← Quay lại trang sách

Ulma

Justine bĩu môi dè bỉu khi, mười chín tuổi, tôi vào làm trợ lý cho một nhà tạo mẫu. Với mẹ, chuyện đó chứng tỏ tính hão của tôi. Thì ông thấy đấy, bác sĩ Sullivan, tôi nắm lấy công việc đầu tiên xuất hiện, vì phải mưu sinh. Ngoại tôi đang nằm viện, ung thư giai đoạn cuối. Ngoại mổ hai lần rồi, nhưng di căn lan rộng, và các bác sĩ phẫu thuật đã thú nhận chịu thua. Theo họ chẩn đoán, ngoại chỉ còn một hai tháng nữa. Justine không túc trực bên giường bệnh, thấy người ốm mẹ tức thở, mẹ bảo. Tôi là người duy nhất mang hoa mimosa cùng hạt dẻ ngào đường hay bánh calisson cho ngoại. Ngoại chỉ tiêu hóa được đúng đồ ngọt. Khối u phát triển nhanh đến nỗi chăm sóc tăng cường cũng không ngăn được nó lan rộng. Mặt ngoại méo xệch vì đau, moóc phin cũng không làm dịu nổi. Có vài tuần mà ngoại xọp đi, xương giơ ra, tiều tụy, nhưng hễ vào phòng ngoại, tôi lại tưởng mình có nghĩa vụ lên tinh thần cho ngoại bằng cách nói các bác sĩ đang kê một chế độ điều trị công hiệu sẽ chóng giúp ngoại bình phục. Ngoại cười gượng, như thể không đủ sức nghi ngờ những lời khẳng định của tôi, như thể tôi vì thương ngoại mà nói dối vỗ về. Với vẻ tĩnh tâm của người không khiếp sợ trước ý nghĩ mình sóm chỉ còn là cát bụi, ngoại tỏ ý nguyện được hỏa thiêu trong phạm vi thân hữu thật hẹp. Khi tôi thì thào là ngoại không được có những ý nghĩ tang tóc như thế, ngoại bỡn cợt lảng đi: “Ừ nhỉ, ừ nhỉ, nói trước bước không qua! Ngoại sẽ sống trăm tuổi, mà còn hơn ấy chứ, ngoại sẽ phá hết mọi kỷ lục sống dai!”

