôi mơ hồ nhìn thấy bố ngồi trên lưng con trâu, bốn chân trâu đạp mây, đuôi trâu ve vẩy như một chiếc mái chèo to, từ từ bay lên. Đó là do tôi hoang tưởng thôi. Nếu bố tôi muốn cỡi trâu về trời, bố không thể vứt tôi ở lại! Chắc chắn tôi sẽ tìm thấy họ ở giữa mặt đất này. Tôi dừng lại, tập trung tinh thần, mở to mũi đánh hơi. Quả nhiên tôi đã ngửi thấy. Họ ở đâu đây phía đông nam, gần lắm, chắc là ở gần bờ tường đổ. Đó vốn là khoảnh đất trũng mà người trong thôn thường chôn những đứa trẻ chết yểu, lâu ngày được đất bồi đắp trở nên cao ráo bằng phẳng và gần đây đội sản xuất đã biến nó thành nơi trồng ngũ cốc, xung quanh có tường cao khoảng nửa người bao bọc, bên trong tường có rất nhiều trục lăn bằng đá. Trước mắt tôi đang có rất nhiều trẻ con tụ tập nô đùa. Chúng đều ở truồng, chỉ thắt một cái yếm đỏ ngang bụng. Tôi vẫn biết đó chính là tinh linh của những đứa trẻ đã chết. Bọn chúng hễ cứ đến những đêm trăng tròn là hiện ra để vui đùa với nhau, tập hợp thành đội ngũ chỉnh tề nhảy nhót trên những con lăn bằng đá trông thật vui mắt, đáng yêu! Cầm đầu bọn trẻ là một đứa bé trai có cái bím tóc bé tẹo vểnh lên trời, miệng ngậm một cái tiêu bằng sắt sáng lấp lánh, những âm điệu du dương vang lên, những đứa bé vừa nhảy nhót vừa cất tiếng phụ họa theo điệu nhạc. Tôi mê mẩn, thần trí phiêu diêu những muốn nhảy vào nhập bọn với chúng. Chạy nhảy trên những trụ lăn đã chán, bọn chúng trèo lên tường ngồi đều tăm tắp, đôi chân nhỏ bé gập lại dùng gót chân đập đập vào tường và hát:

Mặt Xanh lớn, Mặt Xanh nhỏ,

Hai Mặt Xanh, đều tốt cả.

Hai Mặt Xanh, thóc đầy nhà.

Thóc đầy nhà, ăn thong thả.

Làm cá thể, tốt không hả!?

Tốt!

Lời ca của những đứa trẻ đỏ hỏn này làm tôi thực sự cảm động. Thò tay vào túi áo, tôi lôi ra một nắm đậu đen rang cho bọn chúng. Chúng đưa những bàn tay be bé xinh xinh ra, trên tay chúng đầy những sợi lông vàng vàng. Tôi bỏ vào mỗi bàn tay năm hạt đậu đen. Răng đứa nào cũng trắng, mặt đứa nào cũng sáng, trông thật dễ thương. Tiếng nhai đậu râm ran trên tường, mùi hương đậu thơm lừng dưới ánh trăng.

Tôi nhìn thấy bố và con trâu đang đứng giữa bãi đất tập luyện, còn trên tường thì hình như có thêm rất nhiều đứa trẻ mới xuất hiện nữa, đếm không xuể. Tôi mò vào túi áo, lo lắng rằng bọn chúng tất cả đều kéo đến đòi đậu thì không biết xử trí thế nào. Bố mặc áo khít người, trên vai vắt hai miếng vải màu xanh trông giống lá sen, đầu đội cái mũ giống như cái kèn đồng bằng sắt cao ngất, một bên mặt đỏ hồng tương phản với một bên mặt màu xanh. Bố đứng giữa mảnh đất, gào thét liên tục. Tôi không hiểu những lời gào thét của bố, hình như là bố đang niệm thần chú thì phải, nhưng tôi khẳng định là những đứa trẻ đang ngồi trên đầu tường kia đều hiểu cả. Chúng vỗ tay, dùng gót nện vào tường, huýt sáo inh ỏi, có đứa còn moi đâu được cả mấy cái kèn đồng thổi tu tu, có đứa còn lượm mấy cái trống ếch ở đâu đó đặt giữa hai đùi đánh tum tum. Trong lúc ấy, con trâu nhà tôi được buộc hai dải lụa hồng trên sừng, giữa trán có đính một cái hoa hồng bằng lụa cực to, hai mắt sáng như pha lê, bốn chân như bốn chiếc đèn lồng phi như bay trông thật nhẹ nhàng uyển chuyển. Nó chạy tới đâu thì bọn trẻ ở chỗ ấy lại gõ trống thổi kèn như điên như dại. Một vòng, hai vòng, ba vòng... Tiếng hoan hô cổ vũ như những đợt sóng lúc chìm lúc nổi. Sau vài chục vòng, nó chạy ra giữa đám đất đứng trước mặt bố tôi. Thò tay vào túi áo, bố lấy ra một chiếc bánh đậu đưa vào miệng nó. Đó là phần thưởng. Bố xoa đầu, vỗ mông nó, nói: Hãy xem thành tích diệu kỳ! Rồi bố dùng cái giọng vừa cao vừa trong hơn cả “Lừa lớn kêu” ông hét lớn:

