← Quay lại trang sách

Chương 39

Trong tầng hầm Tòa án Hình sự hạt Dreyfus có tất cả các báo cáo về từng vụ xét xử trước khi đưa ra phán quyết, chúng có tuổi đời lên đến 150 năm gồm: bản tóm tắt phần bào chữa của luật sư, bản ghi chép của thư ký phiên tòa, danh sách tang chứng và bản tuyên án - một kho lưu trữ khổng lồ về những câu chuyện bi thảm cùng các hành động xấu xa.

Người phụ nữ ngồi sau vách ngăn tên là Mona, cô ta có mái tóc còn đen hơn cả màn đêm và búi cao, khiến cái đầu trông có vẻ nặng nề. Cô ta đặt nửa chiếc bánh mì kẹp đang ăn dở xuống, nhìn Desiree. “Tôi có thể giúp gì nào, cô bé?”

Desiree đã điền vào phiếu yêu cầu tài liệu cần tra cứu. Mona nhìn vào phiếu yêu cầu. “Hơi mất thời gian đấy.”

“Tôi sẽ chờ.”

Mona ký xác nhận lên phiếu, đóng hai lần dấu vào đó, rồi cuộn tròn tờ giấy lại, nhét vào một cái hộp nhỏ, ném lên máng trượt, cho nó lao xuống dưới. Cô ta cài bút vào sau tai, nghiên cứu kỹ lưỡng Desiree.

“Cô làm việc cho Cục bao lâu rồi?”

“Sáu năm.”

“Họ ném cho cô toàn vụ khó nhằn à?”

“Một số.”

“Tôi cá là họ làm thế. Tôi cá là cô làm tốt gấp đôi bất kỳ gã đàn ông nào.”

Mona đứng dậy, nhoài người qua mặt bàn, nhìn xuống đôi giày của Desiree.

“Có chuyện gì à?”

Mona có vẻ xấu hổ và chỉ cô ra phòng chờ.

Desiree tìm một chỗ ngồi, lật lật vài quyển tạp chí cũ, thường xuyên kiểm tra chiếc đồng hồ đeo tay vốn là quà tặng của bố cô. Ông tặng nó cho Desiree vào ngày cô tốt nghiệp, dặn dò cô phải lên dây cót cho nó hằng đêm và nhớ tới bố mẹ mỗi khi làm thế.

“Cả đời bố chỉ đi làm muộn duy nhất một lần,” ông nói với cô.

“Vào ngày con được sinh ra,” cô đáp.

“Con biết chuyện đó à?”

“Vâng,” cô cười to. “Con biết ạ.”

Kho lưu trữ có mùi mực của máy photocopy, nước lau sàn cùng bìa da. Bụi bẩn lơ lửng trong làn ánh sáng rọi vào từ các ô cửa sổ trên cao.

Cô lấy một ly cà phê từ máy pha, nhưng lập tức ngần ngại ngay sau ngụm đầu tiên. Vứt cốc cà phê đi, cô chọn lấy một loại nước có ga. Dạ dày réo ầm ầm. Bữa cuối cùng cô ăn là khi nào nhỉ?

Mona gọi tên cô và đẩy hàng chục tập hồ sơ qua cái lỗ nhỏ trên vách kính ngăn.

“Tất cả đây à?”

“Ồ, chưa hết đâu cưng.” Cô ta chỉ về phía sau. Một đống hộp đựng hồ sơ chồng chất đầy chiếc xe đẩy. “Còn hai chiếc đầy giống thế này nữa.”

Desiree tìm chỗ trong phòng đọc, kéo tấm đệm ngồi ra. Cô bắt đầu đọc về vụ cướp, đọc kỹ từng trang, lồng các chi tiết với nhau như đang chỉnh sửa một bộ phim, cắt ghép từng phân cảnh trong đầu. Từng bức ảnh. Từng thời điểm. Báo cáo khám nghiệm tử thi. Bản lưu lời khai.

Chiếc xe tải bị cướp ở phía bắc Conroe ngay sau ba giờ chiều. Công ty an ninh Armaguard đã có hợp đồng thu thập tiền hư hỏng từ ngân hàng, các công ty tín dụng, sau đó đưa tới một cơ sở tiêu hủy ở Illinois. Lịch giao nhận và tuyến đường thay đổi hai tuần một lần, tức là đã có người tiết lộ thông tin. Nhân viên bảo vệ bị chết trong vụ cướp, Scott Beauchamp, bị tình nghi là tay trong, nhưng không có chứng cứ nào được trình ra trước tòa. Nhật ký điện thoại cùng các hoạt động gần thời điểm đó của anh ta được điều tra kỹ lưỡng nhằm tìm ra thành viên cuối cùng của băng cướp cũng như số tiền bị mất tích, nhưng bằng chứng duy nhất chống lại Beauchamp chỉ mang tính suy đoán.

