← Quay lại trang sách

Laure

Ta chả buồn ngủ quái gì, thế là nguệch ngoạc vào nhật ký này. Beth Gibbons ca: How can I forget your tender smile / Moments that I have shared with you… Lẽ ra ta phải cho Văn nghe album này. Thể nào ổng cũng mê luôn. Ổng bảo ta khiến ổng điếc tai với đống đĩa nhạc rock, ngay cả đĩa của các cụ như Mick Jagger. Ổng thì ngoài Ligeti, Shostakovich và Fauré ra, đếch còn ai khác. Ta ớn tận cổ kiểu khọm già của ổng. Lou ít ra cũng không ngọng khi nghe ta nói về những nhóm hát New Age hay dân chuyên thơ slam. Bả và ta hợp cạ tuyệt cú mèo, bọn ta ăn miếng trả miếng chọi lại Văn. Ổng quạt ta, băm vằm ta mỗi lần thi cử nát bét. Ổng xa rời mọi thứ, đến mức khó mà hiểu ta. Ổng cao thủ về ngôn ngữ bao nhiêu thì lại chả hiểu gì sự ớn củ tỉ của ta bấy nhiêu.

Ổng muốn ta phải theo ổng cơ, nào ngốn tác phẩm cổ điển, nào viết lách trau chuốt, nào trơn tru cả cái thời thức động từ khoai nhất, nào trích dẫn nguyên văn. Nhiêu đó ớn thấy mồ. Nhưng giờ Văn có còn đó đâu để chỉnh lỗi khi ta nói: “Muốn con bế cho cái gì không?”, ta lại nhớ ổng. Ta có hục hặc chút với ổng trước khi ổng mất không lâu. Ôi! Có quái gì đâu. Ta đánh quả lẻ với Tommy, mà ổng thì ghét Tommy như xúc đất đổ đi. Không phải vì đó là một tên lêu lổng chả giống ai, mà vì hắn là bad boy, bán lẻ xì ke ở bến tàu điện ngầm Stalingrad và tuồn đồ chôm được. Hắn cứ như thiên thần bất hảo của ta vậy. Ta bị cỏ cám dỗ, xoi mấy quả trứng môn địa, làm biếng chảy thây.

Tommy người Créteil, cha là thợ đặt ống nước và mẹ là công nhân nhà máy đồ hộp. Hắn có bốn anh chị em, độc một lũ khờ. Hắn tếch khỏi nhà năm mười sáu tuổi và cho tới hôm kia thì vẫn ở trong trung tâm bảo trợ. Ta và hắn dính như sam từ khi hắn thông não cho ta về họa sĩ Rauschenberg cùng các tác phẩm Combine của ông, tác phẩm cắt dán giấy bìa, chai Coca, giấy dán tường, chim nhồi rơm và đủ thứ tả pín lù. Hắn biết tuốt tuồn tuột về phong trào Néo-Dada chứ chả đùa, trong khi chưa bao giờ thò mặt đến bảo tàng Beaubourg. Hắn và ta hẹn nhau ở đài phun nước Les Innocents để đi ăn bánh mì kebab hay ườn ra phơi nắng gần nhà thờ Saint-Eustache. Văn không thích ta lai vãng đến đó. Với ổng, đó là nơi rợn gáy buổi tối. Ổng cũng chẳng thích ta bắt chước Tommy, chẳng thích ta bảo hắn đáng yêu, tinh ranh, ngồ ngộ. Một kẻ kỳ dị vãi! Văn càng chẳng thích khi vì hắn mà có lần ta bị lôi vào một cuộc ẩu đả giữa hai băng ở khu Les Halles. Tommy lĩnh một cú đấm trực diện, ta lộn tùng phèo. Khi ta đứng dậy, cớm bao vây cả lũ và lập lại trật tự: “Tất cả về đồn, kẻ nào láu tôm láu cá sẽ bị tạm giữ cả đêm!” Ta không bị hốt đi, nhưng Tommy thì có. Hắn được thả sau vài tiếng, hắn nổi khùng, sẵn sàng ăn tươi nuốt sống cảnh sát. Tận nửa đêm ta mới mò về nhà, Văn xồ vào ta. Ta đã phải thuật lại toàn bộ vụ liều lĩnh của mình. Lou, bị dựng dậy khỏi giường, bênh ta chằm chặp. Chả gì làm Văn nguôi giận, ổng kiên nhẫn hết nổi, vì lối sống ba trợn của ta. Ta học đòi làm người lớn, vắt mũi đã sạch đâu, miệng còn hơi sữa. Mà rồi, gầm lên với ta thì ích gì, như nước đổ đầu vịt thôi. Ta trơ mặt và chuyên gây họa. Ta muốn thoát khỏi xà lim gia đình, phải nỗi mỗi lần gặp chuyện, lại cụp đuôi về nhà, cậy ông bà bô. Thay vì học hành, ta lê la với Tommy. Hắn còn đếch học xong cấp hai ấy chứ, ngủ gầm cầu, hút kíp rồi bán luôn, tứ thời vướng tội nợ, bị cha mẹ tống khỏi nhà, suýt đi bóc lịch nhiều lần. Hắn muốn làm một người đàn ông, một người đàn ông đích thực, nhưng tình cảnh của hắn bi bét, phải ngày trước thì có lẽ đã bị tống trại cải tạo. Văn bảo ta vậy và cấm ta giao du với hắn.