Justine để tôi thăm nom ngoại. Dăm bữa nửa tháng mẹ gọi cú điện xem Lily có đỡ không. Tôi vừa thốt được vài từ mẹ đã cắt ngang và bỏ máy, dặn tôi chăm ngoại cẩn thận, vì bản thân mẹ cũng lu bù. Khi ấy mẹ đang sống cùng một tay bảo vệ hộp đêm, dáng hộ pháp, khách ruột các phòng tập thể hình. Bị cấm dùng séc, mẹ vừa ám quẻ nhân viên các phòng trợ cấp xã hội, mà với mẹ là công bộc của nhà nước bảo hộ, vừa kêu ca trợ cấp quèn. Bốn mươi tuổi đầu, mẹ vẫn không mang nổi thân mình, song lại chống chê việc lĩnh trợ cấp. Mẹ cáo nhiệm trước tất tật những gì, theo mẹ, là nặng gánh. Mẹ quả quyết là từ giờ, ồ cái thế gian nghiệt ngã này, phải ăn mảnh, dọc đường đời mẹ đã đánh rơi niềm tin vào tình bác ái. Mẹ bao đận rách như tổ đỉa mà bọn bạn hậu đậu có cưu mang. Từ khi dính với Fred, bảo vệ hộp đêm Casablanca, mẹ tìm thấy, mẹ bảo tôi, một sự cân bằng. Fred không kết quan điểm chính trị của mẹ, hắn bầu cánh hữu, ám ảnh vì tập thể hình, bắt mẹ, mẹ còn bảo tôi, cắt hút hít và đăng ký câu lạc bộ fitness, cứ như mẹ thuộc dạng ăn không ngồi rồi hay tiểu thư nhà Rockefeller không bằng. Nhưng hắn cũng có những mặt được, không cắm mặt quán xá với bọn bạn, không lác mắt vì mấy ả tóc hung bốc lửa. Kém mẹ năm tuổi mà chẳng bao giờ nhắc mẹ họ chênh tuổi. Vững như bàn thạch, hắn có thể men lì vi diệu những ngày mẹ bết xết lết, mẹ cam đoan khi tôi tỏ vẻ không tin chắc Fred muốn tốt cho mẹ. Ừ thì hắn không phải bậc anh kiệt, nhưng cũng chẳng làm màu, như vài lão bồ cũ của mẹ. Mẹ hối cùng mình đã cặp kè đám đó và tin những lời hứa hươu vượn của bọn họ, vô công rỗng túi một lũ mà chỉ chuyên ca bài mùi mẫn phỉnh phờ mẹ. Fred ấy, thì khỏi phét lác, lâm li. Hắn bộc tuệch bộc toạc và thẳng ruột ngựa. Điều đó, mẹ rỉ tai tôi, cho mẹ đổi gió sau những tay ba láp mẹ vẫn sùng bái, trước khi bong bóng xẹp và mẹ trắng mắt ra. Với Fred không phải tình yêu lớn, nhưng hết rồi những si mê hao tốn, mẹ không đi vào vết xe đổ nữa. Mẹ chỉ còn mong được yên thân. Mẹ đã khổ nhục có khác gì chó để gây dựng lại cái hoàn cảnh đã nát bấy như tương. Fred không phải tạng đàn ông của mẹ, hắn vai u thịt bắp, trán choằn, mắt lợn, lông mày chổi xể. Tay hộ pháp mà bắt tay ta thì nghiến nát. Hắn không như phần lớn bồ cũ mẹ, dặt dẹo ẻo ớt, nhưng lại giống đám ấy được cái nước này: không tháo vát làm ăn. Đấy là tạng người hơn hớn, lấy ít làm đủ. Hắn chẳng rục rịch tìm việc gì sáng giá hơn, mở mang cơ bắp, song trí tuệ lại bỏ hóa, không phỉ nhổ bạc tiền đâu song vẫn chỉ làm kẻ ăn lương tối thiểu mút mùa mới vào cầu. Justine còn bảo, hắn thiếu phong nhã, đóng bộ cơm lê trông như đười ươi giả dạng. Để hoàn thiện bức tranh, hắn có kiểu ăn bậy nói bạ và chớt nhả xong thì tự cười một mình. Nhưng được cái, hắn xả thân chịu báng khi họ gặp bĩ, điều đình với nhà băng hoặc xin chủ ứng trước. Giờ hết là gái tơ, mẹ thôi thả mồi bắt bóng. Fred không phải người tình trong mộng, nhưng mẹ với hắn vừa lứa, dẫu chẳng phải ngày nào cũng tưng bừng trảy hội, dẫu họ ở một căn hộ hai buồng khu Montrouge sưởi kém, đồ đạc kiếm ở hội Cứu độ. Mẹ vẫn uốn ba tấc lưỡi chống bọn lắm tiền, cố can Fred dành phiếu bầu cho cái bọn mẹ coi là kẻ thù của nhân dân, nhưng hoài công, bởi Fred xuất thân từ môi trường theo De Gaulle, rồi Chirac, muôn thời thủ cựu và bài tả. Hắn bảo mẹ đám cánh tả ăn trứng cá có tuyên truyền kích động cũng toi công, với hắn chả ăn giải gì đâu. Hắn có thể hạn chê thật, nhưng chả ngu đến nỗi hốc bả nhảm của lũ mác-xít xa lông. Hắn có nhõn một mục tiêu: giữ trật tự ở Casablanca để được chủ chiếu cố và tăng lương. May mắn ra, vài năm nữa hắn sẽ mở riêng, quản lý một quầy rượu kiêm thuốc lá kiếm lời. Justine thì hãi làm phường kẻ chợ, đả kích óc con buôn của thời đại mình. Nhưng dù gì đi nữa, họ cũng đã lận được đồng vốn nào đặt cọc lấy lại cửa hàng đâu.

