- 17 - Nhạn lạc trâu điên người vong mạng,-Cuồng ngôn cuồng ngữ viết văn chương.
Những việc diễn ra sau đó tôi nhường cho cậu kể nhé, được không? Tôi nhìn Lam - Ngàn - Năm thăm dò. Nó nheo nheo mắt như nhìn tôi, nhưng tôi biết nó chẳng nhìn thấy tôi, cũng chẳng để ý những lời tôi nói. Lấy một điếu thuốc từ bao thuốc của tôi, nó đưa lên mũi ngửi ngửi, dẩu môi lên song chẳng nói gì, hình như đang lo nghĩ một vấn đề gì đó rất quan trọng. Tôi nói, cậu còn bé như thế mà đã nhiễm phải thói hư, mới năm tuổi mà đã biết hút thuốc lá, e rằng đến năm mười tuổi cậu sẽ hút thuốc súng mất thôi! Cũng chẳng thèm để ý đến lời tôi, đầu vẹo sang một bên, đôi vành tai rung rung, nó như đang chú tâm nghe một cái gì đó. Tôi nói tiếp, thôi không cần phải kể nữa, những chuyện ấy chúng ta đều tự thân chứng kiến, trải nghiệm, chẳng còn gì phải kể nữa. Lúc này nó mới mở miệng: Không, ông đã bắt đầu thì phải kể đến kết cục. Tôi nói, chẳng biết bắt đầu từ đâu. Nó đảo đôi mắt trắng dã, nói:
- Đến đoạn vui nhất, náo nhiệt nhất, đi chợ phiên!
... Mỗi lần đến chợ phiên là tôi vui, bởi ở đó có nhiều trò hấp dẫn trẻ con.
Lần ấy, tôi bắt gặp một người có quan hệ thân thiết với bố là huyện trưởng Trần đang bị dắt đi trên đường để thị chúng. Đầu ông ta trọc lóc, sau này trong hồi ký của mình, ông ta kể rằng sở dĩ ông ta phải cạo trọc là nhằm tránh những cú nắm tóc lôi của Hồng vệ binh. Lúc này, bên hông ông ta đang đeo một con lừa bằng giấy dán, vừa chạy vừa múa trên đường, khuôn mặt tươi cười nhưng trông có vẻ dài dại rất giống với cảnh hóa trang những nghệ nhân dân gian trong dịp xuân. Trong thời gian phong trào luyện gang thép sôi nổi, ông ta đã từng cưỡi con lừa nhà tôi đi khắp nơi để thị sát, cho nên có người ác miệng đặt cho một biệt danh là “huyện trưởng lừa”. Lúc đại cách mạng văn hóa bắt đầu, để tăng thêm tính hài hước vui vẻ trong việc công kích những người có chủ trương đi theo chủ nghĩa tư bản, đồng thời cũng nhằm lôi kéo sự chú ý của quần chúng, Hồng vệ binh bắt ông ta phải cưỡi con lừa bằng giấy. Rất nhiều cán bộ đảng viên lão thành trong hồi ký của mình khi viết về cách mạng văn hóa đều xem đó là thời kỳ mà đất nước Trung Quốc như một địa ngục trần gian, còn đáng sợ hơn cả những trại tập trung của phát xít Đức, riêng ông huyện trưởng này lại dùng một giọng văn buồn buồn nhưng hết sức sinh động kể về những điều ông đã gặp phải khi cách mạng văn hóa mới bắt đầu. Ông kể rằng, ông cưỡi trên con lừa giấy, bị điệu qua mười tám cái chợ phiên trong toàn huyện, kết quả là sức khỏe của ông tốt hẳn ra, chứng cao huyết áp và mất ngủ của ông bị mất hẳn. Ông còn nói, mỗi khi nghe tiếng chiêng trống là tự nhiên thấy hưng phấn, chân tay cứ run lên như con lừa đen ngày trước nghếch mũi dậm chân mỗi khi gặp được lừa cái. Kết hợp giữa những điều mà tôi tận mắt chứng kiến ở phiên chợ dạo nọ và những trang hồi ký ấy, tôi mới hiểu vì sao mà khuôn mặt ông ta lúc ấy trắng bệch, cười điên điên dại dại như thế! Ông ta còn kể rằng, lúc ta vừa nghe tiếng chiêng trống, vừa leo lên con lừa giấy là cảm thấy mình biến thành con lừa đen của hộ cá thể Mặt Xanh duy nhất trong toàn huyện, tâm trí bỗng nhiên trôi nổi bồng bềnh giữa thực tại và ảo giác, cảm thấy hai chân mình hóa thành bốn chân, sau mông mọc ra cái đuôi, đầu người và đầu con lừa giấy biến thành một giống như những vị thần nửa người nửa ngựa trong thần thoại Hy Lạp. Trong mơ hồ ông ta nhận ra những nỗi thống khổ và khoái lạc của kiếp lừa.
Trong Cách mạng Văn hóa, chợ phiên chẳng có hàng hóa gì để trao đổi mua bán nhưng người vẫn chen vai thích cánh, chủ yếu là để xem trò vui. Đã bắt đầu mùa đông, mọi người đều mặc áo bông, cũng có một số thanh niên đang cố làm đẹp nên vẫn mặc áo cánh, ai ai cũng gắn lên một phù hiệu màu đỏ. Những Hồng vệ binh trẻ tuổi mặc áo mỏng màu vàng hoặc xanh lam, vai đeo phù hiệu đỏ rất oai phong, nhưng những người già mặc áo đen bẩn thỉu, rách nát mà đeo thêm cái phù hiệu màu đỏ thì trông chẳng ra làm sao. Một bà già bán gà, xách ngược một con gà trên tay đang đứng ở chỗ hợp tác xã mua bán, trên vai cũng đeo một cái phù hiệu ấy. Có người hỏi bà ta có phải là đã gia nhập Hồng vệ binh, bà già cong môi nói, đây là thời kỳ tất cả đều đỏ, có ai mà không vào? Thế bà thuộc phái nào, là phái “Giếng đồi núi” hay phái “Khỉ vàng phấn khởi”? Cút mẹ nhà ông đi, đừng nói với bà đây những lời nhảm nhí. Có mua gà thì mua, không mua thì cuốn xéo!
Những chiếc xe tuyên truyền đã đến. Đó là hai chiếc xe vận tải cỡ lớn do Liên Xô chế tạo, vốn là đồ phế thải từ cuộc chiến tranh Triều Tiên, đã từng xông pha bão táp phong ba nên cái màu sơn xanh lục đã trở nên xám xịt, loang lổ. Trước đầu xe đã được hàn một cái giá bằng sắt, trên đó gắn bốn chiếc loa phóng thanh công suất cỡ lớn, phía đuôi xe gắn cố định một máy phát điện chạy dầu, hai bên thùng xe là hai hàng Hồng vệ binh mặc đồ phỏng theo kiểu quân trang. Tất cả như nhau, một tay bám vào thành xe, một tay đỡ cuốn “Mao Chủ tịch ngữ lục”. Mặt ai cũng đỏ ửng, có lẽ vì lạnh, nhưng cũng có lẽ vì do khí thế cách mạng thiêu đốt, trong số đó có một người đàn bà, mắt hơi lé nhưng miệng cười rất tươi. Những cái loa gầm lên những tiếng trời long đất lở làm cho một chị nông dân thất kinh mà sẩy thai, một con lợn cũng do hoảng sợ mà chạy cuống cuồng đâm đầu vào tường bất tỉnh. Những con gà lâu nay chỉ biết nấp trong ổ để đẻ trứng, nghe những tiếng động ầm ầm cũng đập cánh muốn bay, chó sủa vang trời vang đất. Bài hát “Đông phương hồng” được mở to hết cỡ rồi im bặt, một giọng nữ rất cao và trong cất lên. Tôi trèo lên một cây cổ thụ nhìn thấy rất rõ ở giữa thùng xe có một cái bàn và hai chiếc ghế, trên bàn đặt một cái máy và một chiếc micro dùng vải đỏ bọc lại. Cô gái tóc tết bím ngồi ngay ngắn chễm chệ trên chiếc ghế, còn có một tay thanh niên cắt tóc ngắn ngồi bên cạnh. Cô gái thì tôi không quen nhưng tay thanh niên thì đã từng tham gia vào cao trào “tứ thanh” ở làng tôi, chính là “Lừa lớn kêu” Tiểu Thường! Sau này tôi mới biết anh ta đã được điều động về đội kịch của huyện. Từ trên cây, tôi hét to: Tiểu Thường, Tiểu Thường, Lừa Kêu Lớn! Nhưng tiếng kêu của tôi đã bị tiếng loa lấn át.