Audie Palmer đã nhận tội song từ chối tiết lộ tên của bất kỳ kẻ nào liên quan. Anh không giao nộp anh trai hay ám chỉ tới nhân viên bảo vệ. Do vết thương trên đầu nên phải ba tháng sau cảnh sát mới có thể thẩm vấn Audie và phải thêm tám tháng nữa, anh mới đủ khỏe để hầu tòa.

Desiree quay sang xem lời khai của các nhân chứng. Theo thông tin từ phía cảnh sát thì vào khoáng 20 giờ 13 phút - năm tiếng sau khi xảy ra vụ cướp - một cảnh sát tuần tra DSCO cùng đồng nghiệp trên tuyến đường tuần tra quen thuộc đã phát hiện một chiếc xe tải bọc thép đậu trên đường nhánh rẽ từ đường League Line vào xa lộ 1-45. Trong khi kiểm tra biển đăng ký, viên cảnh sát nhận thấy một chiếc xe suv màu đen dừng lại, chỉ có một người trong xe. Cửa sau xe tải mở ra và các túi được chuyển sang chiếc suv. Viên cảnh sát này đã gọi hỗ trợ, nhưng bị phát hiện, khiến cả hai chiếc xe bị tình nghi kia vội vàng bỏ chạy với tốc độ rất cao.

Desiree đọc bản lưu các cuộc điện đàm, chú ý tới tên của những cảnh sát tham gia: Ryan Valdez và Nick Fenway là hai người đã phát hiện ra xe tải. Chiếc xe tuần tra thứ hai do Timothy Lewis cầm lái cũng tham gia vào cuộc truy đuổi.

Cuộc điện đàm đầu tiên diễn ra lúc 20 giờ 13 phút ngày 27 tháng Một.

Cảnh sát Fenway: 1522, một phương tiện bị tình nghi đang đậu trên đường Longmire, cạnh đường Farm Market 3083, phía tây. Đang tiếp cận.

Tống đài: Đã nghe.

Cảnh sát Fenway: Đó là một chiếc xe tải bọc thép, biển số NCD-0479. Nó đang đậu bên lề đường. Có khả năng là chiếc xe bị cướp.

Tổng đài: Đã nghe. Bao nhiêu người?

Cảnh sát Fenway: Hai, cũng có thể là ba. Da trắng. Dáng người trung bình. Quần áo tối màu. Cảnh sát Valdez đang cố tiếp cận gần hơn… Nổ súng! Nổ súng!

Tống đài: Có cảnh sát bị bắn. Tất cả các đơn vị. Đoạn giao giữa đường Longmire và đường Farm Market phía tây.

Cảnh sát Fenway: Chúng bỏ chạy. Đang truy đuổi.

Tổng đài: Đã nghe. Các đơn vị sẵn sàng, các đơn vị sẵn sàng. Cảnh sát đang truy đuổi nghi phạm. Có nổ súng. Thận trọng tiếp cận.

Cảnh sát Fenway: Đang chạy qua đường Holland Spiller. Tốc độ bảy mươi dặm/giờ. Gặp đèn đỏ. Chúng vẫn đang bắn trả… Chúng tôi sắp tới đường League Line. Bọn chúng đang ở đâu?

Tổng đài: Phía trước, cách các anh khoảng năm phút.

Cảnh sát Lewis: 1522 các anh cần tôi chặn ở đâu?

Cảnh sát Fenway: Dọc xuống League Line. Anh có gai hủy lốp [64] không?

Cảnh sát Lewis: Không.

Cảnh sát Fenway: Chiếc xe tải vừa băng ngang đường League Line, vẫn chạy về phía bắc.

Tống đài: Thám tử tư mang theo máy ảnh đang đến từ phía tây.