- Hãy xem thành tích diệu kỳ!

... Lam - Ngàn - Năm - Đầu - To dùng đôi mắt nghi hoặc nhìn tôi. Tôi hiểu cậu ta không tin những lời kể của tôi. Sự việc đã quá lâu rồi, chắc cậu ta cũng đã quên, mà có lẽ, những điều tôi trông thấy chỉ là một giấc mộng hư hư ảo ảo mà thôi. Nhưng cho dù là mộng cũng đều có liên quan đến cậu ta, nói khác đi, nếu không có cậu ta thì không thể có giấc mộng ấy...

... Bố quát to lên một tiếng, vung roi quất xuống mặt đất đang lấp lóa ánh trăng, như đang quất vào một mảng pha lê mênh mông, tiếng roi vang lên giòn giã. Trâu dũng mãnh cất hai chân trước, toàn thân đứng sững, chỉ có hai chân sau tiếp đất. Động tác này không khó, mọi con trâu đực đều có thể làm được khi trèo lên lưng trâu cái, khó là ở chỗ, chân trước và thân thể nó như được treo trong không gian, chỉ có hai chân tiếp đất đỡ lấy cái thân hình đồ sộ, từng bước từng bước đi về phía trước. Bước đi của có vẻ vụng về nhưng đủ để làm người ta phải trố mắt ngây người. Tôi chưa hề nghĩ tới việc một con trâu xương thịt nặng nề đến như vậy mà có thể đứng thẳng đi bằng hai chân, cũng chẳng phải đi năm bảy bước mà đi cả một vòng của mảnh đất mênh mông. Đuôi trâu phết trên đất, hai chân trước gập lại ép trước ngực trông giống hai cánh tay. Mảng da bụng lồ lộ, giữa hai chân sau là đôi tinh hoàn trông giống hai quả dưa be bé. Hình như nó đi thẳng bằng hai chân sau là nhằm khoe cái của quý này. Trên đầu tường, những đứa trẻ vui nhộn tự nhiên im bặt, kèn quên thổi, trống quên gõ, đứa nào cũng ngây người há miệng ra mà nhìn. Đến khi con trâu đi xong một vòng, hạ chân xuống, bốn chân đứng yên trên đất thì chúng mới tỉnh trí trở lại, lại tung hô, lại vỗ tay. Tiếng kèn, tiếng trống, tiếng huýt sáo mồm vang động cả một góc trời.

Chuyện xảy ra sau đó càng ly kỳ hơn. Con trâu áp đầu xuống đất rồi dùng sức bật một cái, hai chân sau chổng ngược lên trời. Cách làm này cũng giống như người trồng cây chuối, nhưng độ khó của trâu thì hơn người nhiều lần. Con trâu này chí ít cũng bốn trăm ký mà chỉ dùng mỗi cái cổ để đỡ lấy cái trọng lượng chẳng ít tí nào ấy, có thể nói là không thể. Nhưng con trâu của tôi làm được điều ấy. Xin cho phép tôi lại một lần nữa nhắc lại cái đôi tinh hoàn bằng hai quả dưa bé ấy, nó nằm vắt vẻo trên bụng trâu... trông đến ngon lành...

... Buổi sáng hôm sau là ngày đầu tiên cậu tham gia lao động - đi cày. Chiếc cày gỗ có cái lưỡi cày sáng như gương, là sản phẩm trứ danh của những người thợ rèn An Huy. Đại đội sản xuất của công xã đã bỏ loại cày gỗ này để dùng loại cày sắt hiệu Phong Thu. Gia đình tôi kiên trì theo kiểu sản xuất truyền thống, chẳng quan tâm đến những sản phẩm công nghiệp nồng nặc mùi sơn đến nghẹt mũi ấy. Bố nói, chúng ta làm ăn cần phải phân biệt với đội sản xuất. Cày sắt hiệu Phong Thu được công xã sử dụng, tất nhiên chúng tôi sẽ không dùng. Chúng tôi mặc vải thô, sử dụng công cụ tự chế, thắp đèn dầu lạc, dùng đá đánh lửa.

