← Quay lại trang sách

RẠNG ĐÔNG Văn

Tôi sinh ở Sài Gòn, năm Kennedy bị ám sát. Tại các quán bar gần phố Catinat, gái điếm bán rẻ thân cho lính Mỹ. AIDS chưa phải là đại bệnh, nhưng các nhà thương ngập ngụa bệnh nhân giang mai. Những năm ấy, quân Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam mở đường mòn Hồ Chí Minh. Bức ảnh em bé napalm truyền đi khắp thế giới. Bà Nhu, đệ nhất phu nhân miền Nam Việt Nam, hớn hở trước cái bà ta gọi là món thịt nướng, tức các nhà sư tự thiêu phản đối sự đàn áp của tổng thống thân Mỹ Ngô Đình Diệm. Hal Ashby còn chưa làm phim Về nhà với những cựu chiến binh, bị chấn thương cả thân thể và tinh thần, hồi phục nhọc nhằn khỏi cuộc bôn ba ở Việt Nam rừng thiêng nước độc.

Má tôi làm phiên dịch ở tòa lãnh sự Pháp, thế nên mới năm tuổi tôi đã vào học trường Pháp. Còn xỏ quần đùi, tôi đã ngâm nga thơ Péguy về Jeanne d’Arc, thuộc lòng những câu: Vắng bóng một người, mặt đất hóa hoang vu của Lamartine, tôi biết ngày thảm sát Saint-Barthélemy, vụ chiếm ngục Bastille, vụ án Dreyfus, còn khi được hỏi về các triều đại nước mình, thì tậm tịt. Tôi không biết vào thế kỷ XV, Lê Lợi, hiệu là Lê Thái Tổ, nổi dậy chống giặc Minh xâm lược và, theo sự tích, Trời phù ông đánh trận, đã phái một dân chài trao ông thanh gươm vớt được dưới hồ, rồi đời lại sau khi ông thắng trận.

Má tôi, thích Pháp, mặc dù là con một người chống Pháp đô hộ Đông Dương, song không vì thế mà bị Tây hóa, má mặc áo dài và đi dép mua ngoài chợ, ngủ chiếu, nấu bếp than, đi lễ chùa, thắp hương bàn thờ gia tiên. Hai mươi bảy tuổi má sinh tôi. Ba đang ở nhà người anh dưới quê. Ba tưởng mình vô sinh và không khỏi ngạc nhiên khi hay tin cô bồ lâu năm đậu thai. Ba má ở căn nhà bé xíu má thừa kế của một người dì. Ba tốt nghiệp văn khoa mà đi gõ khắp các cửa mới tìm được mấy việc lặt vặt chỗ này chỗ nọ. Ba tí toáy chọc sửa đồng hồ cho một nhà buôn, giao bưu kiện cho vài cửa hàng, bán vé số, thuốc lá, bài thuốc dân gian, nước mía. Hồi đó, má ở nhà nội trợ. Chồng má, bị liệt vào thành phần thân cộng, tập kết ra Bắc, má mới phải lao đi tìm việc. Ba bắt liên lạc với điệp viên Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam, căm thù Mẽo và chính quyền miền Nam vơ vét của cải, sau khi đất nước bị chia cắt. Khi, năm 1963, một nhóm đảo chính quân sự bắn chết tổng thống mất lòng dân Ngô Đình Diệm, ba thuộc số những người thấy trong đó sự lung lay của chế độ gia đình trị được Lầu Năm Góc ủng hộ. Cùng những người ngoài lề xã hội khác, ba ủng hộ Việt Cộng đánh bom, thề trung thành với Hồ Chí Minh. Ba nóng lòng được kề vai sát cánh bộ đội, những người đào địa đạo Củ Chi và, dưới sự chỉ huy của các sĩ quan được chuyên gia Liên Xô đào tạo, điều khiển Kalashnikov.