Cuộc rượt đuổi tiếp tục trong vòng bảy phút nữa, khi cả xe tuần tra lẫn xe tải đều đạt tốc độ chín mươi dặm/giờ. Lúc 20 giờ 29 phút, cuộc đàm thoại tiếp theo:

Cảnh sát Fenway: Hắn bị mất lái rồi! Xe tải bị trượt! Lật rồi! Mẹ kiếp! Tôi nghĩ hắn đâm vào thứ gì đó.

Tổng đài: Đã nghe.

Tổng đài: Cho tôi biết vị trí.

Cảnh sát Fenway: Đường Old Montgomery. Một phần tư dặm về phía tây công viên RV. Bọn chúng đang bắn trả! Nổ súng. Nổ súng…

Cảnh sát Lewis: Tôi đang đến.

Cảnh sát Fenway: (Không nghe rõ)

Tổng đài: 1522 anh có thể nhắc lại được không?

Cảnh sát Fenway: Đang rời khỏi xe. Bị trúng đạn.

(Bốn phút im lặng trôi qua, tổng đài đang cố huy động thêm cảnh sát.)

Cảnh sát Fenway: Ba nghi phạm bị hạ gục. Chúng tôi có một nhân viên bảo vệ bị thương rất nặng và một chiếc xe bốc cháy. Code 4. [65]

Tổng đài: Đã nghe code 4. Chúng tôi đang điều nhân viên y tế tới.

Desiree lật lại, đọc lời khai đầu tiên của những người tham gia và để ý thấy họ thường xuyên sử dụng những cụm từ tương tự và ngôn ngữ giống hệt nhau để mô tả sự kiện đó, như thể họ đã trao đổi trước hoặc thống nhất một câu chuyện. Đó là thực tế phổ biến giữa các lực lượng thực thi pháp luật, vì họ muốn đảm bảo rằng không ai gặp nguy hiểm trong bất kỳ phiên tòa tiếp theo nào. Cuộc rượt đuổi kết thúc khi chiếc xe tải bị mất lái ở chỗ rẽ, nghiêng sang một bên, đâm sầm vào một chiếc ô tô khiến nó bốc cháy và tài xế bị thiệt mạng, trong xe không còn ai khác. Audie Palmer cùng anh em nhà Caine đã cố chống cự trên đường tháo chạy.

Theo lời khai của bọn họ, Fenway và Valdez đã bị ngăn cản bởi súng hạng nặng. Họ nấp sau xe tuần tra, cố gắng bắn trả nhưng thất bại và rơi vào nguy hiểm cho đến khi Lewis xuất hiện. Anh ta lái xe xông thẳng vào tầm đạn, giúp đồng nghiệp di chuyển tới vị trí an toàn hơn.

Ba viên cảnh sát đã bắn ra tổng cộng hơn bảy mươi viên đạn. Cả ba nghi phạm đều bị bắn trúng, hai người chết ngay tại chỗ, người thứ ba bị thương rất nặng. Theo Herman Willford - nhân viên pháp y của hạt Dreyfus thì Vemon Caine bị trúng đạn ở ngực, còn em trai gã - Billy thì bị trúng ở chân, ngực và cổ. Cả hai chết vì mất máu ngay tại hiện trường. Audie Palmer bị bắn vào đầu. Nhân viên bảo vệ Scott Beauchamp đã thiệt mạng vì lúc xảy ra vụ tai nạn, anh ta đang bị bịt miệng và trói trong xe.

Desiree lấy ra năm cuốn album ảnh chụp hiện trường, xem qua toàn bộ trước khi nghiên cứu kỹ lưỡng từng tấm. Cả hai xe cảnh sát đều có thể thấy rõ, họ đang nằm chắn ngang đường cùng đống đổ nát của chiếc xe tải và chiếc ô tô bị cháy. Cửa xe tải vỡ nát hết, máu đọng thành vũng bên trong. Sử dụng các bản vẽ cùng chương trình mô phỏng trên máy tính, Desiree đã tái tạo một bức tranh ba chiều của hiện trường và đặt từng “người tham gia” vào vị trí.

Có những bức hình trống trong album - số thứ tụ nhiều hơn số ảnh. Hoặc chúng bị đánh số sai, hoặc có người đã lấy ảnh đi. Từ năm 2004, hầu hết các xe tuần tra đều được trang bị máy ảnh cùng máy ghi đĩa cứng [66] . Những hệ thống này hoặc được cảnh sát bật lên hoặc tự động kích hoạt khi xe đạt đến một tốc độ nào đó. Hệ thống mới hơn thì liên tục thu hình và tải về thông qua hệ thống wifi mỗi khi xe tuần tra quay về trụ sở.

