Laure
Ta ngủ được một tiếng. Tiếng bíp điện thoại đánh thức ta. Là Tommy gửi tin nhăn: “Ổn chứ, cưng?” Hắn lôi đâu ra cái lối xưng hô âu yếm ấy không biết? Hắn lo quăn đít vì chiều qua ta lỡ bỏ bom hắn. Ta oải, ta đi nằm và khò như lợn. Mở mắt ra trời đã gần tối. Ta rùng mình, mồm khô, ê ẩm khắp, cứ như bị cúm. Ta vào bếp, pha cho mình rượu trắng với nước nóng, chanh, đường và lại rúc vào giường nằm đọc một cuốn manga. Lou chưa về, bả phải hỏi luật sư một vài điểm chi tiết. Ông ta có cái họ đầy hứa hẹn: Dieuleveult(12). Với cái họ đó mà ông ta không áp đặt ý mình và không cứu được Lou thì có mà thế giới này lộn ngược.
Chả hiểu quái gì truyện manga, ta rã rượi và họng rát bỏng khi nuốt nước bọt. Rượu pha nước chanh đường chẳng làm ta ấm người, ta chồng hai chăn lông lên mình, nhưng vẫn sun người. Thế là, ta lại dậy, ngâm mình trong bồn nước nóng, mà sau đó cũng chẳng bớt oặt. Ta chơi chiếc sơ mi ca rô của Văn thay cho chiếc twin-set đang mặc và một áo thể thao. Ta bơi một chút trong sơ mi, Văn vai vuông hơn mà mặc còn quá rộng nữa là. Mặc trên người cái giẻ cũ rích của ổng thì có cảm giác đang gần ổng. Ổng thể nào cũng cười nếu nhìn thấy ta cho coi.
Ta chưa từng là đứa con gái rượu sao cóp cha mình, thấy mọi điều cha làm là khủng. Ta liệt ổng vào số lão thành, ổng lúc nào cũng nhai đi nhai lại mấy giai đoạn anh hùng thời ổng còn sống ở Sài Gòn, nơi ổng chứng kiến cuộc chiến. Ta chán ngấy những bài ca niên sử ấy, nhưng đếch bảo ổng thay đĩa, như thế thì cà chớn quá. Có đầu bò đầu bướu đi nữa, ta cũng chẳng xử sự với ổng như một đứa mất dạy, chẳng gọi cha mẹ mình là “các cụ vía”. Thỉnh thoảng ta cũng cỏ kiếc đấy, có những chập cũng dán mắt vào ti vi coi phim bộ đấy, lơi bài ôn tiếng Đức, bơm đáp án trên Net, thay vì đọc Tu viện thành Parme thì tải những bài hít, chúi vào web để biết có gì trong thế giới blog. Ta suốt ngày ôm điện thoại, chat với Tommy, trong khi còn cả đống bài chưa làm. Ít ra ta không dốt chính tả, phải cái tội lạm dụng từ Pháp mượn Anh, và Văn không chịu nổi điều đó. Khi tây tây, ổng nói với tư cách “nhà vô địch giữ gìn tiếng Pháp”, ổng là kẻ ngoài hành tinh. Ông nhồi vào não ta những từ dở hơi, đếch phát âm nổi hoặc has been toàn tập luôn. Ta sử dụng chúng linh tinh. Tommy nhắc lại: “Kái giề? Kái giề? Nói kểu giề thía!” Ta tắp lự tránh nói như sách, nhất là cứ nhầm loạn xì ngầu, chữ tác ra chữ tộ. Với Tommy, từ này hay từ kia cũng thế cả thôi, hắn đếch phân biệt nổi. Văn vò đầu bứt tai mỗi khi ta tương từ này chứ không phải từ kia. Ta nào dốt đặc cán mai. Trong máy tính, ta lưu cả đống thành ngữ, thơ xon nê của Shakespeare, đấy là chưa kể kho từ cũ khỏi dùng thì hơn. Văn gợi ý ta viết nhật ký để có văn phong ra trò và luyện suy nghĩ về bản thân. Cho tới đêm qua, ta chưa từng đụng vào cuốn sổ tay ổng mua cho. Trước khi để bút dạ lướt trên giấy, ta đã gài vào giữa các trang mấy bài báo Văn cắt cho. Đó là những bài trào phúng, xã luận thể hiện quan điểm chẳng lọt tai, phỏng vấn những kẻ nghĩ khác người, chân dung khiêu khích. Ta đã xếp xó chúng đếch buồn lướt xem. Ta chỉ liếc mắt đến sau khi mai táng Văn. Ổng đã cố cho ta thông tin, vì ta mù tịt thời sự. Ta lúc nào cũng có vẻ trên trời rơi xuống khi ổng nói về bầu cử, những phần tử phát xít đội lốt cộng hòa, hậu quả của toàn cầu hóa, hay khi ổng ngược về xa nữa, về những năm tháng mà Badinter cho bỏ phiếu biểu quyết bỏ án tử hình.