Quê đồng bằng sông Cửu Long, ba không quen nổi với cảnh huyên náo của thủ phủ xứ Nam Kỳ xưa. Ba lên án sự Mỹ hóa, thói tôn sùng đồng đô la ở đây. Ba đi học đại học được là nhờ một ông bác, chủ tiệm kim hoàn giàu có nhưng lại chẳng từ tâm đến mức cho cháu đêm chỗ đặt lưng ngày ba bữa cơm mà không đời có đi có lại. Trong căn biệt thự sang trọng nhà bác, ba làm tôi đời hầu hạ các anh họ, giặt đồ, là ủi, đánh giày, đi chợ, hầu bữa, quét nhà, dọn bể bơi khi bọn họ, đã no nê, tắm xong. Bọn họ làm ba thấy mình là thằng bần nông, vô tích sự, chỉ cho ba ăn cơm thừa canh cặn bữa tối và thảy sang ba quần sờn áo bạc. Bị sỉ nhục, bị sai thượng vàng hạ cám, ba đặt kỳ vọng vào sự lớn mạnh của một chủ nghĩa xã hội mang bộ mặt con người, vào sự thiết lập một xã hội nơi tiền không phải là Tiên là Phật.

Khi quen má, ba chỉ làm chân chạy bàn giấy cho một nhà xuất khẩu đồ sơn mài, ông này đuổi việc ba khi phát hiện các quan điểm cực đoan của ba. Lúc ấy ba đang mưu toan lôi kéo các nhân viên khác đi theo cuộc kháng chiến trường kỳ, phát truyền đơn kêu gọi người bị bắt lính ở miền Nam chống quân dịch vì lương tâm, nổi dậy chống lại các tầng lớp thống trị và quân chiếm đóng. Ba theo thuyết thiện ác phân ly thâm căn cố đế: bên này, kẻ xấu, bọn Yankee và tay sai để quốc, bên kia, người tốt, những người bị bóc lột cực nhục như tù khổ sai và những người yêu nước đầu quân kháng chiến. Ba tin tưởng vào chiến lược của tướng Giáp, người chỉ huy tác chiến của đoàn quân du kích toàn những phu phen, dân sơn cước giỏi tàng hình, chuyên gia chuyển hàng tiếp tế và khí tài đạn dược dưới mọi điều kiện thời tiết, chuyên gia đào hầm, ngụy trang ổ súng máy, chịu khổ giỏi đến mức đói khát, sốt rét, nhiễm trùng virus không quật ngã nổi, kiên định đến mức các đợt ném bom chiến thuật của Không lực Hoa Kỳ không làm cho nao núng, bởi họ nhớ lời Hồ Chí Minh về hổ và voi: Nếu như con hổ dừng lại thì sẽ bị đâm thủng bởi ngà voi sắc bén. Nhưng nó sẽ không dừng lại. Nó mai phục trong rừng rậm ban ngày, ban đêm mới ra khỏi rừng. Nó leo lên lưng voi, cào xé voi rồi lại biến mất vào rừng già tăm tối. Dần dà, con voi sẽ chết vì kiệt sức và mất máu.

Ba bảo vợ rằng các toán quân rách rưới ấy sẽ sớm chiến thắng để chế hùng mạnh nhất thế giới, như đã đánh bại các tiểu đoàn lính Pháp. Lúc ấy, ba sẽ ở phía các tông đồ tự do. Ba mưu tính ra Bắc, cùng những người khác làm phình hàng ngũ quân tướng Giáp. Có tôi đến trong nhà làm kế hoạch của ba đảo lộn, nhưng chẳng được bao lăm. Tôi còn chưa thôi nôi thì một buổi sáng đẹp trời ba biến mất, để lại thư xin má đừng nuôi lòng oán trách, ba đi theo tiếng gọi tổ quốc, chứ không thể sống đời mọn của một người cha bình thản trong lúc bom giội xuống Hà Nội ngày càng khốc liệt, máy bay Mỹ rải chất độc da cam, dân chúng bị tàn sát nơi làng mạc. Ba sẽ trở về khi đã góp phần thống nhất đất nước. Ba sẽ báo má hay thành tựu sự nghiệp nguyện ước, sự thăng hoa của ba, từ kẻ xác vờ thành chiến sĩ. Nhưng mười năm trôi qua mà ba vẫn bặt vô âm tín, cho đến cái ngày Chủ nhật tháng Chín năm 1974 ấy, tám tháng trước khi quân Bắc Việt tiến vào Sài Gòn, một người lạ mặt đến đập cửa báo má hay rằng ba, trở thành cán bộ Đảng, đã qua đời vì vỡ động mạch. Ba không được thấy lá cờ đỏ sao vàng năm cánh phấp phới trên các tòa nhà thành phố tôi. Ba không thấy sự hà khắc lập trường, kết án những người bị coi là thân hữu, cha mẹ con cái chỉ điểm lẫn nhau. Ba không thấy nạn đói ở miền quê, dòng người chen chúc trước các cửa hàng phân phối lương thực thực phẩm, không thấy các trại cải tạo và một bộ phận dân chúng ồ ạt bỏ trốn, đương đầu với biên phòng bờ biển và hải tặc khi lao ra khơi trên những con thuyền cũ nát quá tải.