Cô gái cầm micro lên và bắt đầu nói, tiếng nói được khuếch đại đến đinh tai nhức óc, cả vùng Đông Bắc Cao Mật đều nghe thấy những lời này: “Trần Quang Đệ là kẻ đi theo con đường tư bản. Hắn là con lừa đã chui vào hàng ngũ của Đảng, chống đối công cuộc đại nhảy vọt, kết huynh đệ với tên cá thể Mặt Xanh ở Đông Bắc Cao Mật đi theo con đường tư bản chủ nghĩa, là chiếc dù bảo hộ cho kẻ làm ăn cá thể. Không chỉ phản động về tư tưởng mà còn đồi bại về đạo đức, Trần Quang Đệ đã nhiều lần thông dâm với một con lừa cái khiến nó có chửa, sinh ra một quái thai đầu người thân lừa!”
Quá hay! Đám người ở dưới bùng lên những tiếng hoan hô vang trời. Những Hồng vệ binh ở trên xe dưới sự chỉ huy của “Lừa lớn kêu” đồng loạt hô to khẩu hiệu:
- Đả đảo huyện trưởng đầu lừa Trần Quang Đệ! Đả đảo tội phạm đ. lừa Trần Quang Đệ! Đả... đảo...!
Tiếng hét của “Lừa lớn kêu” và của đám Hồng vệ binh được cái loa công suất cỡ lớn khuếch đại bay lên trời, vang vọng và gây ra một tai nạn âm thanh. Một bầy nhạn đang bay lưng chừng trời bỗng nhiên xếp cánh và rơi xuống như những hòn đá, đúng vào giữa đám đông. Thịt nhạn rất ngon, lại nhiều dinh dưỡng, là món ăn quý, trong thời kỳ khan hiếm và thiếu thốn thức ăn thế này mà chúng bỗng từ trên trời rơi xuống là sự ban phát của trời đất. Thực ra đó chính là mầm họa. Những người trong chợ như điên cuồng chen chúc xô đẩy nhau, la hét ỏm tỏi trông còn đáng sợ hơn bầy chó đói giành mồi. Người lượm được nhạn chưa kịp mừng thì con nhạn trong tay anh ta đã bị vô số những bàn tay khác tóm lấy. Lông nhạn bay lả tả, cánh nhạn bị xé tươm, thân nhạn về tay một người, cổ và đầu nhạn lại bị một kẻ khác cướp đi, máu tươi tung tóe. Có người còn không kể hiểm nguy đè vào vai người đứng trước bay vọt lên không trung để chụp, trông giống như động tác của loài chó săn, có người ngã quay lơ ra đất bị đạp đến bẹp dí, có người lòi bụng, người thì khóc vang trời: Mẹ ơi! Bố ơi! Cứu tôi với!!!... Toàn bộ người trong chợ tự động dồn thành mấy nhóm, cấu xé ngả nghiêng, tiếng kêu rên hò hét vang động đến trời cao hòa lẫn với tiếng gầm gừ như hổ rống từ chiếc loa phóng thanh... Tội nghiệp cho cái đầu của tôi! Từ hỗn loạn biến thành hỗn chiến, từ chửi bới trở thành thượng cẳng chân hạ cẳng tay. Con số thống kê chính xác là có mười bảy người chết còn bị thương thì không thể đếm xuể...
Có những người chết được người thân khiêng về, cũng có người được kéo đến lò mổ để đợi người nhà đến lĩnh xác, có người bị thương được thân thích đưa vào bệnh viện hoặc đưa về nhà, có người bò lê la trên đất, có người khập khiễng chân thấp chân cao lê lết trên đường để tìm về nơi cần phải về, có người chổng mông tại chỗ kêu khóc. Đây là đợt chết tập thể đầu tiên của huyện Đông Bắc Cao Mật trong đại cách mạng văn hóa, sau đó tuy có những đợt chết chính đáng nằm trong kế hoạch chặt chẽ, đá bay ngói liệng đầy trời, đao thương gậy gộc như mưa, nhưng số người chết vẫn không bằng so với lần này.
Tôi trèo lên cây nên rất an toàn, từ trên cao nhìn xuống chứng kiến toàn bộ diễn tiến của sự kiện này, nhớ rất rõ đến mỗi tình tiết nhỏ. Tôi chứng kiến tận mắt những con nhạn vì sao lại rơi và bị cấu xé dã man như thế nào, cũng thấy tận mắt những biểu hiện của sự bần cùng, điên cuồng, sững sờ, hoảng sợ, khổ sở... của con người; cũng nghe thấy những tiếng rên la của những người bị thương và tiếng cười đắc ý của kẻ thắng cuộc; cũng ngửi thấy mùi máu tanh tưởi, mùi thối của phân... Tôi liên tưởng đến những cuộc chiến tranh trong truyền thuyết. Cho dù sau Cách mạng Văn hóa, người ta giải thích trong “Địa chí huyện” rằng, những con nhạn bị rơi là do mắc phải một chứng bệnh của loài chim di cư, nhưng tôi vẫn cứ khẳng định chúng rơi là do tiếng loa phóng thanh làm cho chấn động mà chết.
Đoàn diễu hành tiếp tục. Sau cuộc náo loạn, mọi người trở nên trật tự hơn, dạt qua hai bên để làm thành một lối đi giữa chợ, trên lối đi ấy vẫn còn rất nhiều máu và thi thể nát bấy của những con nhạn. Gió thổi tung những chiếc lông nhạn, mùi tanh tưởi thoang thoảng. Bà già bán gà dùng cái phù hiệu đỏ lau nước mắt chảy ròng ròng trên mặt đang lảo đảo trên lối đi, mồm lảm nhảm: Ôi gà của tôi, gà của tôi... Đồ cường đạo các người, hãy trả gà cho tôi...
Hai chiếc xe tải dừng lại ở giữa khoảng trống giữa chợ gia súc và chợ đồ gỗ, rất nhiều Hồng vệ binh xuống xe, dáng điệu mệt mỏi ngồi la liệt trên một khúc gỗ tùng. Ông Tống, người phục vụ có cái mặt rỗ ở bếp ăn tập thể của công xã khệ nệ gánh tới hai thùng chè đậu xanh bồi dưỡng cho những Hồng vệ binh ở tỉnh về. Hai thùng chè bốc khói nghi ngút, mùi thơm của đậu xanh bay lên sực mũi.
Ông Tống bê một bát chè đến trước chiếc xe, đưa lên cao hơn đầu mà mời tư lệnh “Lừa lớn kêu” và cô Hồng vệ binh làm phát thanh viên ở trên xe. Hình như tư lệnh chẳng quan tâm đến ông ta, lửa giận bừng bừng hét:
- Giải bọn phản động xấu xa đầu trâu mặt ngựa ra đây!
Ngay lập tức, một đám người, dẫn đầu là huyện trưởng lừa Trần Quang Đệ múa may quay cuồng từ sân của trụ sở công xã đi ra. Trước đây tôi đã kể, thân hình của huyện trưởng lừa cùng với con lừa giấy nhập lại làm một, lúc mới xuất hiện, ông ta vẫn mang đầu người, nhưng sau một hồi múa may thì tự nhiên biến đổi hẳn, giống như những trò ảo thuật mà tôi vẫn thường thấy trong phim và trên ti vi. Đôi tai của ông ấy từ từ to lên, dựng đứng như những chiếc lá vàng nhiệt đới từ những thân cây vươn thẳng lên, như những con bướm thoát khỏi kiếp nhộng bay vù lên trời, lóng lánh một màu xám cao quý, phụ họa vào đó là những sợi lông tơ mịn màng, nếu dùng tay mà vuốt chắc sẽ êm như nhung. Rồi khuôn mặt ông ta từ từ dài ra, đôi mắt phình to chuyển dần về hai bên mặt, sống mũi cũng to lên và chuyển sang màu trắng, những sợi lông ngắn trắng trắng rậm rịt. Hai hàng răng to và trắng vốn được đôi môi dày che khuất, nhưng khi nhìn thấy đám Hồng vệ binh đeo phù hiệu đỏ thì ngay lập tức môi trên được kéo căng, đôi hàm răng trắng nhe ra trông gớm chết. Đã từng nuôi lừa đực nên tôi rất hiểu tính tình loài lừa, mỗi khi nó nhe răng là nhất định có ý định nổi loạn, sau đó sẽ thò cái của quý vốn cất giấu rất kỹ ở dưới bụng ra. Nhưng may mắn thay, huyện trưởng Trần là người tốt, biết kiềm chế, cho dù đã biến một nửa thành lừa nhưng tính người vẫn còn, do vậy cho dù nhe răng nhưng cái ấy vẫn nằm im dưới bụng. Đi sau ông ta là Phạm Đồng, nguyên là thư ký của công xã. Đúng là anh ta đã từng làm thư ký cho huyện trưởng Trần, là tay cực kỳ khoái món thịt lừa, đặc biệt là của quý của lừa nên bọn Hồng vệ binh cho anh ta mang một đoạn củ của cây tử đằng trắng, loại cây cực nhiều ở Cao Mật, đầu cây dùng dao gọt cho tròn lại, lấy sơn đen bôi lên. Sức tưởng tượng của quần chúng thật phong phú, đáng nể, ai ai cũng biết khúc cây tử đằng ấy tượng trưng cho cái gì. Dáng đi của anh ta thật khổ sở, vì quá mập nên di chuyển rất chậm, bước chân xiêu vẹo không đúng nhịp với tiếng trống làm cho đội hình trở nên rối loạn. Những Hồng vệ binh cầm dây thừng làm roi quất vào mông anh ta, đánh một cái anh ta nhảy lên một cái, vừa nhảy vừa khóc. Chúng lại quất lên đầu, anh ta hoảng hốt đưa cái vật đang cầm trên tay ra đỡ. Bị roi đánh trúng, nó đứt làm hai đoạn, lộ rõ nguyên hình là một khúc củ tử đằng đầy nhựa, quần chúng được một phen cười vỡ bụng. Bọn Hồng vệ binh không nén nổi cũng phải cười rộ lên, lôi anh ta ra khỏi hàng đem đến chỗ hai cô nữ Hồng vệ binh, bắt anh ta ăn hết hai đoạn củ tử đằng. Phạm Đồng nói trong đó có sơn đen, rất độc, không thể ăn. Hai cô Hồng vệ binh mặt đỏ phừng phừng như bị làm nhục, hét: Mày là đồ lưu manh, đồ thối tha! Dùng tay đánh làm gì, dùng chân đá cho khỏe. Và thế là hai cô thay nhau đá Phạm Đồng. Anh ta nằm lăn trên đất, la to: Các nữ tướng, đừng đá nữa, tôi ăn, tôi ăn ngay đây!... Rồi chộp lấy củ tử đằng, cắn một miếng rõ to. Ăn nhanh lên! Lại thêm miếng nữa, quai hàm há rõ to không thể nhai nổi thì làm sao mà nuốt, đôi mắt trợn tráo.