Những tháng trước, ổng lúc nào cũng mang theo người những lá thư của Rosa Luxemburg. Hình như là, trong nhà tù ở Breslau, bà thường quan sát chiền chiện và sáo đá. Bà thường đọc những tác phẩm về sự di trú của loài chim và yêu cầu bạn gái của Karl Liebknecht tới Vườn bách thảo tìm một lời giải thích cho sự trở về sớm của lũ sơn ca và chim hét, thường cất tiếng hót từ khi tờ mờ sáng. Văn giữ lòng cảm mến đối với tất thảy những bộ óc khét tiếng đấu tranh chống phản động. Ổng vừa là bác sĩ Jekyll, một người cha thanh thản, hơi hoài cổ, vừa là ông Hyde thót tim, đáng lẽ đã theo trường phái vị lai nếu Marinetti không ngoặt sang Mussolini, kẻ không chừng gia nhập Liên minh cách mạng nếu không hoài nghi “thuyết cứu thế”. Ông nói rằng cái lũ tiếng là ân nhân của dân đã làm hỏng những cuộc cách mạng. Từ Đông sang Tây, chỉ toàn vỡ mộng, những người phát ngôn cho sự không phục tùng lý tưởng trị bị khóa miệng, những người lý tưởng chủ nghĩa bị trừ khử. Ta ghi lại nguyên văn tuốt tuột những lời của Văn. Ngay lúc đó, ta đếch nạp được một nửa của nhiêu đó, nhưng chúng vẫn khắc trong cái sọ đãng trí của ta. Nhiều khi, trên lớp, ta lấy lại ý ổng để lòe thầy cô. Nhưng ở nhà, ta giả điếc, hoặc một đứa chậm rì trì độn nên đếch thu nhận được hết.
Văn nào phải ba hoa xích tốc. Nhưng khi người ta bàn luận với ổng về các hội chính trị, ổng nổi khùng. Theo ổng thì đó là cái chợ vỡ. Những cuộc tranh luận của ổng với Hugues và Rachid toàn viển vông, bọn họ chưa bao giờ cùng quan điểm về những kẻ bá đạo cánh tả. Một người thì từng theo Mitterrand, người thứ hai thì càng ngày càng chống tư bản, người thứ ba là Văn thì có vẻ luôn chống đối. Người nào cũng ngoạc mõm, chửi nhau phăm phăm, rồi lại làm lành quanh ly rượu. Và vài ngày sau, lại đâu đóng đấy! Bọn họ lại vắt óc, nhưng đếch cho ra được quái gì, có chăng là quạc tới quạc lui không hồi kết. Lou và ta tính điểm. Bả chỉ can thiệp hòng đưa họ vào khuôn khổ khi bọn họ có những nhận xét kiểu của đám gạo cội luôn cho rằng tuốt tuột vuột ráo trọi. Thế là, bọn họ hợp nhau lại chống bả: bả đếch hiểu quái gì, bọn họ có cái nhìn đúng đắn về sự suy tàn của châu Âu. Họ như chó bulldog đối đầu với bả nhưng dù bị tấn công tứ phía, bả cũng chẳng để bị đè đầu cưỡi cổ. Bả coi họ là “Saint-Just(13) củ chuối”, khi đuối lý thì bả chặn họng họ bằng tiếng thét “Đồ ngu!” váng óc, bả tống cổ Hugues và Rachid khỏi nhà để chấm dứt luận chiến, và suốt một tuần liền, mặt sưng mày sỉa. Ta thì có những cảm xúc trái ngược, ta thu lượm những khái niệm chính trị sơ đẳng, ta nhặt nhạnh những tên họ hạng VIP mà Văn gọi là “Vô cùng I tờ Phớt lờ”(14), cụm từ ổng lấy lại của ai ta chẳng biết, nhưng thường xuyên, ta ngán tận mang tai những trò hại não ấy.