Suốt thập kỷ chúng tôi bị ba bỏ rơi, họ hàng không ai cưu mang, xóm giềng dòm ngó nghi kỵ, họ đàm tiếu về ba từ khi ba theo Việt Cộng. Được tuyển làm phiên dịch, má giao tôi cho một vú người H’mong, ở luôn nhà chúng tôi, trông trong ngày. Vú người gầy đét, mặt rỗ hoa, rất mực tình cảm, vú dịu dàng ru tôi lúc cho tôi uống sữa Guigoz. Tôi sang tuổi ăn nhiều hơn, vú nấu rau muống và đồ xôi, hoặc làm nem và thịt kho tàu cho tôi. Khi tôi đi tướt, gập mình rên rỉ, vú hoảng hốt, chạy đôn đáo khắp các quầy ngoài chợ lùng mua cao. Vú đã ngoài bốn mươi nhưng chưa chồng. Dân H’mong, được người Pháp rồi người Mỹ tuyển làm thám báo, bị coi như giun dế, kể cả chỗ đám chống cộng. Sự kỳ thị nhè họ giáng xuống. Động ra phố là vú rúm lại. Vú bị cà khịa chửi rủa suốt, nên càng nem nép không dám mặc cả. Hàng cháo vống giá, hàng cá chặt chém tôm ươn, và vú im re. Tối đến, ở lãnh sự quán về, má tôi đỡ vú việc nhà, má giặt đồ, đánh nồi, cọ sàn, mạng quần đùi thủng của tôi, cắt may áo vải bông tốt cho tôi, trong lúc, dưới ánh ngọn đèn dầu lôi ra vì cắt điện, tôi ôn bài chia động từ. Sinh nhật tôi, hai phụ nữ vung tay bày biện mâm trên mâm dưới. Tôi ngốn pho mát Bò cười và sô cô la từ Pháp sang.

Được bảo bọc như thế, tôi lớn lên không đến nỗi quá u uẩn vì vắng bóng người cha mà bức ảnh trên tường thường xuyên nhắc là ba đã bỏ hai má con. Hồi chưa đi học và chưa nghe má giải thích vì sao ba ra đi, mỗi khi tôi nằm đời ba, má chỉ bóng mình trên tường, bảo ba ở đấy. Tôi ngạc nhiên có người cha đứng dậy cùng với má, làm cùng động tác với má, nhưng cứ lặng thinh và chỉ khi nào đêm đã xuống, đèn còn chưa tắt, mới xuất hiện.

Má tôi, suốt cả thập kỷ ba cắt đứt liên lạc với gia đình, tuyệt không có lời nào thốt ra vì chua chát hay xử sự thiếu đàng hoàng. Bị bỏ một mình với nách con nhỏ, má không than thân trách phận, cũng không vội tìm đàn ông làm chốn nương tựa. Má sống với ba có năm năm, nhưng những tháng năm ấy không thể phai nhòa. Đau đớn khôn nguôi vì mất ba, má sống cảnh cô phòng bằng một sức mạnh kiên cường.