Cũng ngày ấy, đội sản xuất ra quân với chín chiếc cày, hình như họ muốn cày thi với chúng tôi. Ở bờ phía đông con sông, những chiếc máy cày của nông trường quốc doanh cũng xuất quân cày đất. Hai chiếc máy cày Đông Phương Hồng toàn thân đỏ rực, xa xa trông như hai con quái vật phun khói ngồn ngộn, rú ga điếc tai. Chín chiếc cày của đội sản xuất, mỗi chiếc hai con trâu kéo bắt đầu dàn trận. Những thợ cày đều là những người có kinh nghiệm cầm cày lâu năm, người nào người nấy sắc mặt nghiêm trang. Hình như họ đến đây không phải để cày ruộng mà đang tham gia một buổi lễ long trọng nào đấy.

Hồng Thái Nhạc mặc một bộ lễ phục mới toanh, màu sắc rực rỡ bước ra trước đám thợ cày. Trông ông ta đã già đi rất nhiều, đầu tóc bạc phơ, thịt trên quai hàm chảy trễ xuống. Kim Long đi theo sau lưng ông ta, tay trái ôm quyển sổ, tay phải cầm bút, dáng dấp giống như một phóng viên. Tôi không hiểu là anh ta sẽ ghi chép cái gì, lẽ nào anh ta sẽ ghi lại tất cả những lời Hồng Thái Nhạc nói ra? Hồng Thái Nhạc chẳng qua chỉ là một bí thư chi bộ của một thôn nho nhỏ, cho dù đã có một lịch sử tham gia cách mạng, nhưng những năm ấy hầu hết cán bộ cơ sở ở nông thôn đều như thế, Hồng Thái Nhạc có gì mà ghê gớm nào? Vả lại, ông ta đã từng ăn của tập thể một con dê, trong cao trào “tứ thanh” đã từng bị kiểm thảo, đủ thấy trình độ giác ngộ cách mạng của ông ta cũng tầm thường.

Chẳng vội vàng và rất thành thạo, bố điều chỉnh chiếc cày, xem xét lại những cái chốt và dây nhợ trên mình trâu. Tôi không có việc gì để làm, tôi đến đây cốt xem những chuyện vui. Trong đầu tôi vẫn bị ám ảnh bởi những trò diễn của cậu đêm qua, sáng nay thấy rõ ràng thân hình đồ sộ của cậu trong nắng sớm, tôi càng không hiểu vì sao cậu lại biểu diễn được những trò khó đến như thế. Tôi vẫn chưa hỏi bố về chuyện ấy vì vẫn mong muốn nó là những chuyện có thực chứ không phải là một giấc mơ.

Hai tay đứng chống nạnh, Hồng Thái Nhạc đang huấn thị đội cày, huyên thuyên chuyện cổ kim, từ Kim Môn, Mã Tổ đến chiến tranh Triều Tiên, từ chuyện đấu tranh giai cấp đến cải cách ruộng đất... Tôi chỉ nhớ lời kết luận của ông ta rằng, vụ xuân này là chiến dịch đầu tiên tấn công vào chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa tư bản và những kẻ làm ăn cá thể theo con đường tư bản chủ nghĩa... Đại khái là những lời như thế, tôi lờ mờ nhận thấy ông ta nói sai lung tung, có điều rất dõng dạc và lưu loát khiến cho đám thợ cày đứng ngẩn tò te, ngay cả mấy con trâu cũng đứng trơ như ngỗng ỉa. Tôi nhận ra mẹ của Tiểu Hắc nhà tôi, con trâu Mông Cổ, rất dễ nhận diện nhờ cái đuôi to tướng, dài ngoằng và gấp khúc, có lẽ cũng đã đánh hơi thấy con mình nên thi thoảng lại liếc xéo về phía chúng tôi, mồm kêu “nghé ọ, nghé ọ”. Nghĩ đến đây tôi cảm thấy xấu hổ thay cho cậu. Mùa xuân năm ngoái ở bên bờ sông, lúc tôi và Kim Long đang đánh nhau, cậu thừa cơ trèo lên lưng của con trâu nái Mông Cổ, mẹ cậu. Loạn luân quá! Là đại nghịch, là vô đạo đấy! Nếu là trâu đơn thuần thì không hề gì, nhưng cậu thì khác, kiếp trước cậu đã từng là người cơ mà. Tất nhiên cũng có thể lắm chứ, kiếp trước của con trâu Mông Cổ lại là người tình của cậu thì sao? Nhưng suy cho cùng chính nó đã đẻ ra cậu mà! Sinh tử luân hồi sao mà huyền bí, càng nghĩ tôi càng trở nên hồ đồ mất thôi...