Trong quá trình xét xử, luật sư biện hộ đã yêu cầu cung cấp hình ảnh của máy ghi hình này và được cho biết là cả hai xe tuần tra đều không mang theo các trang thiết bị ấy. Chi tiết này cứ quanh quẩn trong đầu Desiree. Cô xem kỹ lại từng bức ảnh. Xe tuần tra của Fenway và Valdez đang đậu xiên chéo trên mặt đường. Kính chắn gió vỡ vụn, vết đạn lỗ chỗ trên cửa xe.

Sử dụng một ứng dụng kính lúp trên điện thoại, cô săm soi bức ảnh, tập trung vào vị trí đặt máy ghi hình trên xe, nhận thấy có phần nhô lên phía trên kính chắn gió. Một chiếc máy quay. Desiree ghi nhanh số thứ tự bức ảnh vào sổ tay và đặt một câu hỏi bên cạnh nó.

Nghiên cứu các bức ảnh khác, cô có thể thấy phần còn lại của chiếc xe bị cháy nằm trên nền đất. Một cơ thể cháy đen trong chiếc xe bị lật ngửa vặn vẹo và cong queo bởi nhiệt độ cùng sự va chạm, khiến nó trông như một tác phẩm điêu khắc trừu tượng.

Desiree tìm kiếm thông tin của chiếc xe - một con Pontiac 1985, biển số California. Theo báo cáo khám nghiệm tử thi, lái xe là một phụ nữ, tầm hai mươi lăm tuổi. Các bức hình cho thấy cơ thể cháy đen của cô bị khóa cứng trong tư thế như đang đấm bốc với bàn tay nắm chặt và khuỷu tay hơi gập lại, nguyên nhân là do sự co rút của các mô và cơ khi gặp nhiệt độ cao. Không có bằng chứng nào cho thấy nạn nhân sử dụng rượu, ma túy hay từng bị gãy xương thuở nhỏ.

Không nhận dạng được khuôn mặt hay dấu vân tay khiến cảnh sát gặp khó khăn trong việc xác định danh tính nạn nhân, cuối cùng họ đã phải tìm kiếm dữ liệu ADN trong hệ thống nha khoa trên toàn quốc. Sau đó là cuộc tìm kiếm mở rộng tới các cơ quan quốc tế như Tổ chức Cảnh sát hình sự Quốc tế Interpol và tổ chức chuyên về những người nhập cư bất hợp pháp, song vẫn không có giấy tờ. Desiree lại tìm kiếm thông tin chủ sở hữu chiếc xe. Con Pontiac 6000 được bán lần đầu ở một đại lý tại Columbus, Ohio năm 1985, sau đó được bán đi bán lại hai lần nữa. Người chủ cuối cùng đăng ký là Frank Aubrey ở Ramona, Nam California.

Desiree nhặt con iPhone lên và bấm máy gọi cho đồng nghiệp ở Washington. Cô và Neil Jenkins đã được đào tạo cùng nhau nhưng Jenkins không muốn làm việc trong lĩnh vực này. Anh ta muốn làm công việc bàn giấy tại trụ sở FBI, ở số 935 đại lộ Pennsylvania, nhất là mảng giám sát dữ liệu, bộ phận mà anh ta có thể nghe lén mọi cuộc đàm thoại.

Đúng như dự đoán, Jenkins muốn chém gió, buôn chuyện tào lao, nhưng Desiree không có thời gian.

“Tôi cần giúp tìm kiếm lịch sử của một chiếc xe. Con Pontiac 6000, đời 1985, biển số California 3HUA172.” Cô đọc nhanh số VIN [67] của xe. “Chiếc xe bị vỡ nát trong một tai nạn xe vào tháng Một năm 2004.”

“Còn gì nữa không?”

“Tài xế là một phụ nữ - tìm xem họ có xác định được cô ấy không.”

“Gấp lắm không?”

“Gọi lại sớm cho tôi nhé.”