Dưới sự dẫn dắt của huyện trưởng lừa, đám người đầu trâu mặt ngựa ấy đều mặc sức biểu diễn sở trường của mình khiến quần chúng được một bữa no mắt. Những kiểu gõ trống đánh chiêng đều đạt đến trình độ chuyên nghiệp, đừng kể là đội văn nghệ thôn mà ngay cả đoàn kịch của huyện chưa chắc đã có thể so sánh.
Đội diễu hành của làng Tây Môn xuất hiện ở phía đông chợ. Người mang trống tên là Tôn Long, đánh trống là Tôn Hổ, đánh chiêng là Tôn Báo, gõ sênh là Tôn Bưu. Bốn anh em họ Tôn là hậu duệ của bần nông. Phía trước họ là những kẻ xấu của làng Tây Môn đi theo con đường tư hữu. Hồng Thái Nhạc có thể tránh được “tứ thanh” nhưng không thể thoát khỏi Cách mạng Văn hóa. Đầu ông ta đội cái mũ giấy cao ngất ngưởng, sau lưng dán một trang giấy có chữ viết rất to theo lối Tống thể, nét bút rất cứng cáp, thoạt nhìn cũng biết đó là bút tích của Tây Môn Kim Long. Trong tay Hồng Thái Nhạc còn cầm mảnh xương trâu có giắt những cái vòng bằng đồng khiến tôi hồi tưởng đến quá khứ vinh quang của ông ta. Cái mũ giấy hình như không vừa với cái đầu nghiêng qua ngả lại nên phải luôn luôn sửa cho ngay thẳng. Có lúc, ông ta chưa kịp sửa mũ thì ngay lập tức đã bị một thanh niên mày rậm mũi cao dùng đầu gốc húc vào mông đít. Đó chính là Tây Môn Kim Long, tên công khai vẫn là Lam Kim Long. Anh ta rất khôn ngoan không đổi họ, bởi nếu đổi họ thì sẽ tự khai cái thành phần địa chủ ác bá của mình, ngay lập tức sẽ trở thành kẻ bị người khác hành hạ. Bố tôi tuy làm ăn cá thể, song thành phần cố nông không hề mất. Cố nông! Trong thời đại này, đó là cái nhãn hiệu đang rực sáng huy hoàng, ngàn vàng khó mua!
Kim Long mặc chiếc áo quân trang chính hiệu xin được từ Tiểu Thường, mặc chiếc quần nhung màu lam, mang đôi giày da đen, đeo chiếc thắt lưng da trâu to bản. Chiếc thắt lưng này vốn là của các quân nhân cao cấp thuộc quân đoàn Anh Vũ của Bát lộ quân và Tân tứ quân chuyên dùng. Trên vai anh ta, phù hiệu Hồng vệ binh lấp lánh. Phù hiệu của những người cấp dưới được làm bằng vải màu đỏ, những chữ trên áo dùng giấy vàng dán vào. Còn phù hiệu trên vai áo anh ta được làm bằng loại lụa tốt nhất, chữ số trên ấy là dùng chỉ màu vàng thêu rất cẩn thận. Toàn huyện chỉ có mười cái loại này, được làm bởi cô thợ thêu có tay nghề cao nhất trong xưởng công nghệ phẩm huyện thêu liên tục mấy ngày liền. Cô ấy thêu được chín cái rưỡi thì thổ huyết mà chết, máu nhuộm đỏ cả phù hiệu, sao mà bi tráng! Cái mà Kim Long đang đeo trên vai chính là cái thứ mười, chữ “Hồng” trên ấy có mùi máu của cô thợ thêu đấy! Hai chữ “vệ binh” còn lại là do Bảo Phượng thêu. Cái báu vật này Kim Long chộp được là do một lần anh ta lên Bộ tư lệnh Hồng vệ binh thuộc phái Kim Hầu phấn khởi gặp “Lừa lớn kêu” - bạn cũ của anh ta. Hai kẻ “lừa kêu” lâu ngày gặp nhau, vui vẻ vô cùng, tay bắt mặt mừng, dùng nghi lễ thời cách mạng đối đãi với nhau, thông báo cho nhau tình hình cách mạng ở làng ở huyện. Tôi không có mặt ở đó, song có thể khẳng định “Lừa lớn kêu” nhất định có hỏi thăm Bảo Phượng, vì tôi nghĩ anh ta vẫn còn giữ hình bóng của chị ấy trong lòng.
Kim Long lên huyện là để thỉnh kinh, tức là đi tìm tài liệu để làm cách mạng. Cách mạng Văn hóa bùng phát, ở làng tôi mọi người cũng muốn động đậy đôi chút nhưng chẳng biết “mạng” này phải “cách” thế nào nên đành nằm im. Kim Long vốn thông minh, ngay lập tức hiểu ra vấn đề căn bản. “Lừa lớn kêu” chỉ cần nói với anh ta một câu: Giống như thời tranh đấu với bọn địa chủ ác bá, bây giờ đấu tranh với cán bộ Cộng sản. Đương nhiên cũng đừng để cho bọn địa chủ phú nông phản cách mạng đã từng bị Đảng Cộng sản đấu tố có những tháng ngày yên bình. Mọi người đều ngay lập tức sáng tỏ, máu trong người Kim Long như sôi lên. Lúc chia tay, “Lừa lớn kêu” lấy cái phù hiệu thêu dở dang và một nắm chỉ thêu đưa cho Kim Long, nói rằng Bảo Phượng thông minh linh lợi, có thể giúp Kim Long thêu nốt mấy chữ còn lại. Kim Long thò tay vào túi lấy quà của Bảo Phượng gởi cho “Lừa lớn kêu”. Đó là một đôi đệm lót giày thêu chỉ màu rất đẹp. Con gái làng tôi, khi đã tặng đệm lót giày cho ai đó là đã có ý hứa hẹn chuyện trăm năm. Trên tấm lót có thêu hình uyên ương giỡn nước xanh xanh đỏ đỏ, trăm ngàn mối chỉ như muốn bày tỏ tình ý dào dạt. Hai kẻ “lừa kêu” mặt mày tự nhiên đỏ phừng. “Lừa lớn kêu” nhận quà xong, nói:
- Nhờ anh về nhắn lại với đồng chí Lam Bảo Phượng rằng, uyên ương hồ điệp là sản phẩm của giai cấp địa chủ và tư sản. Quan niệm thẩm mỹ của giai cấp vô sản là tùng xanh, mặt trời đỏ, biển lớn, núi cao, bó đuốc, cái liềm, cái búa... Nếu muốn thêu, thì hãy thêu những thứ đó!
Kim Long gật đầu một cách nghiêm trang, thừa nhận:
- Nhất định sẽ đem lời Tư lệnh nói lại với em tôi.
Tư lệnh cởi áo, trịnh trọng nói:
- Đây là chiếc áo của người bạn cũ của tôi làm chỉ huy trong quân đội tặng, xem này, bốn cái túi... Đúng là một chiếc áo của quân nhân cao cấp chính hiệu. Có một tay ở công ty Ngũ Kim mang đến một chiếc xe đạp hiệu “Đại Kim Lộc” mới toanh, tôi cũng chẳng nỡ đổi đâu!