- Ông quên tất cả những chuyện này đi nhé! Lam - Ngàn - Năm có vẻ phiền muộn nói.

- Được rồi, tôi quên cả rồi, tôi kể tiếp chuyện trước mắt đây! Kim Long quỳ chân trái trên đất, cuốn sổ tỳ trên đầu gối phải ghi lấy ghi để những lời Hồng Thái Nhạc thuyết giảng. Theo lệnh Hồng Thái Nhạc: Bắt đầu! Đội thợ cày cầm lấy chiếc roi giắt trên lưng tung lên vun vút, thét vang “Hạ’, “Liệt”, “Hạ”, “Liệt”... Hình như một hồi lâu sau những con trâu mới hiểu ra mệnh lệnh, từ từ khởi động. Những chiếc cày sắt vòng vèo tiến về phía trước, từng luống đất như những đợt sóng được lật lên. Tôi vội vàng giật tay bố, nói thầm:

- Bố ơi! Họ bắt đầu cày rồi! Bố cười nhẹ, nói với cậu:

- Tiểu Hắc! Chúng ta bắt đầu!

Không có roi, chỉ cần một lời nói nhẹ, cậu đã phóng về phía trước, chiếc lưỡi cày cắm sâu xuống đất làm cho cậu khựng lại một tí, bố bảo nhỏ:

- Đừng vội. Từ từ thôi!

Nhưng dường như cậu rất vội vàng, chẳng nghe lời bố. Cậu sải những bước dài, toàn thân rướn về trước, chiếc cày rung lên, những tảng đất to tướng láng bóng lật sang một bên. Thỉnh thoảng bố lay lay chiếc cày để giảm bớt trở lực của đất. Vốn xuất thân là một người cày thuê, kỹ thuật cày của bố rất điêu luyện, nhưng lạ một điều, đây là lần đầu tiên cậu đi cày, tuy mọi cử động còn có vẻ ngượng nghịu, chưa hề biết cách điều tiết sức lực và nhịp thở song cậu đi rất thẳng, mặc dù bố tôi không hề ra lệnh gì. Càng lạ hơn nữa là chiếc cày do một mình cậu kéo lại rất nhanh chóng qua mặt những chiếc cày do hai con trâu kéo của đội sản xuất. Tôi tự hào quá, chạy tới chạy lui, có cảm giác cậu là một chiếc thuyền no gió lướt băng băng, những luống đất vừa bị xới lên phía sau là những đợt sóng lớn. Những thợ cày của công xã đều nhìn chết trân cậu và chiếc cày nhà tôi. Hồng Thái Nhạc và Kim Long sánh vai chạy đến, đứng một bên nhìn bố tôi bằng đôi mắt thù địch. Chờ cho chiếc cày của chúng thôi đến cuối mảnh ruộng, chuẩn bị quay lại thì Hồng Thái Nhạc vọt lên, đứng chặn trước đầu quát lớn:

- Mặt Xanh, đứng lại!

Cậu cứ phăng phăng sải bước tới, đôi mắt như cục than hồng rực sáng. Hồng Thái Nhạc vốn đã biết tính khí của cậu nên rất cảnh giác, nhảy tránh sang một bên, chiếc cày vượt qua, ông ta đành phải lẽo đẽo theo sau lưng bố tôi, gắt gỏng:

- Mặt Xanh! Tao cảnh cáo mày, khi cày của mày đến ranh giới, không cho phép trâu mày dẫm chân lên ruộng của công xã!

Không tỏ thái độ gì, bố nói:

- Chỉ cần trâu của các ông không dẫm lên ruộng của nhà tôi, trâu của tôi nhất định không đạp lên đất của các ông!