Bọn ta mặt nặng mày nhẹ sau vụ đó. Ông mặt dài như cái bom, ta câm như hến. Lou thì chắc chắn lúc ấy đang mải bận tâm đến những tấm hình của Ulma và Văn do thám tử của bả trao lại. Ta mới chỉ gặp Ulma ở nghĩa trang Bobigny, khi hạ huyệt Văn. Mụ ta quyến rũ, với kiểu tóc Louise Brooks, mắt mèo, môi màu trái anh đào, cặp giò thanh mảnh, quần áo đẳng cấp. Nhưng ta thấy mụ chả dễ gần. Mụ giữ khoảng cách, nhất là với Lou, mụ không bắt tay ai hết, không cả với Hugues, người đã gật đầu chào mụ. Mụ kẹp nách cuốn sách nhỏ bìa da nâu. Có lẽ trong đó mụ đã đánh dấu một trích đoạn đọc tưởng niệm Văn.

Thời tiết chó chết, mưa như trút nước làm cho lối đi ngập lá vàng trở nên tron trượt. Ai nấy lạnh cóng, ta thì tịt mũi, quả ô bị gió lật, thế là nước mưa thấm qua áo khoác. Ta giậm giậm chân trong lúc Hugues ca tụng Văn, và Rachid trìu mến vỗ vai ta. Ta nén lệ, nhưng mắt nhòe đi. Lou chìa cho ta chiếc mùi soa. Mặt mày bả cứ là… Những lần triệu tập đến chỗ thẩm phán không phải không can hệ. Bả tránh nhìn về phía Ulma. Thế nhưng bả đã mời mụ tới lễ mai táng khi gửi mụ thư cáo phó. Điều diễn ra giữa hai người đàn bà thật lạ lùng. Văn có hai mụ góa. Mụ này gây ra cái chết của ổng, mụ kia hẳn cũng cảm thấy một phần trách nhiệm trong “chuỗi tình huống bi thảm”, Văn sẽ nói vậy cũng nên. Ta cố gắng chọn những thành ngữ mà ổng có lẽ sẽ dùng nếu còn sống. Ta cũng cố gắng không phán xét Lou hay Ulma. Ta nào biết những chuyện hậu trường của vụ này, vì thế ta đâu có quyền chọc ngoáy vào vết thương.