Ba mà không thừa cơ lỉnh đi, khả năng tôi đã không học trường Pháp. Ba cổ xúy tiếng Việt văn Việt. Bất luận thế nào, ba cũng sẽ không chịu để tôi Pháp hóa hết mọi thứ, tập tục Pháp thì sành sỏi mà các trang sử bán đảo Đông Dương lại ù cạc. Tuy mặc quần bò và đi giày tennis, nhái giày thể thao châu Âu, tôi còn xa mới tính sao cọp dân khu Saint-Germain-des-Prés. Thế nhưng văn hóa của tôi xích tôi lại gần họ. Tôi mù tịt về Khổng giáo, nhưng am tường các phiến đá khắc mười điều răn, lơ mơ truyền thuyết Sơn Tinh Thủy Tinh, nhưng thông thuộc thần thoại La Mã, ca dao các bà các cô hát trên đồng cũng ú ớ nốt, nhưng những bài nghêu ngao của tụi yéyé(10) thì lại làu làu. Ba, gắn bó với phương Đông như thế, hẳn chết sững vì sự phát triển của tôi. Cùng với má, tôi bắt đầu nói tiếng Pháp. Vú nuôi đã về quê khi tôi lên tám. Tôi không còn phải dịch cho vú những từ đặc Pháp nhặt trong từ điển ra nữa. Má nhại giọng miền Nam nước Pháp, dạy tôi những từ phương ngữ kiểu như say ke, khật khù, khùng khí chuột… Má khuyên khích tôi đọc những tiểu thuyết đồ sộ xuất bản ở Paris, trích ra những từ thông tục và kiểu cách đặt thành câu cho chuẩn, thực hành tiếng với bạn học. Tôi làm chủ thứ tiếng ấy ngày càng tốt hơn, để tiếng mẹ đẻ cùn dần. Lên lớp 6, tôi đã tinh thông các bẫy liệt kê trong sách Grévisse, ngược lại vốn từ tiếng Việt của tôi mai một đi. Má tham vọng về sau cho tôi vào trường Sorbonne, nếu tôi giành được học bổng. Má bảo đầu ra trong nước bị bít kín rồi, kể cả có giá trị đi nữa tôi cũng sẽ chẳng mảy may sở đắc cơ hội ươm trồng tài năng. Ở Việt Nam khới lửa, mọi sự bấp bênh, má chẳng đời nào chưng tôi ra để tôi bị vứt bên lề, giống như ba, ba thì vì chính trị làm cho ngất ngây đầu óc, tôi thì bởi học hành không tạo cơ hội được lĩnh trách nhiệm xứng tầm khả năng.

Nhìn đại thể, cho tới lúc Sài Gòn thất thủ, chúng tôi không đến nỗi thiếu thốn. Má xoay đủ để trả nợ cầm cố, đóng tiền học, sơn lại cửa rả và soạn cỗ Tết. Thậm chí chúng tôi còn có thể tự ban thưởng những thú vui nho nhỏ, như đi nghe nhạc kịch. Dĩ nhiên, tôi không có xe đưa đón đi học như hầu hết học sinh trường Pháp. Má lai tôi bằng xe đạp. Tôi xin má thả tôi cách cổng trường vài phố để khỏi bị nhìn thấy đang từ trên một chiếc xe cọc cạch han gỉ tuột xuống. Tôi bịa vung tí mẹt với mấy đứa bạn, rằng ba làm tổng giám đốc một công ty ở Hồng Kông, ba đã đặt kiến trúc sư thiết kế một tòa biệt thự chúa hách để đón má con tôi sang, ngay khi nó xây xong. Những lần khác, tôi lại xướng ba là phi công dân dựng, chàng gà trống đốt mắt các nàng tiếp viên, hoặc ba là một kiểu giáo sư Tournesol, thiên tài khoa học phủ đầy vòng nguyệt quế. Tôi chẳng cho được mống nào vào tròng nhưng cứ dốc thêm mắm thêm muối. Tôi mới mười tuổi, và không muốn thừa nhận ba đã bỏ rơi hai má con. Tôi gần như nhẹ người khi hay tin ba chết. Phận con côi hợp với tôi, tôi có thể sắm vai âu sầu, dù không có khán giả, bởi những tháng người Mỹ rút khỏi Việt Nam, lớp tôi vơi dần học sinh, ba má tụi nó, đi trước một bước, phòng trường hợp Việt Cộng tiến vào Sài Gòn, đã bỏ trốn sang Xiêm hoặc Sing.

Về ngày 30 tháng Tư năm 1975, tôi chỉ có dăm ba hồi quang: trực thăng quần đảo trên tòa Đại sứ Mỹ, nơi hàng ngàn người đăng ký di tản tìm mọi cách tháo thân. Những người khác, hoảng loạn tột cùng, leo lên boong tàu tuần tra ngoài khơi… Trong khu phố tôi, dấu hiệu duy nhất của những trận đánh khốc liệt quanh Sài Gòn là tiếng pháo gầm xa xa. Dân tình rúm ró song không có gì báo hiệu thành phố sẽ phải đón chào những kẻ thắng trận. Với nhiều người, thái độ tốt nhất là wait and see. Có cần nghĩ đến sự trả thù của bộ đội không? Công chức chính quyền cũ không kịp bay ra nước ngoài hủy mọi dấu vết phụng sự mẫn cán và liêm chính của mình. Họ sợ nhủn bị liệt vào thành phần phản động.