Desiree quay sang xem xét nhân viên bảo vệ đã thiệt mạng trong vụ cướp. Scott Beauchamp nguyên là lính thủy, từng phục vụ trong hai cuộc chiến ở vùng Vịnh và một thời gian ở Bosnia. Anh ta giải ngũ năm 1995 và đã làm việc cho công ty Armaguard được sáu năm. Cảnh sát nghi ngờ bọn cướp có nội gián, nhưng không thể kết tội cho Beauchamp thông qua nhật ký điện thoại, tuy nhiên anh ta có một hóa đơn thanh toán tiền xăng ở cùng điểm dừng chân với Vemon Caine một tháng trước khi vụ cướp xảy ra. Một cô hầu bàn đã nhận diện chính xác Beauchamp qua ảnh, nhưng không thể nhớ được liệu hai người đó có nói chuyện với nhau không.

Desiree phát hiện ra một cuộn băng nằm dưới đáy hộp. Cô đối chiếu nhãn ghi vụ án trên băng với danh sách tang vật. Nó là cuốn băng ghi lại buổi luận tội Audie Palmer.

Cô quay lại chỗ Mona, cô ta có vẻ rất bất ngờ khi thấy cô.

“Cô đã ở đây sáu tiếng rồi đó.”

“Tôi còn ở đây đến mai cơ.”

“Chúng tôi sẽ đóng cửa trong vòng bốn mươi lăm phút nữa, nên trừ khi cô mang theo túi ngủ…”

“Tôi cần một đầu chạy đĩa DVD.”

“Cô thấy căn phòng đằng kia chứ? Trong đó có một chiếc máy tính. Đây là chìa khóa. Đừng làm mất đấy. Cô có thể ở đó đến sáu giờ hoặc quay lại vào ngày mai.”

“Hiểu rồi.”

Desiree bật máy tính lên, lắng nghe chiếc đĩa DVD quay tròn trong lúc màn hình nhấp nháy sáng. Một chiếc máy quay cố định cho thấy Audie Palmer đang nằm trên giường bệnh, ống hỗ trợ gắn ở mũi và cổ tay anh. Cô đã đọc các báo cáo y tế về tình trạng của anh. Không ai cho là Audie có thể sống sót. Bác sĩ phẫu thuật đã phải ghép hộp sọ của anh từ các mảnh xương vỡ và tấm kim loại như một trò chơi ghép hình. Audie rơi vào trạng thái hôn mê suốt ba tháng, não bộ hoạt động ở tình trạng tối thiểu trong vài tuần đầu tiên. Các chuyên gia đã tranh cãi xem có nên rút ống hỗ trợ không, song Texas chỉ hành hình tử tù trong khu biệt giam, chứ không phải khi họ đang bị chết não, bởi vì đó là cam kết tranh cử của hầu hết chính trị gia của bang.

Ngay cả khi Audie thoát khỏi tình trạng hôn mê, bác sĩ vẫn tỏ ra nghi ngờ khả năng anh có thể nói năng hoặc đi lại. Anh đã chứng minh họ hoàn toàn sai lầm, nhưng cũng phải mất hai tháng nữa trước khi anh đủ khỏe để tham gia phiên điều trần trên giường bệnh.

Đoạn băng cho thấy luật sư bào chữa, Clayton Rudd đang ngồi cạnh Audie, lúc này anh mới chỉ giao tiếp được bằng cách đánh vần các từ ngữ ngắn gọn trên bảng Ouqa [68] mượn được. Biện lý quận lúc bấy giờ là Edward Dowling, hiện đang là thượng nghị sĩ, đeo khẩu trang dùng trong phẫu thuật như thể sợ bị lây nhiễm vi trùng, vi khuẩn.

Trước khi buộc tội, thẩm phán Hamilton hỏi Dowling tại sao Văn phòng Biện lý quận lại khởi tố Palmer. “Bị cáo đã có thể bị xét xứ theo luật của tiểu bang hoặc liên bang, thưa ngài thẩm phán, nhưng theo hiểu biết của tôi thì đã phát sinh xung đột lợi ích,” Dowling đáp, cố ý tỏ ra mơ hồ.

“Xung đột lợi ích gì?”

“Một nhân chứng có thể là người thân ruột thịt của một quan chức liên bang cấp cao,” Dowling đáp. “Đó là lý do tại sao FBI lại chỉ định Văn phòng Biện lý quận thụ lý vụ án này.”

Thẩm phán Hamilton tỏ ra hài lòng và hỏi luật sư Rudd xem liệu thân chủ của ông đã hiểu rõ mục đích của vụ kiện chưa.

“Hiểu rõ, thưa thẩm phán.”

“Người đàn ông này không thể nêu đầy đủ tên họ của mình để ghi âm lại.”

“Cậu ấy có thể đánh vần được.”