Ngày xảy ra tai nạn, Lou đánh thức ta dậy và thình lình thông báo: “Mẹ đã cán ba con.” Sau đó bả đi tắm. Ta sửng sốt đến mức không nhúc nhích khỏi giường. Những lời của Lou va đập vào nhau trong đầu ta. Chúng vô nghĩa với ta. Sao Lou lại cán Văn? Bả làm gì ở Saint-Germain lúc nửa đêm? Ta hẳn đã nhỡ một đoạn nào đó. Thời gian qua không phải màu hồng. Văn thường vắng nhà buổi tối, lúc có nhà thì không nhấc người khỏi phòng làm việc, gạt tàn đầy đầu lọc và vài lon bia trong tầm tay. Ổng viện cớ cày cuốc, rằng ổng đang cuống cà kê, nhưng sau cả buổi chiều, ổng vẫn ở nguyên trang bản thảo ấy. Khi cú điện thoại của nhà xuất bản lôi ổng ra khỏi mơ mộng, ổng có vẻ ngơ ngác tợn, cứ như bị nện một cú vào chẩm đầu không bằng. Lou chẳng giống thường ngày, bả dùng các loại nước lá, hầu như không bao giờ mở mồm khi Văn ở nhà, hoặc bóng gió cay độc. Cái tên Ulma chớ có phơi ra, cái từ “phản bội” chớ mà nhắc đến, đó là những “lời cảnh cáo mang màu uyển ngữ”, Văn bảo vậy. Lou tỏ ra bình thản như không, nhưng trong lòng là núi lửa phun trào. Văn gắng đánh trống lảng, nhưng lại trêu ngươi bả, dù ra vẻ ăn năn. Lou ba máu sáu cơn, Văn tính khí thất thường, rồi họ giải hòa nhau, bả ban cho ổng lời gọi “tình yêu của em”, họ kéo về phòng vuốt ve nhau, và thế là lòng lại “phơi phới dậy tương lai”. Theo Văn, ổng là người lưỡng cực, khi up khi down không kiểm soát được. Lou thì bản tính độc đoán và dễ tự ái.

Đôi lúc bả nhiễu ổng, nhất là sáu tháng sau cùng. Bả dửng dưng với ổng, hoặc xoáy cái nhìn tối sầm vào ổng khi ổng xin lỗi vì năm giờ sáng mới mò về. Bả ngủ trên ghế gấp ở phòng khách. Bả không còn hầm món ngon cho ổng, kẻ sành ăn, nên ổng buộc phải tọng đồ đông lạnh. Bả liểng vào thùng rác những bình rượu Armagnac của ổng, dốc cạn trong bồn rửa chai rượu Bordeaux mới uống chưa được mấy. Bả cứ rầm rầm khi ổng ngủ trưa. Bả nói ổng thối thây dầy da trong khi bả ba đầu sáu tay, vừa đảm việc nhà, vừa siêu năng động, lại là một hiệu trưởng bận bù đầu và là người tiếp đạn cho cả nhà. Bả dè sẻn chi tiêu, tính toán thất thoát, siết chặt hầu bao khi vì ổng mà họ móm nặng. Chỉ lúc dạy đời ổng thì bả mới mở mồm với ổng. Ổng vung tiền bạc, lặn mất tăm khi chuyện trở xấu, ổng không đoái hoài đến ta, việc học hành của ta, ổng tung hê tất tật từ ít lâu nay, bả cáng đáng mọi công to việc lớn, thương thuyết với ngân hàng, cân đối chi tiêu, ngày nào cũng làm ôsin, làm y tá khi ổng ho rút ruột gan. Bả lục lọi ngăn tủ giấy không khóa của ổng, và làm xáo trộn hết. Bả tính toán chính xác những khoản ổng giấu bả. Không một đơn từ nào, không một quả thư nào bả không kiểm tra. Bả nói, nhờ những điều tra của bả, bả có được những “bằng chứng cho hành động vô lại của ổng”. Sau hai mươi năm, kết cục thế này đây!