Hugues và Rachid chỉ còn đến nhà bọn ta năm thì mười họa. Chấm hết những tối xôm tụ. Chiều tối, chỉ còn hai bọn ta, Lou và ta, bả cho ta ăn món nho ki và rau xào thập cẩm. Ta vác bộ mặt đưa đám, bả sợ rốt cuộc bị tù. Nhà cửa im ắng như một nấm mồ. Giọng Văn chẳng còn vang lên ở đây nữa. Cái cười của ổng chẳng còn khiến bọn ta vui nữa.
Làm thế nào Ulma đoạn tang được đây? Đến nghĩa trang Bobigny ư? Đến nhà thờ khấn nguyện, như Văn vẫn làm, vì tuy không theo tôn giáo, ổng vẫn cảm ơn các đức thánh bảo hộ đã cho phép họ gặp nhau ư? Đến Old Navy, tổng hành dinh của ổng và Hugues, thời họ ở khu tả ngạn ư? Đến Viện tư liệu phim khu La tinh khi có một buổi chiếu lại mà ổng đã chầu chực ư? Đến hiệu sách L’Harmattan để lục lọi và đem về những bản dịch mà có đọc thì ổng cũng chớp nhoáng ư? Đi Douarnenez, noi theo ông Grimaldi, mụ và Văn đã đến chiêm ngưỡng tượng đài tưởng niệm Max Jacob ư? Ăn tối ở quán Hàn Quốc trên phố Ciseaux nơi họ thường lui tới, vẫn theo báo cáo của thám tử? Ấn định rệp đính những tấm hình của họ lên bảng ư? Đọc mail và thư từ của Văn ư? Mua những cuốn sách ổng khuyên đọc ư? Hay những cuốn ổng đã biên tập? Bày quanh mụ mấy đồ ba lăng nhăng, chiếc bật lửa, chiếc khăn che nửa mặt, găng tay, mấy hộp thuốc lá, cuốn sổ địa chỉ, mà ổng đã để ở chỗ mụ ư? Hay, ngược lại, cho biến tất tật những gì gọi nhắc Văn? Vứt đi những tạp chí ổng tặng ư? Những CD của Sibelius ổng nghe thời gian qua ư? Những file dữ liệu về họa sĩ Soutine, vị thánh của ổng, mà ổng đã chuyển cho mụ ư? Chạy từ Ostende đến Budapest, từ hồ Côme đến Istanbul, để rời xa những nơi đầy ắp kỷ niệm ư? Nuốt thuốc an thần ư? Rồi thuốc tăng lực để nhìn cho rõ cái hũ nút, ý ta muốn nói vụ tai nạn và vấn đề mờ ám kéo theo? Xử lý chứng rối loạn giấc ngủ để quên tuốt tuột? Tìm trong đống truyện một cách chạy trốn?