Sau khi về thôn, Kim Long đứng ra thành lập chi đội Hồng vệ binh Kim Hầu hưng phấn của làng Tây Môn. Quân kỳ vừa phất, quần chúng đã nhiệt liệt hưởng ứng. Những người trẻ tuổi trong làng, bình thường rất nể phục Kim Long, lúc này như tìm được cơ hội để phục vụ. Họ chiếm cứ cơ quan đại đội, bán một con la và hai con trâu được một nghìn năm trăm nhân dân tệ, mua vải đỏ, nhanh chóng cắt làm phù hiệu, cờ đỏ, dây tua cho súng, một chiếc loa phóng thanh và rất nhiều máy móc khác. Còn lại ít tiền, họ mua mười thùng sơn đỏ quệt vào tất cả những gì có thể quệt, từ cổng nhà, tường rào, cửa lớn, cửa nhỏ... tất cả trở thành một màu đỏ; ngay cả cây hạnh cũng bị sơn đỏ từ gốc đến ngọn. Bố tôi tỏ thái độ phản đối thì bị Tôn Hổ bôi lên mặt một chổi sơn đỏ lòm, mặt bố trở thành bên xanh bên đỏ. Bố chửi như tát nước vào mặt, Kim Long khoanh tay đứng nhìn, chẳng thèm để ý. Bố chẳng thức thời gì cả, cứ chạy đến trước mặt Kim Long hỏi:
- Ông trời con! Có phải là đến lúc thay đổi triều đại rồi không?
Hai tay chống nạnh, ngực ưỡn thẳng, Kim Long nói như chém đinh chặt sắt:
- Đúng rồi, sắp thay ngôi đổi chủ rồi!
Bố hỏi tiếp:
- Thế anh nói Mao Trạch Đông không làm chủ tịch nữa à?
Kim Long cứng họng, nổi điên:
- Bôi đỏ cả vào cái mặt xanh của ông ta đi!
Bốn anh em Long, Hổ, Báo, Bưu xông lên, hai tên xốc nách bố tôi, một tên nắm tóc, tên còn lại cầm lấy chổi sơn bôi lên mặt bố tôi một lớp sơn đỏ thật dày. Bố mở miệng chửi thì sơn chảy tọt vào cổ họng, răng cũng nhuộm đỏ lòm, hai con mắt biến thành hai cái hố đen ngòm, sơn trên mí mắt sắp thấm vào tròng mắt như chơi. Mẹ tôi từ trong nhà chạy ra, vừa khóc vừa kêu:
- Kim Long! Ông ấy là bố con cơ mà, sao con lại đối xử với ông ấy như thế?
Kim Long trả lời lạnh tanh:
- Toàn quốc đã là một màu đỏ, không chừa chỗ nào cả. Cách mạng Văn hóa tức là “cách” cái “mạng” của những kẻ đi theo tư bản, địa chủ, phú nông, phản cách mạng, tất nhiên hộ cá thể cũng không tha. Nếu ông ấy không bỏ làm ăn cá thể, cứ ngoan cố đi theo chủ nghĩa tư bản, chúng tôi sẽ đem ông ta ném vào thùng sơn để xem ông ta có chịu đỏ không?
Bố vuốt vuốt cái mặt đầy sơn vì sợ nó chảy vào mắt, nhưng đáng thương sao, bố càng vuốt thì sơn chảy vào mắt càng nhanh và càng nhiều. Dầu sơn bỏng rát mắt làm bố nhảy lên, nằm xuống lăn lộn, kêu la oai oái, toàn thân dính đầy cứt gà. Những con gà do mẹ tôi và Ngô Thu Hương nuôi bị màu sơn đỏ chói khắp nhà, khắp vườn và cả người mặt đỏ này làm cho hoảng sợ không dám chui vào ổ mà bay lên đầu tường, bay lên cây, lên mái ngói, chân gà cũng dính đầy sơn đỏ. Chúng đi đến đâu là ở đấy in dấu chân gà màu đỏ.
Mẹ tôi vừa khóc vừa bảo tôi:
- Giải Phóng! Mau đi tìm chị Bảo Phượng về đây cứu đôi mắt của bố.
Tôi giật được một ngọn giáo có tua đỏ từ tay một Hồng vệ binh, trong lòng đầy căm hận nhắm thẳng về Kim Long chuẩn bị đâm cho hắn mấy nhát để xem máu trong cơ thể của con người nhẫn tâm ấy có màu gì, có lẽ là màu đen. Không! Chắc chắn là màu đen. Nhưng tình cảnh của bố và lời khẩn cầu của mẹ đã khiến tôi quên Kim Long ngay. Bây giờ việc cứu đôi mắt của bố là quan trọng nhất. Tôi ôm ngọn giáo, chạy ra đường. Bà có thấy chị cháu ở đâu không? Tôi hỏi một bà già tóc bạc phơ. Bà ta đưa tay quyệt nước mắt, lắc đầu tựa hồ như không hiểu câu hỏi của tôi. Tôi hỏi một ông già đầu hói: Ông có thấy chị cháu không? Ông ta khom lưng, chỉ vào tai, cười một cách ngây ngô. A! Ông ta điếc. Ông có thấy chị cháu không? Tôi lắc vai hỏi một người đang đẩy xe. Chiếc xe nghiêng về một bên, những sọt đá trên xe đổ nhào xuống đường. Ông ta cười đau khổ, lắc đầu, không hề giận dữ. Đáng lý ra ông ta phải nổi giận, nhưng ông ta lại cười. Ông ấy là Ngũ Nguyên, đại phú nông trong làng, thổi sáo rất hay. Là kiểu người cổ, đi lại nói năng rất tao nhã, như cậu nói, ông ta chính là bạn tốt của địa chủ ác bá Tây Môn Náo. Trong khi ông ta lom khom nhặt đá lên thì tôi bỏ mặc, tiếp tục chạy đi. Những xe đá này được chở đến nhà Tây Môn theo lệnh của Tư lệnh chi đội Hồng vệ binh làng Tây Môn là Kim Long. Mãi suy nghĩ, tôi đâm đầu vào Hoàng Hỗ Trợ đang đi ngược chiều. Tuy thời gian gần đây, các cô gái ở làng đều cắt tóc ngắn như con trai, ngắn đến lộ cả da đầu xanh xanh và cái cổ trắng ngần, duy chỉ có cô ta là vẫn kiên trì để mái tóc dài tết thành bím, cuốn bím tóc buộc bằng một sợi dây đỏ. Rõ ràng cô ta phong kiến, lạc hậu, bảo thủ, sao mà hợp với bố tôi lắm thế! Nhưng cái bím tóc dài và nặng của cô ta lại có chỗ sử dụng, rất phù hợp với vai diễn Lý Thiết Mai trong vở kịch “Ghi chép về cây đèn đỏ” mà chẳng cần hóa trang vì trong vở kịch này Lý Thiết Mai cũng có một cái bím tóc giống y như thế! Ngay cả những diễn viên của đội kịch huyện khi sắm vai Lý Thiết Mai cũng phải dùng cái bím tóc giả, còn Lý Thiết Mai của làng chúng tôi có bím tóc thật, từng sợi bám chắc vào da đầu. Sau này tôi mới hiểu vì sao cô ta không cắt tóc, chẳng qua vì da đầu của cô ta bị mắc một chứng bệnh lạ, hễ cắt tóc là máu từ chân tóc rỉ ra rơm rớm. Tóc của cô ta sợi nào cũng to và cứng, nhổ lên hình như có một cục thịt đeo ở chân tóc. Loại tóc này trên thế giới quả là hiếm thấy. Tôi hỏi cô ta: Cô có biết chị tôi ở đâu không? Đã biết chị tôi là ai, nhưng cô ta cố tình hỏi ai là chị tôi. Nếu cô ta không biết ai là chị tôi thì cũng có nghĩa là ai là mẹ cô, cô cũng không biết, tôi nghĩ. Chị tôi là Lam Bảo Phượng, là nhân viên y tế, là y tá chân đất! Cô ta muốn mở miệng nhưng ngậm lại ngay, ánh mắt lộ vẻ khinh bỉ, giây lâu mới nói bằng một giọng miệt thị song rất rõ ràng:
- À, cô ấy à? Đang quấn lấy Mã Lương Tài trong trường tiểu học ấy, mau chạy đến xem đi; hai con chó, một đực, một cái đang quấn nhau, không khéo bây giờ đang mùi mẫn rồi đấy!