Tôi biết Hồng Thái Nhạc cố ý làm khó dễ. Mảnh ruộng dài gần một trăm mét, rộng mười hai mét mốt của chúng tôi nằm lọt thỏm trong ruộng công xã mênh mông bạt ngàn, như một chiếc đinh bé xíu đóng trên bức tường, muốn cày đến mét đất cuối cùng, trâu khó mà không dẫm sang đất bên cạnh. Tương tự, các xã viên muốn cày cho hết đường cày, trâu của họ cũng sẽ phải dẫm sang đất nhà tôi, do vậy mà bố chẳng tỏ ra lo lắng gì. Nhưng không ngờ, Hồng Thái Nhạc lại cười to:

- Chúng tao chẳng thà bỏ mấy phân đất không cày, chẳng thèm dẫm lên mảnh đất bé tẹo của thằng cá thể đâu!

Đất của công xã mênh mông, Hồng Thái Nhạc sẵn sàng bỏ mấy mét ấy chứ! Nhưng chúng tôi thì sao? Có một khoảnh đất cỏn con thế này, sao có thể bỏ được, cho dù là một tấc. Nhưng bố tôi vẫn cứng cỏi:

- Tôi thì không bỏ tí nào, dù là một tấc, một phân, nhưng quyết không để lại một vết chân nhỏ trên đất của các ông đâu!

- Đây là do chính miệng mày tự nói ra đấy nhé!

- Là chính miệng tôi nói!

- Kim Long! Anh hãy theo dõi họ! Hồng Thái Nhạc tự đắc nói: Chỉ cần trâu của họ bước một bước qua đất của công xã thì... Quay sang bố, ông ta hỏi: Mặt Xanh, nếu trâu của ông bước qua đất công xã thì xử lý thế nào đây?

- Chặt chân nó đi! Bố nói bằng cái giọng chém đinh chặt sắt.

Lời bố nói làm tôi hoảng kinh. Đất nhà tôi và đất công xã ranh giới không rõ ràng, không có bờ, chỉ khoảng năm mươi mét mới đóng một cái cọc bằng đá, đừng nói là trâu đang cày ruộng mà người đi bộ có khi còn bước qua là đằng khác.

Nhờ bố tôi dùng cách cày úp, tức bắt đầu từ giữa ruộng và dần dần dàn rộng ra nên lúc đầu không hề xâm phạm đất công xã. Hồng Thái Nhạc bảo Kim Long:

- Kim Long, anh về làng trước đi, chiều quay lại theo dõi chúng!

Lúc trở về nhà nghỉ trưa, một đám đông đang đứng chỉ trỏ ngó nghiêng trước tấm bảng treo trên tường nhà Tây Môn. Tấm bảng rộng ba mét, cao hai mét này là nơi thông báo tin tức của làng Tây Môn. Rõ ràng Kim Long là một tay tài hoa, chỉ có vài giờ đã vẽ được trên đó những hình thù rực rỡ sắc màu. Anh ta dùng phấn vàng, xanh, đỏ vẽ chung quanh bảng nào là những cánh đồng máy cày nhả khói, hoa hướng dương nở rộ, cây cỏ xanh tốt; nào là cảnh những xã viên và những con trâu mặt mày tươi tắn, rực rỡ đang điều khiển cày sắt. Trên hai chiếc trụ đá làm chân bảng, anh ta dùng phấn màu xanh lam và trắng vẽ một con trâu còm nhom và hai người, một lớn một nhỏ gầy gò trông đến thảm hại. Đó chính là bố tôi, tôi và cậu. Giữa bảng có một hàng chữ to tướng: “Người trâu vui mừng rộn vụ xuân” theo kiểu chữ chân, còn bài viết chung quanh được viết theo lối chữ hành, cuối bài có đoạn: “Đối lập với khí thế bừng bừng rung chuyển trời đất của công xã nhân dân và nông trường quốc doanh khi bước vào vụ xuân là gia đình Mặt Xanh vẫn ngoan cố làm ăn cá thể. Họ chỉ có một con trâu với chiếc cày gỗ, trâu rủ đầu, người ngáp thở, đơn đơn độc độc; người như gà bị vặt trụi lông, trâu như chó hoang thất thểu, tình cảnh thảm thương đang đi theo cái ngõ cụt cùng khổ.”

- Bố, xem kìa, họ biến chúng ta thành cái gì vậy?

- Tùy họ thôi, con trai! Bố đang vác cày dắt trâu, nét mặt đầy vẻ bình thản, lạnh lùng: Thằng bé này hay thật, vẽ cái gì ra cái ấy!