Ta không thể nghĩ đến mụ mà không cảm thông với nỗi đau của mụ. Ta không thể nghĩ đến Lou mà không xanh mặt cho bả, vì khéo ngồi tù chứ chẳng chơi. Ta không thể nghĩ đến Văn mà không ngấn lệ vòng quanh, vậy thì, để khỏi nhai đi nhai lại nỗi buồn, ta trau câu chuốt cú của mình, như thể ổng đọc qua vai ta. Ta mút cây bút dạ, động não cho tới khi tìm được thứ từ ngữ không phải ngẫu nhiên phun ra được. Văn đâu nhầm nhọt ra trồng trọt khi hối ta nhào luyện chất xám và ghi lại cảm tưởng của mình. Đã phải có một thảm kịch mới khiến ta quyết định mở sổ này ra. Ta phải dựa trên những sự việc đã xảy ra, phải khách quan, chớ phân phải trái Lou và Ulma. Nào có ngon ăn gì cho cam, ta là lính mới trong cái bài tập khiến ta lao tâm khổ trí này. Văn thấy ta thiếu điềm tĩnh quá. Thường xuyên, ta bắng nhắng như nhặng vào chuồng tiêu, ta lên những kế hoạch cứt, không có nổi một gam tính kiên trì, ngoài những lúc chụp hình. Ta có một con Polaroid cũ và một con phản xạ gương kỹ thuật số. Ta chụp phố Vertus, hẻm Désir, những galery thương mại giờ đóng cửa, ngõ cụt với phế thải, xe ben, mặt tiền loang lổ, sân bãi hoang phế, tòa nhà phá dỡ, cửa kéo sắt vẽ nhăng cuội, cần cẩu trên công trường, biển chỉ đường, cabin điện thoại bị phá, ngã tư không một mông người, cây cối trơ trụi…
Văn khuyến khích ta chụp nhiều ảnh đen trăng hơn nữa. Ông nói ta có khiếu, rằng ta có con mắt của họa sĩ tân hiện thực. Với quả máy đeo chéo vai, ta đến các khu xa để gióng khung hình cho thấy cái phản cảm của thành phố, những tòa nhà thiếu mỹ quan, những mặt đường lỗ chỗ ổ gà do búa khoan, những ngoại ô với nhiều tổ hợp lớn mọc lên như ung nhọt. Không biết ở đâu ra cái định hướng đưa ta về những thứ chẳng đẹp quái gì. Ta chưa bao giờ chụp phong cảnh kiểu bưu ảnh, kiểu toàn cảnh kỹ thuật phim màu. Khi ta về nông thôn cùng Lou và Văn, con Nikon cứ nằm yên ở đáy túi. Ta khoái mặt đường đá dăm nện, những đại lộ thẳng tắp, những biển hiệu nhấp nháy, những công viên với thảm cỏ thiếu tay người chăm sóc, những tháp kính, những bãi đậu xe ngầm, những xe cộ vun vút trên ngoại vi thành phố, những trạm xăng, như trong hội họa của Edward Hopper hơn. Văn cũng là người Paris trong tâm hồn. Những bãi cỏ, những sườn đồi, những nhà nghỉ nông thôn, đó đâu phải món của ổng. Đi Provence để hít thở không khí trong lành, nhưng ổng thấy chán ốm, và dù sao ổng phì phèo nhiều đến mức hủy sạch tác dụng tốt của tí không khí trong lành hít được. Trong khi Lou chạy bộ thì ổng ườn trên giường, trong khi bả tập thể dục thì ổng uống vang hồng, trong khi bả đi xe đạp trên đường quê thì ổng giam mình trong phòng tối chiếu phim hoạt hình của Svankmajer. Nhiều khi gần sáng ổng mới đi ngủ, lúc bả trở dậy. Ông bạ giờ nào cũng ăn, chủ yếu là thịt heo và món có xốt, bả thì luôn ăn trưa xoẳn mười hai rưỡi, rau hấp, và tối ăn nhẹ. Giờ giấc của họ chẳng trùng nhau, họ không cùng sở thích. Lou khoái những điều người ta nói, Văn thấy hai phần ba tác phẩm hiện đại đáng mửa. Bả bảo ổng là thông thái rởm và ngoài vùng phủ sóng, ổng đáp trả rằng bả mắc lừa dân viết văn thịnh hành. Ông chẳng bà chuộc, từ rất lâu trước khi Ulma xuất hiện cơ.