Thỉnh thoảng mẹ lại lên giọng với Fred. Tham vọng của hắn mẹ thấy thiếu tầm, mẹ mong sao hắn bớt cục mịch. “Ai mà sửa được!” Fred kêu lên khi, trước mặt tôi, bị mẹ chỉnh lời ăn tiếng nói. Giữa hai người, mẹ là kẻ cầm cương, trong khi với bồ cũ, mẹ làm cô người yêu như mì, không rách việc, chẳng đành hanh. Già đi, mẹ đâm hóa ngày càng độc đoán. Fred nhường quách cho yên thân. Tám chục kí lô mà hắn ta như con gấu bé bỏng, để được nựng nà, và dựa dẫm vào mẹ mỗi dịp lâm cảnh khoanh tay bó gối. Mẹ gỡ những dại dở của hắn, nhất là những lần hắn hớ với lão chủ thùng tô nô, cục cằn, và nắm dao đằng chuôi - chỉ cần lão nổi hứng đổi người làm bất kỳ tử là Fred bị tống cổ khỏi bồi thường. Justine ngửi lão không nổi, mẹ kiếm chỗ khác cho Fred, mà chẳng ra. Do có các hóa đơn phải thanh toán, khoản nợ phải trả mẹ Fred, họ đành cắn răng chịu nhịn. Tằn tiện cỡ nào họ cũng vẫn nợ như chúa chổm, trợ cấp Justine được nhận giảm bớt, mẹ Fred, đã không cho vay thêm, lại còn lải nhải mấy bài đạo đức. Justine chẳng quý hóa gì nhà bà này, mẹ đố bao giờ bỏ lỡ dịp nói xấu và nửa đấm nửa xoa khi bà ta cắm lì nhà họ, gì cũng chõ mũi vào, nào bếp lầy nhầy, nào nhà bài trí thiếu đặc sắc, nào khăn bàn ăn nhóp nhúa, nào quần bò Justine bó quá, nào sơ mi Fred nhàu quá. Phải cái bà ta có tài khoản tiết kiệm và họ trông chờ xí phần trong ấy, nên họ bấm bụng chịu đựng các lời chê bai. Justine hết chọc ngoáy lại vuốt đuôi, lấy lòng bà ta để được cho tên vào di chúc, mặc dầu ở tuổi bảy mươi tư bà ta vẫn còn mạnh chân khỏe tay, mặc dầu Fred còn hai người anh chẳng đời nào lại khước từ món thừa kế, vốn chẳng nhiều nhặn gì cho cam, huống hồ họ cũng chẳng lĩnh mức lương bộ trưởng.

Justine quen Fred đã một năm. Lần đầu tiên mẹ đi vào ổn định. “Chim sẻ cầm tay hơn hạc vàng trên mây”, mẹ bảo tôi, thừa nhận mẹ tặc lưỡi với Fred vì chẳng kiếm được đám nào khá khẩm hơn. Giờ thì mẹ thích điều kiện sinh hoạt của mình, dù cho, với Fred, không phải đời lên xe xuống ngựa. Đã qua cái thời mẹ mê du sơn du thủy, tá túc nay nhà này mai nhà nọ, tự gạt mình ra ngoài lề, chỉ thích những kẻ kỳ quái, dính tí suy đồi, cựu nghiên cứu sinh làm luận án xã hội học hoặc chính trị học, những người chú giải Mao tuyển hoặc nghệ sĩ tự phong.