“Palmer, anh nghe được tôi nói không?” Viên thẩm phán hỏi.

Audie gật đầu.

“Hôm nay tôi sẽ xét xử anh với các tội danh gồm: ba tội giết người, cướp một chiếc xe và lái xe nguy hiểm gây chết người, anh đã rõ chưa?”

Audie rên rỉ và nhắm mắt lại.

“Các tội danh này có khung hình phạt cao nhất là tử hình hoặc án chung thân không được ân xá hoặc vô thời hạn. Anh hiểu các tội danh này và hình phạt tối đa rồi chứ?”

Chậm rãi và thong thả, Audie di chuyển ngón tay đến từ “Rồi” trên bảng Ouija.

Thẩm phán Hamilton quay sang Dowling. “Anh có thể bắt đầu.”

“Dựa theo điều luật của Texas áp dụng cho bị cáo Audie Spencer Palmer. Vụ kiện số 48, sổ ghi án số 642.”

Viên biện lý mất mười phút để liệt kê các tội danh giết người và cướp tài sản trước khi kết luận khởi tố. Palmer bị buộc tội thông đồng với người khác để cướp bảy triệu đô la thuộc sở hữu của Cục dự trữ Liên bang Mỹ.

Thẩm phán Hamilton lên tiếng. “Palmer, anh đã bị tố cáo phạm vào trọng tội và kết án tử hình. Tôi phải thông báo rằng anh có những quyền lợi nhất định. Anh có quyền được đại diện bởi một luật sư và ngài Rudd được chỉ định bào chữa cho anh với chi phí được xã hội chi trả, nhưng anh có quyền thuê luật sư riêng nếu muốn. Anh có đồng ý để ngài Rudd đại diện cho anh trong phiên buộc tội hôm nay không?”

Audie chỉ vào chữ “Có”.

“Anh có muốn biện hộ gì không?”

Audie bắt đầu đánh vần một câu trả lời, nhưng Clayton Rudd đã với sang tấm bảng, ngăn cản bàn tay run rẩy của anh. “Hãy ghi nhận rằng khách hàng của tôi muốn biện hộ rằng cậu ấy không có tội,” ông nói rồi liếc sang Dowling như đang đợi ông ta chấp thuận. Rồi ngả người về phía Audie. “Tốt nhất hãy để chúng ta có sự chuẩn bị sẵn sàng đã, chàng trai.”

“Chuyện bảo lãnh thì thế nào?” Viên thẩm phán hỏi.

“Bang phản đối bảo lãnh,” Dowling đáp. “Đây là những tội danh nguy hiểm, ngài thẩm phán, và tiền thì vẫn đang mất tích.”

“Thân chủ của tôi sẽ không rời khỏi bệnh viện trong thời gian tới,” Rudd đáp.

“Có bất kỳ mối ràng buộc nào với cộng đồng hay tài sản nào đáng kể không?”

“Không, thưa thẩm phán.”

“Bảo lãnh bị từ chối.”

Đĩa DVD kết thúc. Desiree nhấn nút mớ đĩa, nhét nó vào vỏ nhựa đựng đĩa, cất lại trong hộp.

Đó là thời điểm năm tháng trước khi Audie Palmer tới dự phiên tòa xét xử ở trụ sở Tòa án hạt Dreyfus. Lúc đó anh phải đối mặt với một thẩm phán khác và Clayton Rudd đã đạt được một thỏa thuận với Văn phòng Biện lý, giảm tội danh xuống tội giết người cấp độ hai (tội cố ý giết người, nhưng không dự tính hay lên kế hoạch từ trước) để đổi lấy sự chấp thuận nhận tội ở tất cả các tội danh bị cáo buộc. Audie không tranh cãi ở bất kỳ tội danh nào và từ chối xin giảm án.

Tờ Houston Chronicle đã đăng bản tuyên án như sau:

Một người đàn ông hai mươi ba tuổi đã bị kết án ngày hôm qua với tội danh cướp có vũ trang và giết người cấp độ hai trong vụ cướp xe tải bất thành năm 2004 khiến một nhân viên bảo vệ và một nữ tài xế cùng hai đồng bọn bị thiệt mạng.

Thẩm phán Mattheiu Coghlan đã tuyên Audie Palmer mười năm tù giam sau khi anh ta thừa nhận tất cả các tội danh, bao gồm cả hành vi ăn trộm bảy triệu đô la mà không có khả năng tìm lại.