Ta gõ một tin nhắn cho Tommy: “Đang đèn đỏ. Chả muốn gì. Chỉ muốn khò. Mà đếch ngủ được. Em ới anh chiều nay nếu bớt oặt.” Xong được một việc. Tommy là người anh trai mà ta không có. Ta chẳng muốn là con một, muốn lớn lên trong một gia đình đông con, có anh chị em chơi cùng, có thể tổ chức đập phá ở nhà, đồng lõa chơi bời cả đám, xực những chầu fast-food. Ta thường xuyên đếch có ai, nhồm nhoàm hamburger. Nếu không có Tommy, ta sẽ cô độc lắm. Với cái mào gà của hắn, cái khuyên tai trái, cái vòng đinh cổ tay, quần baggy tả toi và áo T-shirt rất chi flashy, hắn có cái look kinh dị vãi. Ta đáng ra cũng có vài con bạn đấy, nhưng bọn con gái lớp ta ngố quá đi. Đứa thì hăng máu, đứa thì sên bò, fan nhạc pop ẽo ẹt. Giữa những đứa cực mốt và những đứa đánh toàn đồ rẻ tiền Tati, giữa những đứa dáng dấp con trai và những đứa giày cao gót nhọn, giữa những đứa giơ tay tắp lự khi thầy cô hỏi bài và những đứa bị đánh trượt thi thử tốt nghiệp, giữa những đứa trong tốp đuôi và những đứa được chỉ định thi học sinh giỏi toàn quốc, ta quen đủ loại. Nhưng ta chẳng nhịn đứa nào trong số búp bê Barbie ấy, ăn mặc đếch ngửi nổi kiểu váy cổ lá sen, thồn thộn và ngô ngố. Hồi bé, thỉnh thoảng ta mời một đứa đến nhà, lần nào cũng hỏng. Phòng ta không đủ xinh xắn cho chúng nó, thùng đồ chơi của ta quá tồi tàn đối với chúng, thú bông của ta quá cáu bẩn, ba con khỉ đất nung quá tởm lợm, bọn chúng nhăn mũi trước những tranh áp phích, dãy xương rồng, bể cá vàng của ta. Chúng đếch khoái các trò chơi của ta. Khi thắng ta trò xếp chữ thì chúng tinh tướng, khi thua cờ đam thì chúng cay cú, đời về. Chúng không nếm món nem Lou rán vàng mà đời gà nugget chiên giòn. Chúng nói rằng mẹ chúng là siêu đầu bếp, cha chúng là siêu nhân. Ta nhanh chóng ngán tận cổ, đếch mời chúng đến nhà nữa.
Lou tiếc rằng ta không có bạn gái, rằng ta không đi sinh nhật bạn bè. Cho tới lớp 5, ta đếch chịu thuần dưỡng, nhưng vẫn là học sinh khá. Chỉ sau này ta mới bắt đầu có điểm dưới trung bình, trừ tiếng Pháp. Ta đếch ngửi nổi bọn khôn lỏi, những cún cưng của thầy cô. Ta bật lại ngay nếu ai so sánh ta với bọn chúa toán, với đám cán bộ lớp đạt điểm cao dễ như trở bàn tay. Đến lớp 7, ta đội sổ, không thuộc bài, năm lớp 9, tiếng là có bằng tốt nghiệp đấy, nhưng rít rìn rịt, lên lớp 10, giờ học với ta dài lê thê, ta chỉ có một sự vội: vội nghỉ hè và dành phần lớn thời gian cho chụp hình hoặc tải nhạc techno.
Ta học mọi thứ có trong lời nhạc của đám nhạc sĩ nổi loạn. Văn chỉ nhìn thấy ở đó “cái mót được từ thuyết hư vô”. Ta đâu bắt ổng nghe những sưu tập của ta, mà muốn đầu óc ổng thoáng hơn, muốn ổng khoái những thứ ta ấp ủ. Ta bóc tách ra trò những bài đọc lôi cuốn ổng và thường đầy câu rắc rối đấy thôi. Ta có thuật nhớ để tống vào góc não một số thuật ngữ. Sở thích của Văn đối với mẫu câu cũ đúng là thứ bệnh truyền nhiễm. Ta thêm mắm muối cho những bài kiểm tra của mình, thường là những câu chắp vá, với những từ mượn chỗ này chỗ kia.
Ta chưa bao giờ viết nhiều như thế từ đêm qua. Ta luyện tay trước bài soạn văn ngày thứ Hai, về chủ đề “sự vắng mặt”. Hứa, thề, ta sẽ phát tiết tối đa, sẽ chọn những động từ mạnh, chẳng dừng lại ở bề ngoài sự vật, mà đào sâu, để thấy được cái tinh túy. Sau những chuyện đã xảy ra, ta chẳng thể nào xử lý nổi một cách trừu tượng chủ đề về sự vắng mặt. Văn đi rồi, ổng đã rút khỏi cuộc chơi, hay nói chính xác hơn, Lou đã loại ổng khỏi đội bọn ta. Ổng chưa đến năm mươi, và ổng như sống lại khi có cùng bước sóng với Ulma. Lou đã chấm dứt mọi chuyện. Điên lên, bả tung hê tuốt.