Sao tôi lại kể những chuyện này với ông, bác sĩ Sullivan? Tôi như đang luận tội Justine, vô trách nhiệm thế thì đáng đừng làm mẹ. Tôi đâu còn lên tám, buổi tối tôi không còn thổn thức trên giường vì mẹ quên sinh nhật mình nữa. Lily đã giúp tôi khỏi trông chờ gì ở Justine, xốc nổi thế làm sao không lao vào vòng lạc thú, vô cảm thế làm sao điểm danh có mặt khi người khác phát túi hiệu tuyệt vọng. Mẹ muốn sống siêu tốc, tận hưởng cuộc đời. Có con vào mẹ thấy cách rách, tôi gây lo chuốc phiền cho mẹ, mặc dầu tôi lùi tiến thế nào mẹ chẳng bận lòng. Hai muoi tuổi mẹ khi không ôm một con nhóc trên tay, trong lúc còn bao dự tính chơi bời. Và mẹ đã thỏa thuê với cha tôi, người tuy thế chẳng có vẻ gì là một kẻ hám vui. Con người của nghĩa vụ, không thể phân loại, cha khác những kẻ tự cao tự đại xúm xít quanh mẹ. Cha không cư xử kiểu ông kễnh, nên mẹ càng khát khao dâng hiến trái tim mình, dù hai người chỉ có vẻn vẹn một tuần trước mặt để tìm hiểu nhau. Cha có vai trò gì trong đoàn đại biểu cộng sản đến Paris? Có phải cha lĩnh nhiệm vụ mạ lại tên tuổi cho họ? Họ bước đầu thu phục được công luận phương Tây, nhưng việc còn chưa xong, bước đường để cuộc tranh đấu của họ được công nhận chính nghĩa còn dài. Trong vòng một tuần, cha cùng các đồng chí hăng hái truyền bá lý tưởng. Justine, tham gia mọi cuộc tập hợp đời người Mỹ rút khỏi Việt Nam, thấy ở cha tôi chính biểu tượng cuộc đấu tranh của một dân tộc bé nhỏ anh hùng chống lại bá quyền của một quốc gia lớn vũ trang hùng hậu.

Tháng Tư năm 1975, khi xe tăng bộ đội tiến vào Sài Gòn, và lính Mỹ tháo chạy, Justine treo cờ Bắc Việt ra cửa sổ ăn mừng Mỹ thua trận và tu rượu vang bọt cùng tất cả những ai chống chủ nghĩa bành trướng từng lên tiếng tại các cuộc tuần hành hòa bình. Mấy năm sau, khi người dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa non trẻ lên thuyền chạy trốn cái đói, Justine không thừa nhận mình đã nhầm. Theo mẹ, truyền thông phương Tây đầu độc dân khi phơi bày sự thất bại ở một đất nước anh em của Liên Xô. Vả lại, khi ấy đang có cuộc tình chớp nhoáng với một chàng Philippines, mẹ bị hút vào Manila, vào “Bướm thép Imelda Marcos” với hàng nghìn đôi giày và những căn hộ ở Manhattan, tậu bằng hàng triệu đô la biển thủ công quỹ.

Mẹ còn chưa biết cha tôi đã qua đời, không phải nơi sa trường mà vì tai biến mạch máu não, ít lâu trước khi quân giải phóng chiếm được Sài Gòn. Mãi về sau, bỗng nổi cơn cao hứng, mẹ mới viết cho người anh của cha tôi, gửi đến địa chỉ mẹ còn giữ, để hỏi thăm tin tức. Mẹ nhận được vài dòng, trong đó người viết kể, không sa đà, cha tôi ra sao hay đã đột tử thế nào, và không khỏi kinh ngạc khi đọc thư mẹ, bởi chưa từng nghe người quá cố kể chuyện về mẹ. Thới phô trương làm cha ghê tởm mà, cha đời nào lại khoe khoang tình ái, Justine bảo, từ chối đối diện với sự việc.