Ba năm sau ngày Mỹ bại trận, là thời khốn khó. Nhiều người, nhà cửa bị tịch biên, được đưa lên vùng kinh tế mới khai khẩn đất rừng. Bốn giờ sáng, má con tôi dậy xếp hàng trước cửa hàng mậu dịch. Sau khi chờ ngỏng cổ, chúng tôi mang về gạo tấm, hai lạng đường và ít dầu ăn, Thời buổi thắt lưng buộc bụng, thóc cao gạo kém. Nhưng mọi tâm trí đều bị ám ảnh vì rắc rối biên giới Tây Nam, đang khiến nguy cơ xung đột bay lơ lửng. Khmer Đỏ đã thổi bùng lên ở người Campuchia lòng căm hận truyền đời với người Việt, mà lãnh đạo, viện cớ giải phóng láng giềng khỏi Pol Pot và nạn diệt chủng, có thể bất ngờ tấn công trừng phạt. Má sợ tôi bị gọi nhập ngũ, dù tôi mới mười lăm tuổi. Từ mùa thu 1975, tôi học ở Viện Pháp, nhưng má lo tôi, giọng điệu Paris như thế, làm sao tìm được chỗ đứng trong xã hội mới, nơi người vọng ngoại bị dán nhãn phản động. Má vẫn chưa từ bỏ ý định tranh thủ các quan hệ ở lãnh sự quán để tôi có thể thuộc diện nhập tịch Pháp được hồi hương.

Một ông đại biện tạo điều kiện cho má và, năm 1978, lúc ban bố lệnh tổng động viên và Việt Nam sắp sửa bao vây Phnom Penh, má xin được, nhờ lo lót, Visa đi Paris cho tôi. Ông đại biện, chuẩn bị về nước, nhận giám hộ và nuôi tôi ăn ở ngay khi tôi đặt chân xuống Roissy. Thế là tôi thoát phận thuyền nhân, lèn như nêm trong những con thuyền ọp ẹp lênh đênh trên biển. Tôi ý thức được vận may của mình và không nghi ngờ mình rồi sẽ là niềm tự hào của má khi trở thành sinh viên sáng giá, biết đâu còn thuộc số nghiên cứu sinh về Mallarmé, đắm đuối chú giải thơ tượng trưng. Sớm thôi, tôi tự nhủ, tôi sẽ tung tăng trên khu phố Saint-Germain-des-Prés, lê mòn gót giày ở Thư viện Quốc gia, ở bảo tàng Louvre, nhởn nhơ dưới những hàng cột Cung điện Hoàng gia… Tôi quên là mình sắp phải từ biệt má. Má sẽ tiếp tục cuộc sinh tồn nhọc nhằn, ở một xứ sở chịu cấm vận và lệ thuộc viện trợ Liên Xô, trong lúc tôi tận hưởng những vui thú của một cuộc đời, tôi cứ ngỡ vậy, dồi dào mọi thứ.

Sylvère, giám hộ tương lai của tôi, vai đủ rộng để, ngoài hai thằng con sinh đôi, gánh thêm tôi. Sưu tầm tem, mê bóng đá, fan cuồng ban nhạc The Doors, ông đã phiêu bạt khắp nơi, bôn ba từ Dakar sang Phuket, từ Zanzibar đến Brasilia, trước khi vào ngành ngoại giao. Ông nói tiếng Việt kém, nhưng ít ra cũng đã cố gắng học với một người Sài Gòn. Ông nhận nuôi tôi liền, và hoàn toàn thật lòng khi hứa với má sẽ nâng bước tôi ngay khi tôi đặt chân lên đất Pháp. Ông đề nghị làm, trên mức giám hộ, cha đỡ đầu của tôi, và lo cho tôi, khi đã tốt nghiệp, có đủ cơ hội tham gia các nhóm văn nghệ khép kín nhất, bằng cách làm gà nòi của một giáo sư đại học. Hai thằng con ông, đến thi lại cũng rớt như đất cục, thì lười thối thây, và thuộc dạng ăn chơi phá gia chi tử, vì được cha chu cấp. Đã qua hai mươi, tụi nó chẳng còn tuổi ngửa tay xin vài ba đồng, thế mà lại thường xuyên nã tiền cha. Thời gian sống ở Việt Nam, tụi nó chỉ dành thì giờ đánh quần vợt cho bớt mập, đến thợ may thửa đồ, cua gái và tự phụ đã đốn ngã nhiều út, hút thuốc phiện và lượn lờ những tụ điểm nóng ở Chợ Lớn, đúng kiểu giai thực dân bê bối với gái bản xứ chỉ để đú đởn. Cha tụi nó là người phải đi trả nợ, điều đình với gia đình mấy cô dính chàm vì tụi nó, với chủ các sòng bạc tụi nó thiếu tiền. Sau năm 1975, miền Nam Việt Nam hết là thiên đường ăn chơi, tụi nó cuốn gói, dông về Paris, và lao vào cuộc sống phóng đãng. Chán ngán vì hai thằng con đốn đời, Sylvère coi tôi gần như con đẻ, dù chẳng hé một lời, truyền lại cho tôi bốn phẩm hạnh cơ bản của mình. Can đảm, công bằng, tôi không thiếu, còn khôn ngoan và tiết độ thì lại là chuyện khác.