Trước khi đưa ra bản tuyên án cuối cùng, thẩm phán Coghlan đã chỉ trích biện lý quận Edward Dowling vì đã không cáo buộc Audie Palmer tội giết người cấp độ một cho trách nhiệm của anh ta đối với các trường hợp tử vong. “Đây là những hành vi phạm tội nghiêm trọng và theo ý kiến cá nhân của tôi thì phán quyết ngày hôm nay là một sự xúc phạm nặng nề đến các viên chức thực thi pháp luật đã đánh liều mạng sống của mình để đưa kẻ phạm tội ra trước công lý.”

Bên lề phiên tòa, đặc vụ FBI Frank Senogles đã nói với các phóng viên rằng FBI đã tiến hành hơn một ngàn cuộc phỏng vấn liên quan tới vụ cướp và tập trung vào các mối quan hệ thân thiết cũng như biết rõ những người liên quan tới băng cướp, song vẫn không tìm ra tung tích của số tiền vì chúng không có số sêri cũng như đã được chỉ định mang đi tiêu hủy.

“Tôi có thể cam đoan rằng chúng tôi đã có cuộc điều tra mở và thường xuyên đối thoại với cảnh sát của bang và hạt về chiến lược cũng như chiến thuật. Chúng tôi giữ nguyên quan điểm về những người phải chịu trách nhiệm, nhưng theo thời gian, vụ việc sẽ càng khó giải quyết hơn nếu không có sự giúp đỡ từ cộng đồng.”

Desiree rất kinh ngạc khi đọc trích dẫn lời phát biểu của Frank Senogles. Tại sao anh ta không nói mình đã tham gia vào cuộc điều tra từ ban đầu? FBI đã trực tiếp xử lý vụ việc, nghĩa là Senogles đã thẩm vấn Ryan Valdez cùng các cảnh sát khác. Đồng thời, anh ta cũng thẩm vấn Audie Palmer, nhưng khi Desiree tuyên bố muốn tìm hiểu vụ án kỹ lưỡng hơn thì anh ta không chỉ trích, phản đối hay coi thường cô như bình thường vẫn hay làm.

Giở sang trang, cô tìm thấy một tin tức khác.

THỐNG ĐỐC CA NGỢI NHỮNG CẢNH SÁT DŨNG CẢM - Tác giả: Michael Gidley

Mặc dù bị tấn công rất dữ dội, các trợ lý của văn phòng cảnh sát trưởng hạt Dreyfus là Ryan Valdez, Nick Fenway và Timothy Lewis đã không ngần ngại trợ giúp nhau sau màn truy đuổi tốc độ cao chiếc xe tải bọc thép bị đánh cắp. Nhờ lòng dũng cảm của họ mà cả ba sĩ quan cảnh sát đều đã bảo vệ được tính mạng và đưa một tên tội phạm nguy hiểm vào tù. Để biểu dương sự anh dũng của họ trong tháng Một năm 2004 hỗn loạn, hôm nay các sĩ quan Valdez, Fenway và Lewis đã nhận được “Ngôi sao Texas” - phần thưởng danh giá nhất của bang, công nhận “hành động anh hùng vượt quá nhiệm vụ của họ”.

Thống đốc Rick Perry và Tổng chưởng lý Steve Keneally tại một buổi lễ diễn ra ở tòa nhà quốc hội, ca ngợi các sĩ quan cảnh sát này vì sự dũng cảm xuất sắc cùng tấm lòng vì cộng đồng của họ.

Một bức ảnh chụp cả ba người mặc đồng phục, đứng cạnh thống đốc Perry, mỉm cười hướng mắt vào ống kính. Fenway, Valdez và Lewis có vẻ hơi mất tự nhiên trong bức hình, nhưng ngài thống đốc lại tỏ ra rạng rỡ. Trên nền bức hình là Frank Senogles, lúc anh ta vô tình quay về phía máy ảnh. Trên tay cầm một chiếc điện đàm. Có lẽ anh ta là một trong số nhân viên an ninh bảo vệ buổi lễ.

Desiree bấm số vừa gọi trên điện thoại.

“Còn chuyện này nữa,” cô nói với Jenkins. “Tôi cần thông tin về hai cảnh sát bang là Nick Fenway và Timothy Lewis. Cả hai đều làm việc cho văn phòng cảnh sát trưởng hạt Dreyfus năm 2004.”