Hồi ấy tôi mười sáu tuổi, và bị rối loạn hành vi. Tôi bị ám sợ khoảng rộng đến nỗi tất cả các địa điểm công cộng làm tôi thất đảm, bị loạn thần kinh ám ảnh đến nỗi không có gì giải tỏa được cho tôi, dữ tợn đến không hòa đồng nổi, thất thường đến nỗi tách rời thực tại, chán ăn đến chỉ còn da bọc xương, có lúc bất an đến nỗi Lily sợ tôi bỏ đi hoang. Tôi không đi hoang, nhưng có những xung động tự sát. Tôi bịt miệng chúng bằng cách cày cuốc ở lớp dự bị sư phạm văn, tìm khả năng trốn tránh trong sách vở. Justine không mảy may nhận ra tôi có những cơn ưu uất trầm trọng, hoặc tệ hơn. Mẹ cứ mải mê giữa hai cuộc đong đưa và chẳng có phút nào cho tôi. Phần lớn thời gian tôi lủi thủi một mình trong căn buồng mẹ thuê gần ga Đông, kể từ khi, trong một cơn cao hứng bất chợt khác, mẹ bứng tôi khỏi tay Lily. Mẹ đâu phải bà mẹ tồi, mẹ bảo, nên sẽ không để tôi vô thời hạn ở nhà ngoại, đang lão hóa và nuông tôi quá thể. Tuy không nuôi tôi kiểu cho rơi cho vọt, mẹ đặt tôi đối diện với các cơ cực của mẹ, cho tôi biết thế nào là chống chọi bảo vệ mẩu bít tết của mình. Số mẹ ruồi bâu, nhưng một bà thầy bói xem tay đoán quãng tứ tuần mẹ sẽ ra khỏi đường hầm. Đúng là dài cổ! Sau bao nàm phận hẩm duyên ôi! Mẹ rình rập một biến chuyển thuận lợi chẳng chịu đến cho. Mẹ vẫn làm những việc thế chân cò con, mãi không trúng độc đắc, kép mới nhất, Phil, thì sống co kéo bằng trợ cấp thất nghiệp. Chi tiêu quá đà không, ngay cả nhà hàng cuối tuần cũng chẳng. Giả mà hắn đừng có những tình cảm ẩm ương với mẹ thì cũng được đi. Đằng này hắn đố có dồn mình cho lĩnh vực nào bao giờ. “Méo mó có hơn không”, mẹ bảo, đồng thời chêm vào mẹ đã qua tuổi đôi mươi, sẽ chẳng vì núng tình mà vàng võ nữa. Gì cũng được, trừ cô đơn! Rồi sẽ đến những ngày thái lai. Người ngợm mẹ còn ngon, mẹ chưa nhàu. Mẹ chỉ cần ngoạm cuộc sống ngập chân răng - ai hiểu nấy nhờ!

Sự chung sống của tôi với Justine kéo dài không bao lăm. Được một năm rưỡi mẹ đã hết chịu nổi tôi. Mẹ không đưa Phil về được khi có tôi ở nhà. Chủ nhật mẹ chán nhão người trong lúc tôi đọc Sodome và Gomorrhe. Lười cất dọn thế mà mẹ phải dẹp đống bày bừa của mình, vì chúng tôi ở chật. Sách của tôi choán quá nhiều chỗ trong căn hộ hai mươi mét vuông, đồ đạc chỉ có một tủ treo quần áo, hai giường xếp, hai ghế, và cái bàn gập bị tôi chiếm dụng làm việc. Căn hộ hè là tủ sấy, đông là tủ đá. Mùa nào cũng như mùa nào, Justine hâm đồ hộp trên bếp điện ở góc nấu nướng. Nhưng thức ăn làm tôi lợm. Cứ xong bữa tối là tôi nôn, dấm dúi. Thấy tôi xanh rớt, mẹ quy sự gầy sút của tôi cho việc thức đêm hôm cày bài chí chết. Vì kết quả nào cơ chứ? Trông thể trạng tôi thì hí hửng vào đâu. Mẹ nhồi cho tôi hết Ovaltine lại ngũ cốc thanh. Ban đêm tôi phun ra bằng hết, lúc mẹ ngủ. Mẹ để Lily tặng tôi những quyển sách tôi thèm. Nào có cần đến thế, tôi mượn thư viện cũng xong. Linh cảm mách mẹ có gì đó không tròn trịa ở tôi, nhưng mẹ chẳng cho là hệ trọng.

Tôi không còn là con bé háo hức được ở với mẹ một ngày. Tim tôi chai đi, tôi hủy hoại bản thân trong học hành, tôi không dừng ở các vĩ nhân thuộc ngôi đền văn chương, mà sục nóng bầu máu khi vùi mình vào trước tác của những tài năng cách tân. Hễ Lily mở hầu bao là tôi vơ vét tuyệt bản ở hiệu sách cũ. Tôi thường lệt bệt đến mức cần phải được truyền văn hóa, như Richard Wright nói trong Black Boy. Theo Justine, tôi hành xác khi cứ vắt ép khả năng. Mẹ chẳng cảm thấy chăm được tôi nếu tôi cứ tự hoại sức mình.