Ra sân bay, một tiếng trước khi lên máy bay, tôi mới được giới thiệu với vợ Sylvère: đó là một phụ nữ tóc hung gầy ngẳng, tướng hơi đàn ông, tóc tém, mắt xanh lục sinh động, giọng ồm và nụ cười không có vẻ quá gượng gạo. Bà soi tôi từ đầu xuống chân, kiểu lái buôn đánh giá ngựa tồi. Tôi đỏ lựng như gấc, những muốn độn thổ. Tay xách ba lô, tôi lúng búng mấy từ cám ơn, kiểu nhóc con rộn lòng được đi chơi xa, mặc dù vừa mới ghì lấy má mình lần cuối và sẽ biệt xứ rất lâu. Trong túi tôi chỉ có vài cái áo gi lê mặc lúc giao mùa, áo polo và quần vải thô. Mà ở vùng Île-de-France tuyết lại đang rơi, Sylvère bảo, khuyên tôi mặc lồng nhiều áo len để khỏi bị cảm.

Tôi lưu trong ký ức những hình ảnh minh họa của giáo trình Boscher: căn phòng rộng sáng choang, ánh lửa sưởi bập bùng, cây thông kết hoa, những món quà gói giấy sặc sỡ và, ngoài trời, chú người tuyết, lũ quỷ lùn trên xe trượt… Suốt thời gian dài, mỗi lần tôi hình dung châu Âu, những cảnh nhà ấm cúng ấy lại trở về với tôi. Chắc tôi rồi cũng sẽ có một nếp nhà dễ chịu như thế, nhưng tôi sẽ không còn má bên mình. Má ăn nay lo mai, trong lúc tôi ngoạm số tiền ít ỏi má gom được và may vào lớp lót áo khoác cho tôi. Mười lăm tuổi, tôi ra đi không mong vọng ngày về. Dẫu vậy, tôi không hối tiếc đã rời bỏ quê hương. Thế giới bao la mở ra trước tôi, tôi sẽ vượt lên trước dân Pháp gốc khu La tinh, tôi sẽ cho những đứa xuất chúng rớt dài, sẽ giải quyết ngon ơ những bí ẩn triết học, sẽ có một hành trình vô song… Chìm vào các dự liệu, tôi xóa bỏ hiện tại: má không còn một xu dính túi, má đã vét sạch nhà cửa lấy thị thực cho tôi, cắt giảm nhân sự ở lãnh sự quán có thể khiến má bị sa thải, má không còn đủ nhanh nhẹn để đạp xe, sức khỏe má suy sụp vì ăn uống kham khổ, má suy nhược, mắt má kém đi, không ai phụ má, cả bác tôi, vẫn tiếp tế cho chúng tôi dịp Tết, cũng ngừng ghé thăm, má phải nhờ cái thế vợ góa cán bộ mới không bị, giống xóm giềng, đuổi ra khỏi căn nhà cứ vào mùa mưa là dột. Bốn mươi hai tuổi, má không còn một chốn nương tựa. Nhưng tôi làm được gì cho má đây? Trở lui và bảo mình sẽ ở lại với má ư? Sau mọi sự chạy vạy của má cho tôi rời khỏi đất nước ư? Mà rồi, tôi đã tính, một mai trưởng thành, tôi sẽ đón má sang Pháp. Đến lượt tôi nuôi má. Tôi đâu ngờ số phận lại an bài theo hướng khác, sự biệt ly của chúng tôi là vĩnh viễn.