Lời cô ta khiến tôi giật nẩy mình sửng sốt. Không ngờ cô Hoàng Hỗ Trợ đoan chính, cổ điển lâu nay lại thốt lên những lời thô tục đến như thế. Đều do Cách mạng Văn hóa dạy cả đấy! Lam - Ngàn - Năm - Đầu - To đế vào, giọng vô cùng lạnh lẽo. Những ngón tay của nó không biết vì sao đang chảy máu ròng ròng, tôi vội vàng lấy ra một nhúm tro tóc đã chuẩn bị từ trước đưa cho nó xoa, máu lập tức ngừng chảy.
Khuôn mặt cô ta đỏ bừng, khuôn ngực tròn trịa phập phồng. A! Tôi hiểu rồi. Tuy có thể cô ta chưa yêu Mã Lương Tài, nhưng khi thấy anh ta quấn lấy chị tôi, cô ta cảm thấy ghen tức đấy thôi. Tôi nói:
- Tôi tạm thời bỏ qua cho cô, mai mốt tôi sẽ trừng trị cô. Cô là đồ lăng loàn, yêu anh tôi - Không, anh ta không còn là anh tôi nữa mà là nòi giống xấu xa của Tây Môn Náo để lại.
- Thế chị anh cũng là nòi giống xấu xa của Tây Môn Náo đấy thôi! Cô ta nói. Lời nói của cô ta làm tôi nghẹn họng như nuốt phải một miếng bánh nướng to tướng nóng hổi.
- Không, anh ta và chị ấy không giống nhau. Chị ấy lương thiện, nhu mì. Máu chị ấy màu đỏ. Toàn thân chị ấy còn mùi của con người. Tôi chống chế.
- Cô ta sẽ nhanh chóng mất mùi người để thay vào đó là mùi chó. Cô ta là con chó do Tây Môn Náo ngủ với chó cái mà sinh ra, mỗi lần trời mưa là tinh khí chó sẽ tỏa ra đấy! Hỗ Trợ nghiến răng nói.
Tôi quay giáo lại định đâm cho cô ta một nhát. Thời kỳ cách mạng người ta dùng súng bắn chết nhau là chuyện thường. Ở công xã Giáp Sơn, quyền giết người đã lan đến tận thôn xóm. Ở thôn Ma Loan trong một ngày một đêm đã giết chết ba mươi ba người, già đến tám mươi tám tuổi, trẻ chỉ có ba tuổi. Có người bị đánh bằng gậy đến chết, có người bị dao cắt làm hai nửa... Tôi nâng ngọn giáo lên, nhắm ngay vào đầu cô ta. Cô ta chẳng sợ hãi gì cả, lại ngẩng đầu lên, dúi về phía tôi:
- Đâm đi! Anh có bản lĩnh thì đâm đi. Tôi sống đã quá đủ rồi.
Nhưng lạ chưa, đôi mắt thật đẹp của cô ta lại đẫm nước mắt. Thật là kỳ cục! Thật là khó hiểu! Chúng tôi đã từng lớn lên bên nhau. Tôi nhớ lúc còn nhỏ, có lần đang trần truồng chơi đùa với nhau trên bãi cát ven sông, đột nhiên cô ta nhìn chằm chằm vào con chim nho nhỏ giữa hai đùi tôi, vừa chạy vừa khóc về nhà đòi mẹ, vì sao Giải Phóng có cái ấy mà con không có? Ngô Thu Hương đứng dưới gốc cây hạnh chửi:
- Đồ thằng lưu manh con Giải Phóng kia! Mày lại dám chọc đến Hỗ Trợ nhà tao à? Coi chừng, tao sẽ cắt chim đấy!
Chuyện thời quá khứ như hiện lên trước mắt, nhưng trong nháy mắt, Hỗ Trợ đã trở nên khó lường như chỗ cong của dòng sông vậy. Tôi xoay người bỏ chạy, tôi vốn không chịu nổi nước mắt đàn bà mà! Đàn bà mà khóc là mũi tôi cay liền. Sự yếu mềm này đã hại cả đời tôi. Vừa chạy tôi vừa nói với lại:
- Kim Long dùng sơn đỏ đổ vào mắt bố tôi, tôi cần phải đi tìm chị ấy về cứu đôi mắt của bố...
Tôi vẫn nghe văng vẳng lời nói rất ác ý của cô ta:
- Cả nhà anh... chó cắn chó ấy mà!
Tôi quyết tâm sẽ tránh xa Hỗ Trợ, vì tôi vừa hận vừa sợ, nhưng lại vừa yêu cô ta, mặc dù tôi biết cô ta chẳng để ý gì đến tôi. Được cái lúc này cô ta đã nói chị tôi đang ở đâu.
Trường tiểu học ở đầu thôn phía Tây, nằm lọt thỏm trong bốn bức tường vây quanh. Bờ tường này là đá trong nghĩa địa xây nên, không biết có bao nhiêu hồn ma đang ẩn nấp trong đó, ban đêm thường hiện ra đi chơi. Bên ngoài bờ tường là một cánh rừng tùng rậm rạp thường có những con mèo hoang kêu gào rất ghê rợn vào ban đêm. Cánh rừng này thời kỳ luyện gang thép mà không bị chặt để làm củi đốt lò quả là một kỳ tích của vùng Đông Bắc Cao Mật này, chẳng qua là vì ở giữa rừng có một cây bách cổ thụ, cứ mỗi lần tra rìu là máu đỏ ối từ trong ruột chảy ra ào ào. Ai đã từng thấy cây chảy máu? Thì nó cũng giống tóc của Hỗ Trợ cắt một nhát là máu chảy đầy đầu thôi mà! Xem ra, những thứ có thể lưu giữ được nhất định phải là những thứ không hề tầm thường.
Trong phòng làm việc của trường tiểu học, tôi đã tìm thấy Bảo Phượng. Chị ấy không hề nói chuyện yêu đương gì với Mã Lương Tài cả mà giúp anh ta băng bó vết thương. Đầu anh ta không biết vì sao lại bị vỡ như thế. Chị tôi dùng băng băng kín đầu anh ta lại, chỉ chừa có đôi mắt để dò đường. Bộ dạng anh ta trông giống như những người lính Quốc dân đảng bị bộ đội Cộng sản đánh cho tan tác mà tôi đã từng nhìn thấy trong phim. Chị tôi trông giống như một y tá cần mẫn, nét mặt hầu như chẳng biểu hiện một tình cảm gì, giống như khuôn mặt được tạc bằng đá, trơn bóng và lạnh lẽo. Toàn bộ những kính ở cửa sổ đã vỡ và những tấm kính ấy đã bị trẻ con trong xóm lượm sạch đem về nhà để mẹ chúng dùng cạo vỏ đậu, miếng nào còn khá thì có thể ghép vào khung cửa sổ để vừa có thể từ trong nhìn ra ngoài, vừa có thể đón ánh nắng mặt trời.
Gió thổi từ cánh rừng mang theo mùi dầu tùng ngai ngái xộc vào trong phòng làm những tờ giấy trên bàn tung bay và rơi xuống đất. Chị tôi mở túi làm bằng da trâu màu đỏ lấy ra một chiếc lọ nhỏ, đổ ra một nhúm thuốc rồi lấy một tờ giấy trắng gói lại, nói với anh ta:
- Mỗi lần uống hai viên, mỗi ngày ba lần sau bữa ăn.
Anh ta cười nhăn nhó, nói:
- Không cần phải lãng phí thế, chẳng có trước hay sau bữa ăn gì cả, tôi sẽ không ăn nữa, tôi tuyệt thực. Tôi sẽ tố cáo hành vi phát xít này. Nhà tôi ba đời bần nông, rễ hồng mầm thẳng, họ dựa vào cái gì để thanh toán tôi? Chị tôi có vẻ đồng cảm, hạ giọng nói:
- Thầy giáo Mã, anh đừng quá xúc động, sẽ không tốt cho vết thương của anh...
Một cách cuồng nhiệt, anh ta chụp lấy bàn tay của chị tôi, nói một cách lộn xộn:
- Bảo Phượng! Cô tốt với tôi quá... tôi cũng thế... Bao nhiêu năm nay, lúc nào tôi cũng nhớ cô đến điên dại, bao nhiêu lần đâm đầu vào gốc cây, vào tường khiến người ta cứ tưởng là tôi đang mải suy nghĩ về khoa học, kỳ thực là tôi chỉ nghĩ về cô... Sao mà lắm lời tỏ tình hay ho thế, có điều do phát xuất từ cái miệng bị băng kín mít nên trở thành khó nghe, chỉ có đôi mắt như phát ra ánh sáng kỳ dị, lại giống như cục than bị nước ngấm. Chị tôi ráng sức rút tay về, đầu ngửa ra sau lắc qua lắc lại để tránh cái mồm có băng. Lại đây với tôi! Lại đây với tôi nào!... Mã Lương Tài điên cuồng ghì chặt lấy chị tôi. Chị! Tôi hét lên rồi đá thật mạnh vào cánh cửa đang khép hờ, cầm ngay ngọn giáo xông vào giữa phòng. Mã Lương Tài hoảng hốt bỏ tay chị tôi ra, quýnh quáng lùi lại mấy bước, vấp phải chậu nước làm cho nước bẩn chảy tràn lan trên sàn gạch vuông. Giết! Tôi hét lên, cắm phập ngọn giáo vào tường. Một nửa mông của Mã Lương Tài ngồi trên tờ báo đã cũ nát, xem ra anh ta đã sắp ngất xỉu. Tôi rút ngọn giáo ra, nói với Bảo Phượng:
- Chị, mắt bố bị Kim Long sai người quét sơn đỏ, hiện đang đau lắm. Mẹ sai em tìm chị, em chạy khắp làng mới tìm được chị ở đây. Chị mau mau chạy về liệu cách cứu đôi mắt của bố...