Ở nhà xác, Văn có khuôn mặt một tu sĩ thánh thiện. Môi tím tái, da xanh màu ô liu, nhưng nét mặt có sự thanh tao. Ổng có vẻ nhẹ bẫng, như một nhà du hành vũ trụ lao vào không trung giữa các vì sao. Ổng chết bất đắc kỳ tử và không kịp nhận diện nữ quái xế đã triệt hạ ổng cũng nên. Miễn sao, từ thế giới bên kia, ổng đừng rủa Lou. Chẳng thầy pháp nào xua tà đuổi ma ổng được cũng nên. Ta thấy khắp nơi những dấu hiệu: con số 13, mèo đen, muối vương vãi, dao dĩa xếp thành hình thánh giá, tất tật đều mang điềm gở. Ta tránh đi dưới thang, tránh đặt mũ lên giường, tránh mở ô trong phòng ngủ, ta chắc chắn rằng người chết có nợ nần cần thanh toán với người sống, rằng Văn, bị hai nữ thần địa ngục áp tải, sẽ đến đời công lý. Ta vốn hay buồn ngủ, mà giờ đếch ngủ được dù một giấc ngăn. Khi ta tọng Stilnox, đêm đầy ác mộng: ta bị sa vào cát lún, cùng Lou ta đi một con tàu trật đường ray, thầy cô của ta mặc áo bờ lu vấy bẩn, đang khoan ta, lũ con gái cùng lớp, trong giờ giải phẫu, đang thịt ta, những tấm hình của ta nhuốm máu, ta chẳng tìm lại nổi đường về nhà nữa, ta lạc trên phố phường của một thành phố chẳng tồn tại trên bản đồ nào, ta đi tìm Văn, người đã biến thành thể dạng khác, ta ba chân bốn cẳng trốn mà chẳng thể cắt đuôi khỏi lũ chó doberman đang đuổi ta, ta tóm lấy cổ Văn, nhưng ổng biến thành ngọn đuốc sống.
Lou bảo ta phải tập thái cực quyền, chả gì hơn một chút thể dục, làm sạch thể chất rất tốt cho việc làm sạch tinh thần. Đúng là ta sập nguồn đuỗn máy. Ta việc hôm nay để ngày mùng thất, làm với vận tốc sên bò. Chỉ trên giường là ta thấy khỏe, lúc kết nối với những trang nhạc, đọc blog của tác giả truyện tranh, hoặc khi tút tát những tấm hình ta chụp. Ta có nhiều hình của Văn, chụp từ sau lưng, đóng quả áo da đen cũ rích. Tóc cắt trụi thùi lụi, điếu thuốc trong tay. Ổng đứng thẳng như chữ I. Thứ Hai tới, khi lên thớt với đề tài gây hứng cho ta do thầy giáo tiếng Pháp ra, ta sẽ bắt đầu bằng miêu tả những tấm hình này để kể sự vắng mặt. Ta đắn đo có nên gửi một tấm đến địa chỉ của Ulma không, cái tấm chụp Văn ngược sáng, đếch phân biệt được ổng với một khối đen, tưởng chừng như ổng bốc hoi. Ta đã không dám nối liên lạc với Ulma. Lou sẽ phật ý cho coi. Và Ulma rồi sẽ không hiểu vì sao ta gửi mụ những tấm hình tự động đó. Chúng được chụp thời Văn chưa nhận thư mụ. Thế nên lúc đó không có quá nhiều va chạm giữa Lou và ổng. Phiền mụ ích gì? Mụ đã quá bị xáo trộn rồi. Để không down quá, mụ chớ có chắt chiu nâng niu các di vật.