Có con gái lớn làm mẹ thấy mình già sọm. Mẹ nhắc đi nhắc lại mình đâu kém cạnh gì từ những con bé đôi mươi đến những mụ trưởng giả đi chuốt lại mặt tiền. Mẹ thở dài thườn thượt những sáng phải trả tiền căng tin, mua đồ dùng học tập, vé tàu điện cho tôi. Mất toi chừng ấy điếu cỏ chứ còn. Mẹ muốn tử tế mới đón tôi về, nhưng dòng máu tận tụy từ mẫu không chảy trong huyết quản mẹ. Mẹ bẳn gắt với tôi, tôi cũng chẳng ngậm miệng khi bị mẹ chĩa mũi dùi. Mười tám tháng cùng nhà và mẹ thiếu điều nổ tung. Khỏi rào trước đón sau, mẹ bảo tốt nhất cho cả hai là tôi lại về ngoại. Sống giẫm chân nhau thê chịu hết nổi, mẹ kiệt sức chạy lo từng đồng. Một mình, mẹ xoay kiểu gì cũng ra, chứ gánh thêm đứa con, mẹ chịu. Bởi chung ngoại tôi không eo sèo khi chu cấp cho tôi, nên mẹ buông luôn. Phù! Lời cỏi lòng! Mẹ đùn củ khoai nóng sang tay Lily. Mẹ khước từ niềm vinh hạnh, mẹ mỉa, được theo hầu tôi, tôi có văn hóa thế, mà mẹ thì bỏ học trước cả tốt nghiệp tú tài. Muốn tốt cho tôi mẹ mới giao phó tôi vào tay mẹ của mẹ. Chẳng mấy tôi sẽ phải tự lập, thà tập quen dựa vào mỗi thân mình ngay từ giờ. Ở tuổi tôi tách khỏi cha mẹ cũng hay. Vốn đã không có cha, tôi sẽ học cách bỏ qua cả mẹ. Cuối tuần mẹ sẽ sang thăm tôi, nếu Phil không nhằng nhẵng, bởi có những ngày hắn đuội và nài mẹ ở nhà. Hắn thế, chẳng hết mình đâu, nhưng hắn sã cánh, thì mẹ lại phải có mặt. Mẹ không phân thân lo cả cho hắn và tôi được. Mẹ tha thiết với hắn, dù hắn chẳng phải kẻ lụy tình hay gã đầu têu trò vui. Để hết phải lượn đi lượn lại giữa quận mười và cửa ô Ivry, khi nào tôi đi, mẹ sẽ thôi ngay hợp đồng thuê cái ổ chuột của mẹ rồi dạt về nhà Phil. Họ nhất trí rồi. Họ chẳng chết mê chết mệt gì nhau, nhưng lại cùng thích đi mây về gió, cái thứ gắn người ta lại với nhau.

Vậy là tôi quay về phố Rouvet, nơi Lily còn chịu ảnh hưởng của bệnh viêm loét dạ dày rồi sẽ biến chứng thành ung thư. Mặc các cơn đau, ngoại vẫn đến nhà hát, không dựa dẫm vào cô phục trang trẻ ngoại đang đào tạo để nối nghiệp mình. Ngoại không nương sức, ngủ ít, miệt mài chí sáng tận tối, như có lò xo đẩy: nếu chùng lại, ngoại sẽ mất lực đàn hồi, nếu cứ ám ảnh bệnh tật, ngoại sẽ phân rã. Tôi quay về làm ngoại hoan hỉ, ngoại tặng tôi sách nghệ thuật hoặc những ấn bản Pléiade sang trọng. Tôi mà không còm nhom (tôi nặng ba mươi tám kí) thì niềm vui của ngoại đã trọn vẹn. Ngoại lên những thực đơn giàu đạm đáng lẽ đã làm tôi trơn lông đỏ da nếu tôi không ăn gì nôn nấy. Ngoại khổ sở vì tôi, trong lúc bản thân nhược dần và những triệu chứng u ác đầu tiên phát tác. Ngoại tính đưa tôi đến chuyên gia dinh dưỡng để dập tạm chứng loạn năng cơ thể cho tôi.