Bảo Phượng vội vàng chụp lấy túi thuốc, liếc xéo về phía Mã Lương Tài rồi chạy theo tôi. Chị ấy chạy thật nhanh, chỉ một lát đã vượt qua tôi. Túi thuốc lắc lư đập qua đập lại trên mông chị ấy kêu rổn rảng. Sao đêm đã mọc, phía chân trời hướng Tây là ngôi sao hôm rực sáng luôn luôn đi theo vầng trăng lưỡi liềm mờ mờ tỏ tỏ.
Bố tôi đang bò lăn lộn trong sân, có mấy người giữ ông lại nhưng không thể giữ nổi. Ông đưa tay dụi mạnh vào mắt, đau đớn kêu thét lên khiến mọi người phải rùng mình ớn lạnh. Bọn đàn em của Kim Long đã chuồn êm, chỉ còn bốn con chó trung thành nhà họ Tôn ở lại để bảo vệ cho anh ta. Mẹ và Hoàng Đồng mỗi người ôm một cánh tay của bố không cho ông dụi mắt nữa, nhưng sức lực đôi cánh tay của ông sao mà kinh người, giống như một con cá nheo toàn thân đẫm máu thi thoảng vùng một cái liền thoát ra được sự khống chế của hai người. Mẹ tôi vừa khóc vừa chửi:
- Kim Long, mày là con súc sinh táng tận lương tâm. Dầu rằng ông ấy không phải là bố đẻ nhưng cũng nuôi mày lớn lên, sao mày lại hạ thủ độc ác thế này?...
Như một vị cứu tinh từ trên trời rơi xuống, Bảo Phượng chạy đến bên bố tôi. Mẹ tôi nói:
- Ông ơi! Yên tí nào! Bảo Phượng về rồi. Bảo Phượng! Mau cứu bố con ơi! Ông ấy đãi các con chẳng bạc...
Trời không tối lắm nhưng màu hồng khắp nhà, khắp vườn và trên mặt bố đều biến thành một màu xin xỉn, u ám, mùi sơn nồng nặc, đặc quánh. Bảo Phượng ngồi xuống bên bố, hét to:
- Mau đem nước đến đây! Mẹ chạy vào nhà xách ra một xô nước. Chưa đủ, càng nhiều càng tốt!
Chị nói rồi đón lấy xô nước, nói với bố:
- Bố, nhắm mắt lại nhé! Thực ra thì bố đâu đã mở mắt được. Bảo Phượng tạt cả xô nước lên mặt bố. Nước, nước, nước! Mau lên! Chị ấy vẫn hét liên tục, âm thanh chắc là đanh giống như tiếng rú của con sói cái. Vốn hiền dịu như chị ấy mà lại hét lên những âm thanh đáng sợ ấy khiến tôi rùng mình, nổi gai ốc. Mẹ bê ra một thùng nước thật to, bước chân xiêu vẹo. Ngô Thu Hương, con người lâu nay chỉ sợ nhất một điều là thiên hạ thái bình và mong nhất một điều là ai cũng phải mắc bệnh dịch, không hiểu sao cũng khệ nệ bưng đến một thùng nước. Trời đã tối hẳn, tiếng hét của chị tôi vang lên từ cái bóng đen mờ: Tạt nước vào mặt của bố! Từng gáo nước tiếp tục tạt mạnh vào mặt bố nghe ào ào. Đem đèn ra đây! Chị bảo tôi. Mẹ chạy vào nhà đem ra một chiếc đèn dầu nhỏ tí, tay khum khum cẩn thận che lấy ngọn đèn. Một làn gió nhẹ thổi tới, ngọn lửa tắt ngúm, mẹ bước hụt chân ngã xoài ra sân, chiếc đèn văng đi đâu mất. Chắc là dầu đã đổ hết ra đất vì tôi thoáng ngửi thấy mùi dầu lửa thoang thoảng với mùi sơn. Lúc ấy Kim Long mới mở miệng bảo đàn em:
- Đốt đèn măng-sông lên!
Ngoài mặt trời, đèn măng sông là nguồn cung cấp ánh sáng tốt nhất ở làng Tây Môn lúc ấy. Tôn Bưu chỉ mới mười bảy nhưng là người thiện nghệ nhất trong việc đốt đèn măng sông, người khác phải dùng đến nửa tiếng đồng hồ mới làm cho đèn cháy, còn hắn chỉ cần mười phút không hơn. Người khác thì hay làm hỏng cái lưới bấc đèn, hắn thì chẳng bao giờ. Hắn thường đứng ngây người ngắm nghía cái lưới và lắng nghe tiếng hơi khí xì xì, tinh thần như mê man. Màu đen của sơn ở trong nhà và khắp vườn dần dần trở nên đỏ rực như có lửa cháy bên trong, mọi người đang lấy làm kinh ngạc không hiểu chuyện gì xảy ra thì thấy Tôn Bưu đang dùng một chiếc gậy treo chiếc đèn măng-sông, trông như đang treo một cái mặt trời đi ra từ phòng Bộ tư lệnh Hồng vệ binh. Những bức tường màu đỏ, cây cối màu đỏ, theo ánh sáng lộ hẳn ra, đỏ rực đến nhức mắt, đỏ như lửa. Tôi nhìn thấy rõ ràng từng người đang ở trong sân. Hoàng Hỗ Trợ đứng tựa vào khung cửa nhà mình cắn cái bím tóc trông rất đài các, phong kiến và hiền thục. Còn người đứng trước gốc cây hạnh kia, đôi mắt sáng ngời đảo qua đảo lại, đầu tóc bắt đầu dài trở lại, thi thoảng từ trong kẽ răng có mấy cái bong bóng nước bọt văng ra kia chính là Hoàng Hợp Tác. Ngô Thu Hương đi đi lại lại trong sân, tựa hồ như muốn nói một cái gì với ai đó nhưng chẳng có ai tiếp chuyện. Kim Long đang đứng chống nạnh giữa sân, ánh mắt căng thẳng, đôi mày cau lại như đang tính toán cái gì lung lắm. Ba anh em họ Tôn đứng sau lưng anh ta thành hình rẽ quạt sẵn sàng hộ vệ trông giống như ba con chó trung thành. Hoàng Đồng thì đang dùng gáo múc nước tạt vào mắt bố tôi, nước bắn tung tóe lấp loáng dưới ánh đèn. Bố đã ngồi yên xuống đất, hai chân xếp bằng, hai tay đặt lên đùi, mặt ngẩng lên đón những gáo nước tạt đến, trông rất bình tĩnh, không cào cấu, không kêu la. Sự xuất hiện của chị tôi đã làm ông yên tâm. Mẹ đang lồm cồm bò trên sân, có lẽ bà đang tìm cái đèn dầu, toàn thân ướt đầm như chuột lột trông đến đau lòng. Dưới ánh đèn sáng trưng, đầu tóc bà trắng xóa, chưa đến năm mươi mà trông bà sao già lắm lắm, lòng tôi trào lên một sự chua xót.