Ánh mắt của mọi người đều đổ dồn về phía chúng tôi soi mói, rồi dường như đã thống nhất với nhau từ trước, đồng loạt cười rộ lên. Nhưng sự thật vẫn cứ là sự thật, những lời lẽ ấy làm sao có thể đổi trắng thay đen được, trâu của chúng tôi anh hùng, hai Mặt Xanh lúc nào cũng lóng lánh, chúng tôi làm ăn thuận lợi, trong lòng khoan khoái, đang rất đắc ý đây!

Kim Long đang đứng ở rất xa, chăm chú ngắm nghía bức tranh và theo dõi những nhân vật trong kiệt tác của anh ta. Hoàng Hỗ Trợ đang tựa vào khung cửa, mồm nhâm nhi bím tóc, đôi mắt mơ màng, đắm đuối nhìn Kim Long. Rõ ràng cô ta đã yêu rồi! Bảo Phượng vác một bao thuốc có vẽ chữ thập đỏ to tướng đang đi đến. Chị ấy không những đã học được phương pháp đỡ đẻ mới mà còn học được cả món tiêm chích và chữa bệnh, trở thành nhân viên y tế chuyên trách của thôn. Hoàng Hợp Tác cưỡi xe đạp loạng choạng phóng qua, xem ra cô ta mới biết cưỡi xe đạp, không biết phanh, vừa nhìn thấy Kim Long đang đứng bên bức tường thấp thì la lên oai oái, chiếc xe nhắm đúng Kim Long phóng vù tới. Kim Long lui một bước, thuận tay chộp lấy tay lái, Hoàng Hợp Tác ngã nhào vào lòng anh ta.

Trong khung cửa, Hỗ Trợ quay đầu lại, đôi bím tóc vung vẩy, mặt đỏ phừng chạy vào nhà. Tôi thương cho Hỗ Trợ và cũng hận Hợp Tác vô cùng, trong lòng rất phiền muộn. Hợp Tác cắt tóc ngắn giống như con trai, đây là mốt mới nhất của học sinh trung học thời bấy giờ. Người cắt tóc cho các cô nữ sinh là một thầy giáo tên Mã Lương Tài, có tài huýt sáo mồm rất hay, lại cũng rất giỏi bóng bàn, thường mặc bộ đồng phục màu lam đã giặt cho bạc thếch, đầu tóc cắt trụi lủi, đôi mắt đen rất đẹp, toàn thân nức mùi xà phòng thơm. Anh ta phải lòng Bảo Phượng, cứ ngày nào cũng mang súng hơi đến làng tôi bắn chim. Chỉ cần anh ta đưa súng lên ắt có một con chim rơi xuống. Những con chim hễ nhác thấy bóng anh ta là bay lên trời. Trạm y tế của đội sản xuất đặt ở phía đông nhà Tây Môn, có nghĩa là, cái tay thơm nức mùi xà phòng ấy vừa xuất hiện ở trạm y tế thì lọt ngay vào tầm mắt của mọi người nhà tôi, nếu thoát được nhà tôi thì cũng không thể nào thoát khỏi mọi cặp mắt của người nhà họ Hoàng. Anh ta tìm mọi cách để tiếp cận Bảo Phượng nhưng chị ấy không thích, mỗi lần gặp nhau là cau mày cụp mắt cố gắng để khỏi bộc lộ sự căm ghét, chỉ buông vài câu cho có chuyện làm quà. Tôi biết chị ấy yêu “Lừa lớn kêu”, nhưng anh ta đã biến mất cùng với cao trào “tứ thanh” giống như một con sóc không hình không bóng biến vào rừng. Mẹ tôi biết chuyện yêu đương này chẳng ra đầu ra đũa gì nên thường than thở và khuyên Bảo Phượng:

- Bảo Phượng, tâm sự của con mẹ biết tất. Nhưng liệu có ích gì? Họ là người tỉnh thành, là sinh viên tài mạo song toàn, tiền đồ rực rỡ, làm sao có thể bằng lòng lấy con? Nghe lời mẹ, dứt bỏ đi, không nên trèo cao. Mã Lương Tài là thầy giáo biên chế, ăn lương nhà nước, đứng đắn đàng hoàng, vừa trí thức lại vừa biết chơi đàn, đánh bóng, bắn chim, là người hiếm có. Nó có ý xây dựng với con, con còn do dự nỗi gì? Bằng lòng đi. Con xem, hai chị em nhà họ Hoàng đang thòm thèm đấy. Thịt kề đến miệng mà không ăn, người khác sẽ cướp mất thôi!