Từ lúc tống tôi ra khỏi cửa, Justine gửi đúng một tấm thiệp Giáng sinh, báo mẹ đang ở Saint-Malo với Phil, nhờ món tiền thưởng hắn được lĩnh vào tháng Mười hai và tấm séc nhỏ nhận của chị gái hắn. Họ thuê phòng trọ và ăn đỡ bánh kếp đêm Giáng sinh. Đó là mùa đông cuối cùng Lily còn đủ sức lọ mọ ra đường đến tận nhà hát. Ngoại tìm trang phục cho vở Bồ nông của Strindberg. Vừa vào đại học, khoa Văn học so sánh, tôi càng lao đầu vào học bởi cần phải phân tâm, trước tình trạng nặng dần của ngoại tôi. Sang xuân, chẩn đoán giáng xuống: các tế bào ung thư sinh sôi. Sau đợt phẫu thuật đầu tiên không thành công, họ cho ngoại xạ trị. Ngoại chưa nhập viện, nhưng nằm liệt giường, cứ đứng lên là bị choáng, gần như trụ không nổi. Tôi nấu canh hoặc cơm sữa cho ngoại, ngoại không muốn thứ gì khác. Tôi về nhà cùng tạp chí Địa lý hoặc Mỹ thuật cho ngoại giải trí những buổi chiều tôi vào trường Sorbonne. Ngoại không phải bệnh nhân đỏng đảnh, không trách móc các bác sĩ đã tuyên bệnh mình, hay các y tá đã khen sắc diện khỏe khoắn của mình, ngoại chải chuốt và chỉnh trang cẩn thận cả khi nằm ẹp. Ngoại vẫn câu nào tí tủm câu ấy, nhất là khi ông bạn André chuyên gia tiếng động ghé chơi. Họ chuyện phiếm, đôi khi đến tận nửa đêm, ngoại vui như sáo, lấy trí óc linh lợi thắng suy nhược cơ thể, khéo đánh trống lảng mỗi lần ông hỏi thăm về công hiệu điều trị, bảo ông bật đĩa Kathleen Ferrier, đọc Nadja hay Anna Karenina cho nghe. Còn chưa bị loạn thần kinh bệnh tưởng, ngoại bảo, ngoại còn chế ngự được bệnh tật. Giờ của ngoại chưa điểm, tôi chưa lấy bằng tiến sĩ thì ngoại chưa chết, ngoại sẽ thấy mình được tưởng thưởng sau tất cả những gì đã làm cho tôi, ngoại hởi lòng hởi dạ dễ vậy thôi.

Sao lại có những hồi tưởng này, bác sĩ Sullivan? Tôi nói như thể ông đang ngồi trước mặt tôi. Thế mà hễ vào phòng khám của ông, tôi sẽ lại khó giãi bày, dầu điều đó có làm dịu lòng tôi. Tro của Lily đã rải ngoài vườn tưởng niệm nghĩa trang Père-Lachaise. Chúng tôi CÓ ba người ở nhà hỏa táng: André, Justine và tôi. Tôi hai mươi tuổi và, cùng với ngoại, tôi mất luôn nơi nương tựa chính. Tôi quyết định rời căn hộ phố Rouvet, giờ thuộc về Justine. Tôi đã bỏ học. Nhà tạo mốt tuyển tôi mới bắt đầu gây dựng, nhưng các bộ sưu tập của anh ta rồi sẽ lên như diều gặp gió. Tôi thiếu kinh nghiệm, anh ta chỉ giao tôi mấy việc vặt, trả lời điện thoại, lên lịch làm việc cho anh ta, lọc khách, cập nhật hồ sơ báo chí. Justine lên án việc tôi làm cho một nhà tạo mẫu: cái giới ấy, là hư vô và lô lốc xích xông. Té ra tôi cũng chỉ là baby doll, chạy theo hào nhoáng, quáng mắt vì đám người mẫu tối ngày tán chuyện xống áo mà cứ tưởng mình là những nàng Galatea của một chàng Pygmalion cao hơn hẳn người phàm trần. Trên đỉnh Olympe ấy, tôi sẽ tránh được những thói dung tục và, chỉ cần làm kẻ theo đuôi, tôi cũng sẽ leo dần lên, sẽ không làm trợ lý mãn đời. Tốt cho tôi thôi, nhưng đừng hòng mẹ tán thưởng. Thế các cáo trạng chống công nghiệp xa xỉ của mẹ là để làm gì hả? Những mẫu đắt lên giời cho vài mụ ú na ú nần trong lúc công nhân nhặt giẻ ở Cairo tái chê rác đê sống, đám người mẫu nhịn ăn cho khỏi phì người, trong lúc người Biaíra, đói vêu, chết như rạ.