Những đêm ổng ngủ lang, bả khẳng định trước mặt ta rằng bả sẽ lấy lại tự do của mình. Nhưng khi ổng về thì bả câm lặng. Sao họ không thừa nhận đang lừa nhau? Sao họ không dứt điểm một lần rồi thôi, nói toạc móng heo? Tình hình có lẽ đã sáng hơn nếu họ nói chuyện với nhau. Nhưng, cơ bản là, bả đâu thẳng thừng, chỉ lướt qua vấn đề, như thể thây kệ. Tuy nhiên, ta có thể làm chứng chuyện này, bả bùng cháy, khi giận điên, lúc lại nhu nhược giả bộ, ra chiều quân tử mười năm trả thù chưa muộn.

Những lúc không quá giận dữ, bả kể lại cho ta những năm đầu hôn nhân. Họ đặt tên ta là Laure vì đã hôn nhau lần đầu dưới chân tượng Laure de Noves ở vườn Luxembourg. Thời ấy, ổng si mê bả. Ổng không phải người duy nhất trồng cây si. Bả có nhiều người theo đuổi. Bả đắn đo chẳng biết chọn ai, nhưng đã xem Văn là “ý trung nhân”. Ôi! Bả nào định cưới nhanh, đâu cần mọt nào mách nước cho bả về chủ nghĩa hiện sinh, lại càng chẳng cần một biên tập viên chả kiếm nổi tiền trăm bạc triệu. Bả sống trong một phòng nhỏ được sắp đặt đẹp đẽ ở phố Abbesses, lương đủ sống, công việc thú vị, có bạn bù khú hộp đêm. Bả trông ngon lành, nhiều bô trai “chết” bả chứ chẳng đùa, nhưng bả đâu phải loại gái chài giai, bả “quyết không dâng hiến trước hôn nhân”, như ngày xưa bả thường nói. Thế nào mà bả lại quyết định sống với Văn chứ? Có lẽ vì trong hai người, ổng ôn hòa hơn. Ổng luôn là người làm lành khi họ bực nhau. Có thể vì ổng từng là kẻ lưu vong và hồi hai mươi hai tuổi bả làm từ thiện cho tổ chức Amnesty International. Theo ta, khi chọn Văn là bả chuộc tội, chẳng biết tội gì (ác nghiệp của tổ tiên nhà bả, đám thực dân chăng?). Không, ta suy từ những điều đã nghe thấy. Lúc nào bả cũng bai bải về Điện Biên Phủ. Trong lòng chảo đó, người Pháp đã bị dân Việt siết chặt gọng kìm, cho tới khi chịu quy hàng. Bả soi những bài báo cũ viết về giải phóng ách thực dân. Bả thành mẹ đỡ đầu của một bé gái Lào, nhờ có bả mà con bé được đi học và không còn phải đan rổ cả ngày. Bả quyên góp vào mấy tổ chức phi chính phủ, rồi dừng rót tiền, vì theo bả thì các tổ chức này do lũ đầu đất điều hành. Bả cho rằng mình theo cánh trung tả, sau khi từng là đảng viên đảng xã hội kiên định.

Văn, về phần mình, chẳng có đến cả thẻ cử tri, ổng bị ám ảnh vì phe đảng mặt trận quốc gia đang càng ngày càng có thế, nhưng ổng không bầu phe đối thủ. Ổng đọc những lá thư của Rosa Luxemburg, Cuộc khởi nghĩa đến của ủy ban vô hình, các bài phỏng vấn Julien Coupat về những khích động liên quan đến một “chính thể đầu sỏ thế giới và Pháp quốc đang tiêu vong”: tránh sao tức nước vỡ bờ. Coupat bị kết án phá hoại dây cáp điện của Công ty đường sắt quốc gia Pháp. Cớm liệt anh ta và các thành viên của tạp chí Tiqqun vào vòng ảnh hưởng “tự do vô chính phủ”, như thế, cuộc nổi dậy của họ, họ có thể “liệt nó vào cái bất khả cắt nghĩa”. Ta vẫn còn bài cắt ở báo ra, với những đoạn Văn đánh dấu. Khi ổng ngoắc ta vào những vấn đề này, ta bơi toàn phần trong đó, nhưng giờ mọi thứ đều rõ với ta. Trừ việc, ta chết liền nếu biết vì sao cha mình, đã trốn khỏi một nước cộng sản, lại ủng hộ Cách mạng tháng Mười. Bức tường Berlin sụp đổ và khối cộng sản đã tan rã bốn năm trước khi ta ra đời. Theo Lou, Văn theo dõi những sự kiện trên báo và tạp chí như thể số phận ổng phụ thuộc vào đó. Có lẽ ổng hy vọng điều gì đó ở Việt Nam. Nhưng với ổng, “chủ nghĩa tư bản dã man sẽ thế chân chủ nghĩa tập thể hóa”. Sẽ chỉ có phần cho lũ bất lương mafia thôi, chứ khối cần lao làm quái có gì…