Sơn đỏ trên mặt bố có vẻ nhạt dần. Những giọt nước lăn tuột trên khuôn mặt bóng nhẫy rơi xuống đất giống như chảy trên lá sen mà tôi vẫn thường thấy mỗi khi trời mưa. Ngoài cổng, mọi người đã tụ tập rất đông, tò mò quan sát một cách thích thú những gì diễn ra trong sân. Chị tôi đứng dậy: Đem đèn xích lại đây! Tôn Bưu cẩn thận mang chiếc đèn đến giữa sân, Tôn Hổ - có lẽ là đã được Kim Long sai khiến chạy vội vào Bộ tư lệnh Hồng vệ binh mang ra một chiếc ghế đẩu đặt cách bố tôi khoảng hai mét và bảo Tôn Bưu đặt đèn lên đó. Chị tôi mở túi thuốc, dùng kẹp gắp lấy bông nhúng vào nước, bắt đầu lau chung xung quanh rồi lau lên mắt bố, rất cẩn thận nhưng cũng rất điêu luyện. Sau đó chị ấy dùng một cái ống tiêm cỡ lớn hút nước đầy vào rồi bảo bố mở mắt ra. Không thể mở được! Mau vạch mắt bố ra! Chị tôi bảo. Mẹ tôi bò đến song chân tay rất lem luốc. Giải Phóng, mau đến đây vạch mắt bố ra nào! Chị tôi gọi. Tôi bất giác lùi lại mấy bước. Mặt bố đầy sơn đỏ, tôi sợ lắm. Nhanh lên! Tôi đặt ngọn giáo xuống đất rồi giống như gà đạp trên tuyết, tôi rón rén đi đến gần bố. Chị tôi đang cầm ống tiêm chờ đợi. Tôi mới vừa thử sờ vào mi mắt bố, bố hét lên một tiếng đau đớn khiến tôi giật mình nhảy dựng lên, rụt tay về rồi lảng ra xa. Mày sao thế? Bộ muốn để bố mù à? Hoàng Hỗ Trợ nhanh nhẹn chạy đến. Bao nhiêu năm trôi qua rồi mà tôi vẫn nhớ như in cảm giác của mình lúc ấy! Cô ấy mặc chiếc áo sơ mi màu hồng, bím tóc to và nặng đung đưa. Từ cửa nhà cô ta đến giữa sân khoảng ba mươi bước, trong khoảng cách ấy, dáng cô ấy chạy sao mà đẹp lạ lùng. Dưới ánh đèn sáng trưng, ngay cả cái bóng đổ trên sân cũng đẹp! Mọi người đều ngây người ngắm cái bóng hồng thanh mảnh ấy.
- Có tôi! Tiếng nói vừa dứt, như một cánh chim hồng hồng, cô ấy đã đến cạnh bố tôi, chẳng để ý gì đến bùn và nước lênh láng trên đất đang làm bẩn đôi giày trắng tinh tự khâu rất tinh xảo dưới chân. Trong làng này, cô ấy đã từng nổi tiếng là khéo tay. Chị tôi thêu hoa trên đệm giày đã đẹp nhưng cô ấy thêu còn đẹp hơn. Mỗi lần cây hạnh ra hoa, cô ấy thường hay đứng dưới gốc cây, mắt nhìn đăm đắm vào những cánh hoa rồi vươn tay ngắt hoa đặt lên đệm giày. Hoa trên đệm giày còn đẹp hơn hoa thật! Cô ấy thường ép những tấm đệm giày dưới gối, không biết để tặng ai, “Lừa kêu lớn” hay Mã Lương Tài, Kim Long hay tôi?
Dưới ánh đèn sáng trưng, mắt cô ấy lấp lánh, hàm răng sáng bóng. Không thể chối cãi, cô ấy đẹp thật! Cái mông sao mà tròn trịa, ngực sao mà cao! Lâu nay tôi chỉ theo bố làm cá thể mà không để ý gì người đẹp bên cạnh này. Tôi yêu cô ấy thật rồi, yêu ngay trong lúc dầu sôi lửa bỏng này, ngay trong lúc cô ấy chạy ba mươi bước từ nhà ra giữa sân này. Cô ấy đứng sau lưng bố, cúi người dùng đôi tay búp măng trắng nõn nà giúp bố tôi mở mắt ra. Bố kêu thét lên, hình như tôi có nghe tiếng lách tách khi đôi mắt ông ấy mở ra giống như cá nằm dưới đáy nước nhả bong bóng. Đôi mắt bố như một vết thương đỏ ối, máu từ trong đó đang trào ra. Chị tôi cẩn thận bơm nước vào hai cái hốc mắt ấy. Nước biến thành máu lại trào ra ngoài, chảy xuống mặt. Bố rên rỉ đau đớn. Xong mắt trái lại sang mắt phải, rồi quay lại mắt trái... Hỗ Trợ và chị tôi phối hợp sao mà nhịp nhàng, ăn ý. Cuối cùng, chị tôi bơm vào mắt bố một loại thuốc nước rồi băng kín lại. Giải Phóng, đỡ bố vào nhà đi! Tôi chạy đến sau lưng bố, gắng sức đẩy ông đi về phía trước.
Ngay lúc ấy, tôi nghe một âm thanh kỳ lạ xuất phát từ chuồng trâu, nửa như khóc, nửa như cười, hình như là một tiếng than thì phải. Rõ ràng đấy không phải là tiếng người, mà là của trâu. Cậu đang cười hay khóc? Ông nói đi! Tôi cười hay khóc nào? Lam - Ngàn - Năm - Đầu - To lạnh lùng hỏi tôi. Mọi người trong sân đều lạnh toát sống lưng khi nghe cái âm thanh kỳ lạ ấy, đồng loạt nhìn về phía chuồng trâu. Nơi đó đang sáng rực, đôi mắt trâu như hai ngọn đèn đang phát ra ánh sáng xanh rờn, toàn thân trâu sáng loáng như được dát một lớp vàng ròng. Bố tôi giãy giụa định đi về phía ấy, kêu lên:
- Tiểu Hắc, Tiểu Hắc! Tao chỉ có mày là người thân duy nhất thôi! Tiếng kêu của bố tôi đầy tuyệt vọng khiến tôi chạnh lòng. Trừ Kim Long, còn tôi, Bảo Phượng và mẹ vẫn ở bên ông, vẫn thương ông lắm mà! Bố sao lại có thể nói những lời vô tình ấy? Con trâu, tôi biết nó tuy mang thân trâu nhưng linh hồn chính là Tây Môn Náo. Nó nhìn thấy hết tất cả những người thân thích trên sân, nào là con trai, con gái, nào là vợ cả, vợ hai, vợ ba; nào là người làm công và con trai của người làm công... Bao nhiêu là tâm trạng thương yêu, cừu hận xâu xé trong lòng, nó mới cất lên tiếng kêu ai oán não nùng đến như vậy.
- Mọi điều không đến nỗi phức tạp như ông nghĩ đâu! Lam - Ngàn - Năm - Đầu - To nói: Có lẽ lúc ấy tôi đang ngoạm một miếng cỏ thật to nên bị nghẹn và kêu lên quái dị như thế đó thôi! Sự việc quá giản đơn nhưng ông lại suy diễn lung tung làm cho rối bời như canh hẹ thôi mà.
Thật ra thì cả thế giới lúc ấy rối tung, lẫn lộn, hồ đồ. Cho nên để kể lại cho rõ ràng e rằng hơi khó. Nhưng có lẽ phải quay lại từ đầu, ở cái chỗ đoàn diễu hành của làng Tây Môn xuất hiện trong chợ phiên. Trống chiêng vang trời, cờ đỏ phất phới.
Bị Kim Long và Hồng vệ binh đưa đi diễu phố, ngoài bí thư chi bộ Hồng Thái Nhạc còn có đại đội trưởng sản xuất Hoàng Đồng, đội trưởng bảo an ngụy Dư Ngũ Phúc, phú nông Ngũ Nguyên, tay phản tặc Trương Đại Tráng, bà địa chủ nhà Tây Môn họ Bạch và cả bố tôi, tay làm ăn cá thể Mặt Xanh. Hồng Thái Nhạc bậm môi trợn mắt, Trương Đại Tráng nét mặt dàu dàu, Ngũ Nguyên nước mắt lưng tròng, bà Bạch đầu tóc xổ tung. Sơn trên mặt bố vẫn chưa tẩy sạch, đôi mắt đỏ lòm và nước mắt cứ chảy ra liên tục, không phải vì yếu đuối hay thương cảm mà vì sơn đỏ đã làm hỏng giác mạc của ông. Cổ bố tôi đang đeo tòng teng một cái thẻ bằng giấy, trên đó có dòng chữ do chính Kim Long viết: “Kẻ cá thể vừa ương bướng vừa thối tha”. Trên vai ông còn vác nguyên cả một chiếc cày gỗ, vốn là tài sản ông được chia trong thời cải cách ruộng đất. Eo lưng bố thắt một sợi dây thừng, đằng cuối dây thừng là một con trâu đực - chính là lão địa chủ ác bá Tây Môn Náo đầu thai thành Tây Môn Trâu, cũng chính là cậu. Nếu cậu muốn, cậu cứ ngắt lời tôi mà kể tiếp những chuyện xảy ra sau đó nhé! Nếu tôi kể thì thế giới được nhìn bằng đôi mắt của người, còn cậu kể thì trời đất được nhìn bằng đôi mắt của trâu, có khi chuyện do cậu kể còn hay hơn của tôi đấy! Cậu từ chối à? Thế thì để tôi kể tiếp vậy!