Lời mẹ sao mà hợp tình hợp lý, tôi cũng cảm thấy chị ấy và Mã Lương Tài là một đôi vẹn toàn. Anh ta tất nhiên không thể hát vút cao như “Lừa lớn kêu”, nhưng tiếng huýt sáo của anh ta thì tuyệt diệu, nó giống như hàng trăm con chim đua nhau hót, cây súng hơi của anh ta làm cho chim chóc làng Tây Môn ngày càng vắng vẻ... Những cái đó làm sao mà “Lừa lớn kêu” vươn tới được? Nhưng người chị này tính khí ngang ngạnh, rõ ràng là kế thừa từ Tây Môn Náo, nói đi nói lại chỉ một câu:

- Mẹ, chuyện hôn nhân, mẹ để con tự lo liệu.

... Buổi chiều, chúng tôi tiếp tục cày. Kim Long vác một cái thuổng lò dò từng bước phía sau chúng tôi. Cái thuổng sao mà sắc, ánh thép lạnh ngắt, nếu dùng nó mà chặt chân trâu thì chắc chẳng phải phí sức. Tôi cực kỳ căm phẫn cái hành vi phản bội người thân của anh ta nên lâu lâu buông một vài câu châm chọc, đại khái là đồ vong ân bội nghĩa, là con chó của Hồng Thái Nhạc... Anh ta như câm như điếc, mỗi lần tôi cố ý cản trở đường đi là anh ta chụp một hòn đất to tướng như muốn bổ đầu tôi ra. Tôi cũng chẳng vừa, chụp lấy một hòn bự sẵn sàng nghênh chiến. Hình như sau gáy bố có mắt, mỗi lần như thế đều bị bố quát to:

- Giải Phóng, mày định làm gì thế?

- Con muốn dạy cho thằng súc sinh này một bài học làm người! Tôi nói, giọng đầy oán hận.

- Câm mồm! Nếu không tao đánh cho mềm mông bây giờ. Nó là anh mày, nó chấp hành mệnh lệnh cấp trên. Đừng cản trở nó thi hành công vụ!

Những con trâu của công xã chỉ đi được hai ba đường cày là đã thở phì phò, đặc biệt là con trâu Mông Cổ. Đứng xa cũng có thể nghe được tiếng khò khè trong cổ họng của nó giống như gà mái học gáy vậy. Tôi sực nhớ mấy năm trước, thằng bé bán trâu đã nói cho tôi biết nó là loài “nhiệt miết tử”, không thể làm việc nặng, không thể lao động trong mùa hè, bây giờ mới thấy nó nói quả không sai tí nào. Con trâu này không chỉ thở hơi gấp, đứt đoạn, mà còn sùi đầy bọt mép, trông thấy mà kinh. Cuối cùng nó ngã đùng ra đất, mắt trợn ngược, hình như nó đã chết. Tất cả trâu của công xã đều đứng lại, những người thợ cày vây quanh lấy nó bàn luận huyên náo. Một người nói, thì ra nó là “nhiệt miết tử”, có người nói nên mời bác sỹ thú y, có người cười nhạt nói rằng bác sỹ thú y cũng chẳng có cách cứu nổi nó.

Đến cuối đường cày, bố bảo cậu dừng lại, nói với Kim Long:

- Kim Long, anh không cần phải đi theo. Tôi đã nói là không bao giờ để lại một dấu chân trên ruộng công xã, anh đi theo làm gì cho mệt.

Anh ta khịt khịt mũi, chẳng thèm để ý gì đến lời bố. Bố nói tiếp:

- Trâu của ta không đạp lên ruộng công xã, theo lẽ đó, người và trâu của công xã không thể đạp lên đất của ta. Nhưng anh cứ đi trên đất của ta, ngay lúc này anh đang đứng trên đất của ta đó!

Kim Long giật mình, rồi giống như một con chuột túi, nhảy lên con đường cạnh bờ đê. Bằng một giọng độc ác, tôi la to:

- Theo thỏa thuận, anh hãy tự chặt đôi chân của mình đi!

Mặt Kim Long đỏ nhừ, không nói được câu nào. Bố nói:

- Kim Long, đối xử với nhau có trách nhiệm một tí, được không? Anh muốn tiến bộ, bố không thể cản trở, không những không cản trở mà còn khuyến khích. Bố đẻ anh tuy là địa chủ, nhưng ông ấy là ân nhân của ta, bố phê đấu ông ta chẳng qua là do tình thế bắt buộc, phải làm cho mọi người thấy, tình cảm dành cho ông bố chôn chặt trong lòng. Bố từ xưa tới nay xem anh như con ruột, anh theo đuổi tương lai của riêng mình, bố không hề cản trở. Bố chỉ hi vọng anh đối xử với nhau cho có tình, chớ để lòng mình biến thành một thỏi sắt lạnh tanh như thế!