Văn đã để mọi thứ trong một sự lờ mờ kiểu nghệ thuật. Ổng lý tưởng hóa Ulma song chẳng coi Lou là ngốc, ổng làm đẹp cho cái xấu trong love story của ổng với Ulma và chơi bài mập mờ đánh lận con đen khi Lou vờ nói sai chài sự thật. Ổng đâu nhận thấy mình lợi cả đôi đường. Ông chơi ú tim với bản thân và không dứt khoát. Có lẽ Lou trách “thói hư tật xấu”, như bả thường nói, ít hơn là tính thiếu quyết đoán của ổng. Ông đếch rõ ràng lắm, nhất bên trọng nhất bên khinh, nhất là liên quan đến ta. Ổng không phải mẫu hình tự giác, song lại chê ta thiếu chuyên cần. Thường xuyên chẳng cho ra được quái gì, song ổng lại bảo ta chớ ăn không ngồi rồi. Ông muốn ta là máy ủi phằm phằm, trong khi nhiều lúc ổng nhũn chân thân ì. Ta giống ổng ở cái xu hướng ngủ đông. Một số thời kỳ, ổng làm việc phăm phăm, nhưng có lúc lại cày cuốc thất thường chẳng màng deadline. Ổng lướt các mục báo, luôn tìm thấy cái gì đó gấp hơn phải làm, nói rằng đầu óc muốn nổ tung, quá trời bản thảo, ổng đến rạp để xả hơi, và chỉ nước đến chân mới nhảy, khi các nhà xuất bản giục. Khi kinh nghiệm đầy mình rồi, ổng chẳng còn hiệu quả như trước. Bông bài ổng làm ba chớp bảy nhoáng, và đến cuối, ổng cần hàng thế kỷ mới lết hết trăm trang cuối. Ổng thôi nhà nghề, Lou ngày một chú tâm hơn vào công với chả việc. Cho tới khi Ulma xuất hiện đổi cục diện thì ổng trầm trọng thêm. Không những ổng già hơn tuổi, mà còn khiến người ta cảm giác ớn tận mang tai, như thể mọi thứ đều làm ổng chán mệt, cứ như đời ổng chẳng có gì thú cả. Ổng nốc rượu để lên tình thần, chỉ có điều là rượu vào buồn ra, ổng buồn tận đáy lòng, và đếch thuốc trầm cảm nào kích nổi. Vả lại, ổng chưa bao giờ đến thầy thuốc, càng không bao giờ đi châm cứu, dẫu Lou giục giã. Ổng dùng kích thích đấy, nhưng máy móc của ổng vẫn tậm tịt.
Chỉ có xe-thư viện khiến ổng dậy sớm. Ổng đi đến những vùng ngoại ô với sách của chính mình để chuyển tận tay đám không giấy tờ sống hôm nay không biết ngày mai và giúp họ có chút vốn tiếng Pháp. Cực nỗi, các sách ổng chọn toàn quá tầm đám mù chữ ấy, dù sao họ sợ cảnh sát đến mức hầu như đếch bao giờ dám liều ra ngoài nếu không buộc phải ra, họ quá sợ chuốc phiền và bị trục xuất. Văn trở về, lòng nặng trĩu, nhưng ổng nói “thiết tha trang bị vũ khí cho những kẻ thiệt thời này”, để họ hội nhập mà không mất đi bản sắc, để họ đời hưởng quyền lợi của mình, để họ biết thủ tục hợp thức hóa mình, và khỏi bị lũ bất nhân vắt chanh bỏ vỏ. Lou thấy ổng công cốc, phải chi ổng là hội viên một nhóm đoàn và yêu sách những cải tổ trong Luật quốc tịch thì có ích hơn. Ông đáp trả: “Hơi đâu mà mất công, các nhà chính trị rồi cũng sẽ nói thuyền hết chỗ rồi(15), đâu thể hứng toàn bộ đám nghèo khổ của trái đất này.”