Ta viết vào nhật ký này để còn lại được gì đó của Văn. Ta đã không còn gọi “ba” nữa, ta thường phàn nàn về ổng khi gặp Tommy, ta thường là nguyên nhân gây quại nhau giữa hai cha con. Giờ đây, ta ăn năn. Nhẽ ra ta phải là sợi cu roa nối Lou và Văn với nhau. Đằng này, ta lại hẩy bị ngô xô bị lúa, để tiêu khiển, rồi từ từ chơi luôn cả thách thức: không còn là em bé bị quấn bọc trong đủ thứ cấm đoán, mà là một mẫu hoàn chỉnh, gần như đủ lông đủ cánh, không còn ở tuổi chập chững chưa vững và muốn cha mẹ nói lỏng dây cương. Văn nói ta chưa học bò đã lo học chạy. Với ổng, ta vẫn là một đứa trẻ ranh miệng còn hơi sữa. Ổng lo nẫu ruột gan khi ta đi tàu điện ngầm lúc mười một giờ khuya, lui đến những khu ghê răng, đàn đúm và xịt màu vẽ lên cửa với Tommy, ta trên sườn dốc tron, nếu ổng không để mắt đến mọi chuyện, ta có lẽ đã lao vọt từ dốc này sang dốc khác, bị giáo viên đánh trượt, bị đuổi khỏi cái trường tù, bị lôi vào những chuyện bẩn thỉu.

Thực tình ta cũng có lúc quá đà. Nhưng có ai nghiêm túc vào cái tuổi mười bảy đâu. Lại càng không khi có một người cha gàn dở. Hôm trước ổng bảo ta không được an phận thủ thường và khen ta không như cả lũ choai choai khuôn sáo, hôm sau ổng trở ý đổi lời và cảnh báo ta chẳng ai trệch đường ray mà không hề hấn gì, không chút tối thiểu tuân theo luật lệ, tèo là cái chắc. Ta chứng minh rành rọt cho ổng rằng, căn cứ vào gia sản di truyền học của ta thì ta chỉ có thể là một êlectron tự do mà thôi. Ống không như mọi người, ta chả theo chuẩn mực lắm. Chỉ có Lou là biết phải quấy, ừ thì ta tin là vậy cho tới cái đêm bả cán Văn. Cái gì đã chạm dây thần kinh bả không biết? Bả theo dõi ổng từ mấy tháng rồi, lòng nặng đá đeo, nhưng ai dám đánh cược là bả không chập mạch đây? Dường như bả self-control đấy. Vì thế, đừng trông mặt mà bắt hình dong. Bả tỉnh bơ đến mức người ta cho rằng bả không thể lẩn thẩn quẫn trí. Ngay cả lúc quại nhau với Văn, bả vẫn lý lẽ đâu ra đấy. Chính ổng mới là người nói năng mất khôn, trong khi ổng vốn cẩn trọng lời ăn tiếng nói. Điều gì đã khiến Lou tự nhủ: “Đủ rồi!” Ông giỡn mặt bả? Ta đếch biết. Và hai giờ sáng chẳng phải lúc ta có được tia sáng lóe lên trong đầu. Thôi! Ung thủ quá. Giảm nhịp thôi. Muốn đi xa phải giữ sức ngựa(9). Khò cái đã! Mai trời sáng.