- Tôi rõ ràng có dẫm lên đất của ông - Giọng Kim Long lạnh ngắt - Ông có thể chặt đôi chân của tôi. Anh ném cái thuổng về phía chúng tôi, đầu thuổng cắm phập xuống đất giữa tôi và bố, nói tiếp: Chặt hay không là việc của các người, nhưng nếu trâu của các người, kể cả các người dẫm lên đất của công xã, cho dù là vô tình hay cố ý, tôi không hề khách sáo đâu!

Tôi nhìn khuôn mặt và đôi mắt như hai đốm lửa xanh lè muốn vọt ra khỏi hốc mắt của anh ta. Đột nhiên tôi thấy sợ hãi, toàn thân nổi da gà. Người anh cùng mẹ khác cha này quả nhiên khác người, tôi biết anh ta nói là làm. Chỉ cần chân chúng tôi vượt qua giới tuyến, chắc anh ta chặt chân chúng tôi chẳng chút nương tay. Đáng tiếc là anh ta sinh trong thời bình, nếu sinh sớm khoảng mươi năm, vô luận tham gia vào lực lượng nào đều có thể trở thành anh hùng, nếu anh ta là thổ phỉ chắc chắn anh ta sẽ là một tay sát nhân cuồng bạo. Nhưng đây là thời bình, sự quả cảm đến tàn bạo, mặt sắt vô tư của anh ta chắc không có đất để dụng võ đâu.

Bố cũng có vẻ sợ, liếc nhìn anh ta một cái rồi quay mặt đi, nhìn cái thuổng đang cắm rất thẳng trên mặt đất, nói:

- Kim Long, ta nói quá nhiều những lời vô ích, anh đừng để ý. Để cho anh yên tâm và là vì một chút sĩ diện của ta, ta sẽ bắt đầu cày từ bên ngoài cho anh xem. Nếu cần phải chặt chân chúng ta, anh cứ chặt ngay, đừng để tốn thời gian của anh vô ích.

Rồi bố đến cạnh bên cậu, sờ tai vỗ đầu, hạ giọng nói:

- Tiểu Hắc, nhớ nhé! Mày cần phải nhìn kỹ cái trụ kia, đi thẳng, nửa bước cũng không được xâm phạm nhé!

Bố điều chỉnh chiếc cày, nhắm thẳng địa giới, quát lên một tiếng “đi”. Cậu đi phăm phăm, Kim Long nhổ chiếc thuổng lên, đôi mắt trừng trừng nhìn theo bốn chân cậu. Dường như cậu chẳng thèm để ý gì đến đại họa đang ẩn nấp sau lưng, cứ sải những bước thật dài, nhẹ nhàng, nhịp nhàng toàn thân. Thân thể cậu ổn định đến độ có thể đặt trên lưng một bát đầy nước mà không hề rơi ra ngoài. Bố nắm lấy đuôi cày, đôi chân đạp lên những tảng đất vừa mới lật, đường cày thẳng băng. Tất cả đều dựa vào cậu. Trâu có đôi mắt nằm ở hai bên, làm sao giữ được phương hướng thẳng tắp, điều đó tôi không thể lý giải. Tôi chỉ thấy những luống cày của nhà tôi tương phản rất rõ ràng với đường cày của công xã. Những cột đá đánh mốc nằm trên đường cày, mỗi lần đến đó, cậu đi chậm lại để bố tôi có thời gian nhấc cày lên. Bốn chân của cậu đạp trên đường biên suốt cả một vòng mà không hề lệch qua đất công xã lấy một tấc. A! Cậu không cho Kim Long lấy một cơ hội hạ thủ rồi! Bố thở hắt một hơi dài, nói với Kim Long:

- Bây giờ anh có thể yên tâm mà về chưa?

Anh ta bỏ đi, trước khi bỏ đi còn đưa đôi mắt luyến tiếc nhìn bốn chiếc chân đẹp của con trâu một lần nữa. Tôi biết anh ta tiếc nuối và không có cơ hội chặt bốn chiếc chân tuyệt đẹp ấy. Chiếc thuổng sáng lấp lánh sau lưng anh ta là ấn tượng mà suốt đời tôi không thể nào quên.