Lúc này cậu đã hoàn toàn trở thành một con trâu đực đẹp mã, to lớn. Bốn vó cậu cứng như thép, vai rộng, cơ bắp cuồn cuộn, mắt to và sáng lấp lánh, hung dữ. Chân cậu được buộc hai chiếc giày rách, đó là trò hiểm của thằng Tôn Bưu nhằm nhục mạ cậu. Kim Long ban đầu cũng có ý buộc tôi phải nhập đoàn đầu trâu mặt ngựa đi diễu phố, nhưng tôi đã vung ngọn giáo lên quyết định ăn thua đủ, nói xẵng: Thằng nào dám bắt tao diễu phố, tao chọc lòi ruột thằng ấy! Tuy tức nhưng trước thằng liều mạng như tôi, anh ta đành phải nhượng bộ đôi phần. Tôi cứ nghĩ, bố tôi làm giống như tôi, xách dao đứng ở cửa chuồng trâu tuyên bố: Đứa nào xông vào chém đứa nấy! Chắc chắn Kim Long sẽ chịu thua thôi. Nhưng bố mềm rồi, không hề chống đối khi chúng quàng vào cổ bố cái tấm thẻ nhục nhã kia. Cậu cũng thế, nếu cậu lúc ấy nổi tính trâu ương bướng của mình thì chẳng có thằng nào có thể buộc dây vào cổ cậu để đi diễu phố. Cậu cũng mềm rồi à?
Ngay chính giữa chợ phiên, cũng là khoảng sân rộng trước cửa hàng hợp tác xã cung tiêu, Tổng tư lệnh Hồng vệ binh Kim Hầu phấn khởi huyện Thường Thiên Hồng - tức “Lừa kêu lớn” và Tư lệnh Hồng vệ binh làng Tây Môn Kim Long - tức “Lừa kêu nhỏ” đang bắt tay nhau theo nghi thức cách mạng, mặt mày đầy khí thế, lòng tràn ngập tinh thần tiến công. Chắc họ đang nghĩ đến cảnh Hồng quân công nông toàn Trung Quốc hội quân ở núi Giếng Đồi, cờ hồng sẽ tràn ngập châu Á, châu Phi và châu Mỹ La tinh, giải phóng giai cấp vô sản đang chìm đắm trong nước sôi lửa bỏng toàn thế giới... Hai đội Hồng vệ binh gặp nhau, huyện đội gặp thôn đội, cũng chính là lúc hai đội đầu trâu mặt ngựa đi theo con đường tư bản gặp nhau, huyện đội hòa thôn đội. Huyện trưởng lừa Trần Quang Đệ, thư ký lừa Phạm Đồng cùng với kẻ múa xương bần cố kiêm theo đuổi con đường bảo thủ Hồng Thái Nhạc và kẻ bần cố nhưng học đòi, cưới vợ của địa chủ Hoàng Đồng gặp nhau. Họ len lén nhìn nhau, dùng mắt để truyền đạt cho nhau những tư tưởng và ý đồ phản động. Cúi đầu xuống, cúi nữa, cúi nữa! Còn ngẩng lên à? Hồng vệ binh nắm lấy đầu họ dúi xuống, dúi đến khi không dúi được nữa, mông vểnh lên nhưng không được cao quá... Bố tôi chết không cúi đầu, vả lại cũng có quan hệ đặc biệt với Tư lệnh Kim Long nên bọn Hồng vệ binh cũng có chút lưu tình.
Đầu tiên là “Lừa kêu lớn” diễn thuyết. Anh ta đứng trên một chiếc ghế đẩu lấy từ trong nhà ăn tập thể ra, tay trái chống nạnh, tay phải chém chém vào không khí bằng nhiều tư thế khác nhau, lúc thì như đại đao chém xuống, lúc thì như mũi kiếm đâm ngang, lúc thì như nắm đấm đánh mãnh hổ, lúc thì như chưởng đập tan đá lớn. Động tác phối hợp nhịp nhàng với lời diễn thuyết hào hùng, nước bọt văng tung tóe, ngữ điệu sát khí đằng đằng, ầm ầm vang vang. Tôi có cảm giác lời anh ta vón lại thành một chiếc bao cao su tránh thai thổi căng không khí, hình thù giống như quả bí đao, bôi thêm màu đỏ bay vù vù loạn xạ trong không gian rồi đột nhiên nổ đùng đinh tai nhức óc. Trong lịch sử vùng Đông Bắc Cao Mật đã từng có một cô y tá rất xinh đẹp nghịch bao cao su, dùng miệng thổi cho căng tròn quá mức, phát nổ và kết quả là đôi mắt bị thương rất trầm trọng. Chuyện này được người ta kể cho nhau nghe một cách thích thú và lan truyền rất nhanh. Lừa Kêu Lớn phải nói là có khả năng của một nhà diễn thuyết đại tài, trong khi nói anh ta bắt chước ngữ điệu và động tác của Lênin, Mao Trạch Đông. Cánh tay phải vươn ra tạo thành một góc bốn mươi lăm độ, đầu hơi ngả về sau, thân dưới trụ vững, đôi mắt nhìn về nơi xa xăm, mồm anh ta cứ oang oang: “Tấn công, tấn công và tấn công vào kẻ thù giai cấp” khiến tôi có cảm tưởng Lênin đang sống lại. Lênin trong cuốn sách “Lênin 1918” kể rằng, năm ấy ông về Đông Bắc Cao Mật, quần chúng im lặng cứ như ai cũng ngậm một quả chanh trong miệng nhưng sau đó thì vỡ oà tiếng hoan hô, mấy tay thanh niên có học thức hét “Ura!” “Ura!”, kẻ ít học thì hô “Vạn tuế”. Bây giờ Lừa Kêu Lớn không xứng đáng để được tung hô “ura” và “vạn tuế” như thế, anh ta giống như một chiếc bao cao su được thổi đầy hơi đang bốc lên đến tận lưng chừng trời. Có người chửi thầm: Đồ tạp chủng! Không thể xem thường thằng này được! Lời chửi phát xuất từ miệng của một người đã học tư thục, nhiều chữ, thường rất tự phụ nói với những người trong quán cắt tóc của anh ta: Ai không biết chữ nào cứ đến hỏi tôi. Tôi không nói được thì không lấy tiền cắt tóc. Có mấy thầy giáo trung học tìm những chữ chỉ còn trong tự điển đến hỏi cũng chẳng làm khó được ông ta. Có một thầy khác tự đặt ra một chữ mới, vẽ một vòng tròn, giữa vòng tròn chấm một chấm, đến hỏi. Ông ta cười nhếch mép, nói: Đó là chữ “Peng”, là tiếng hòn đá rơi xuống giếng. Ông thầy nói: Sai rồi, đây là chữ do tôi nghĩ ra. Thế không phải tất cả các chữ đều do người ta nghĩ ra hay sao? Ông thầy ngậm miệng.
Lừa Kêu Lớn nói xong là đến lượt Lừa Kêu Nhỏ. Chẳng có gì lạ, toàn nhai lại những lời của Lừa Kêu Lớn.
Bây giờ thì tôi kể về cậu - Tây Môn Trâu. Câu chuyện này không thể không kể. Trong buổi diễu phố ấy, ban đầu cậu rất ngoan ngoãn đi sau bố tôi, từng bước, từng bước thong thả. Cái vẻ ngoan ngoãn nghiêm túc của cậu khiến cho mọi người, nhất là tôi cảm thấy cái gì đó là lạ. Cậu vốn là con trâu có khí phách, tính cách ngang ngạnh, đã từng có những biểu hiện không bình thường trong quá khứ kia mà! Nếu mà tôi đã biết trong cơ thể cậu đang có một Tây Môn Náo ngông cuồng ngạo ngược, một Tây Môn Lừa lẫy lừng danh tiếng thì trông bộ dạng của cậu lúc ấy, tôi sẽ thất vọng biết mấy. Đáng ra cậu phải phản kháng, phải làm náo loạn chợ phiên, phải làm diễn viên chính trong vở diễn diễu phố vui vẻ này, giống như những chú bò tót trong các đấu trường ở Tây Ban Nha mới phải chứ? Nhưng cậu lại đang cúi đầu, sừng rủ giày rách, cúi đầu cam phận, đầy nhục nhã, miệng nhai cỏ nhỏ nhẹ, bụng kêu ọc ạch theo từng bước đi. Cứ như thế từ sáng sớm đến trưa, không khí từ lạnh lẽo sang ấm áp, mặt trời rực rỡ, cậu theo đoàn người đến tụ tập ở hợp tác xã cung tiêu, ở đó có mùi bánh bao thơm lừng. Một thằng bé mặc chiếc áo bông rách bươm, thọt một chân, mù một mắt xuất hiện giữa chợ với một con chó vàng rất to lớn và hung dữ. Thằng nhỏ này nổi tiếng về đánh chó, xuất thân bần hàn, không cha mẹ, chính quyền ưu tiên cho nó đi học miễn phí, nhưng hình như trời sinh ra nó không phải để đi học, nó thà chết còn hơn là đọc sách, bèn bỏ dở con đường sáng lấp lánh đang ở phía trước để theo đuổi cuộc sống lông bông tự do. Đảng cũng chẳng biết phải làm gì với kiểu con người không biết cầu tiến này. Nó đánh chó và bán thịt chó, cuộc sống khô