Bút ta gần như khô mực, tay ta mỏi nhừ. Đến lúc ta phải nhổ rễ khỏi giường thôi. Thứ Bảy này báo hiệu thời tiết u ám chết người. Làm gì với trời mưa như trút và gió chẳng bớt vù này? Xem clip ư? Đếm cừu cho tới ngủ thiếp đi ư? Dùng nhân sâm để trợ lực ư? Lướt bài tiếng Anh ư? Mua vé xem phim kinh dị ư? Khám phá hầm mộ ở Paris cùng Lou ư? Gọi điện cho Tommy, không chừng hắn có một kế hoạch hay? Chốt bản nháp mấy khổ thơ chẳng đâu vào đâu ư? Đọc tiểu sử Martin Luther King mà Văn đã tìm cho ư? Tìm ngày tháng kết thúc chủ nghĩa Apartheid để khỏi dốt lịch sử? Tìm hiểu vì sao Ai Len lại được gọi là đảo quỷ? Vì sao người ta nói “ngủm củ tỏi”? Và, bỗng dưng, vì sao Văn, sáu tháng trước tai nạn, đã ký một hợp đồng bảo hiểm nhân thọ mà người được hưởng là Lou? Bả không hay biết việc này, bằng không bả đã bị nghi giết chồng trục lợi, và điều đó thật bần tiện. Ông đã lĩnh một tấm séc lớn khi viết hồi ký cho một nữ ca sĩ. Nữ ca sĩ rất vui được hợp tác với ổng: ổng độc nhất vô nhị trong việc lấy nước mắt thiên hạ. Ổng vống lên, làm hài lòng ngôi sao, độc giả ruột của Barbara Cartland, từng kết hôn năm lần, và ở tuổi sáu mươi ba vẫn buộc cổ được một trai tơ hẳn hoi. Văn đã tiểu thuyết hóa hoàn toàn, thời thơ ấu, bà ở khu ổ chuột Nanterre, giữa bố dượng cục súc và mẹ lờ ao, đến tuổi choai choai bùng khỏi nhà và tuôn lời ca nơi góc phố, trước khi kết hợp với một tay chơi phong cầm, hễ những tối mà màn song diễn của họ chẳng kiếm được mấy tiền là choảng bà một trận, những bước đầu tiên trên sân khấu của một ca phòng ghẻ, những mối quan hệ rùm beng mà nhờ đó tin tức scandal đã lăng xê bà, cho lên trang bìa. Tiếp đó, bà đổi đời. Ca khúc của bà sến rện sướt mướt, nhưng các đĩa nhạc lại bán chạy như bánh khúc cây dịp Noel. Đó là đơn đặt hàng cuối cùng mà Văn không quá lề mề. Ổng đạo cả mấy nhà văn để gán cho nữ ca sĩ vài suy nghĩ về cái giá phải trả cho sự nổi tiếng.
Ông không nói với Lou và ta số tiền đã lĩnh, cũng chẳng kể chuyện đã ký hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. Nó trái với nguyên tắc của ổng, ấy là không để lợi nhuận cám dỗ. Không chừng ổng đã linh tính về cái ngày tận số cận kề và muốn để lại cho bọn ta cái gì đó, hơn nữa, những năm trước, ổng đã ăn lẹm kha khá vào khoản dự trữ, cho tới khi Lou đưa mọi chuyện vào quy củ. Luật sư Dieuleveult là người dứt khoát: bả không việc gì phải sun vời, những nguyện vọng của Văn đâu phải lời buộc tội chống lại bả. Ta thì ta bi quan hơn cơ. Ta chắp tay cầu cho mọi chuyện ổn thỏa, nhưng “những suy đoán nghiêm trọng đè nặng lên Lou”, như một nhà báo sẽ nói trên đài cũng nên. Thật là kỳ diệu nếu luật sư của bả giúp bả được miễn tố. Những xét đoán bề ngoài không có lợi cho bả. Ai tin được rằng bả nhấn ga vì đang vội để rồi đâm trúng phóc Văn? Làm thế nào bả che đậy việc đã cho theo dõi ổng? Càng nghĩ ta càng thấy mọi chuyện đều tối đen. Những nét nguệch ngoạc này đếch giúp ta giữ tinh thần. Stop! Ta phải nhúc nhích mới được. Thì giờ đang trôi. Ta chưa vệ sinh. Ta sẽ đếch ở yên trong bộ đồ ngủ và ù lì bị thịt. Cà phê cà pháo rồi a lê hấp! Ta sẽ bước lên bàn đạp xuất phát, sẵn sàng dời non lấp bể.