Tuy vậy mẹ mở cờ trong bụng khi tôi bán xới khỏi căn hộ phố Rouvet. Lily để nó cho mẹ vì nghĩ mẹ con tôi sẽ cùng ở đó. Nhưng giờ mẹ có Fred, và như thế ba chúng tôi sẽ phải chia nhau một không gian nhỏ. Nhờ thừa kế căn hộ hai buồng của Lily mà Justine, không còn phải trả tiền thuê nhà, có thể thở được. Mẹ không còn phải thắt lưng buộc bụng nữa, như mẹ bảo. Chả phong lưu gì đâu, còn xa, nhưng Fred và mẹ có thể trả nợ, có thể đi chợ ở những hàng thực phẩm bán đồ tươi ngon thay cho những hàng giá rẻ, mỗi tháng một lần đi chuỗi nhà hàng biển La Criée thưởng thức hải sản thay vì ăn cá bọc bột chiên ở những quán tự phục vụ, đi nghỉ, thậm chí còn đi cắm trại ở Vendée.

Tôi đặc biệt không muốn phó thác mình vào tay Justine, đằng nào cũng sẽ phản đối tôi dùi mài đèn sách, sẽ chẳng chịu làm mẹ một cô cử nhân khi mà mẹ tốt nghiệp trường nghèo… Vậy nên, tôi kiếm việc nuôi thân ngay. Giữa mẹ và tôi găng đến nỗi tôi tránh cả gọi điện. Tôi có gọi, mẹ cũng lấy giọng lạnh tanh, chẳng hỏi tôi ra sao, hay thiếu Lily thì có suy sụp lắm không. Một bức tường bất tương thông dựng lên giữa hai mẹ con. Chuyện tiền nong vừa tạm ổn là mẹ chỉ còn lo che chắn cho cặp đôi của mình. Bà thầy bói đã nhìn đúng. Tuổi bốn mươi đánh dấu bước ngoặt của mẹ. Mẹ có một bến đậu, sau khi đã lênh đênh nay đây may đó, đã hứng bão đội dông, cho lên tàu nào Pierre nào Paul nào Jacques, lần nào cũng thề sẽ không mắc lỡm nữa, bởi bọn họ ai cũng sợ dấn sâu. Fred, dù gì, cũng không lui bước trước viễn cảnh ràng buộc với mẹ. Hắn đầu óc như choai con mười bốn thật, nhưng không tự phụ. Hắn chẳng bao giờ làm trò hòng ra vẻ bảnh hơn thực tế.

“Lily mất đã cứu ta khỏi nợ nần chồng chất”, Justine nói trên điện thoại. “Khổ, buồn vậy, nhưng chuyện là thế”, mẹ nói tiếp, giọng ráo hoảnh. Mẹ không mong Lily hấp hối ở bệnh viện, dù hai mẹ con chưa bao giờ khăng khít. Với cái mà ông, bác sĩ Sullivan, sẽ gọi là nhân cách không ổn định, thay đổi như chong chóng, nhảy hết cái này sang cái nọ kiểu cưỡi ngựa xem hoa, chẳng thèm theo đuổi học hành, lêu bêu góc bể chân trời, sống vô lối, thay người tình như thay áo, mười chín tuổi đã bụng mang dạ chửa, lúc còn chưa có mái nhà che đầu, mẹ đã gây bao lo phiền cho Lily, người tiếc không có mụn con trai. Giữa hai mẹ con là trống xuôi kèn ngược. Lily có lẽ đã không phải là bà mẹ miễn chê, còn Justine chẳng tôn kính gì mẹ. Thập kỷ sáu mươi là những năm hô hào thoát khỏi vỏ kén gia đình. Justine chỉ chạy theo trào lưu. Mẹ ghét làm con bé chưa phá rào, muốn theo dấu chân các bậc nữ lưu bản lĩnh, song lại đa sầu đa cảm quá, thành ra mẹ hạ nhiệt để khỏi trơ trọi một mình, về kinh nghiệm tình trường của mẹ, tôi có đủ để viết sách. Từ khi Fred và mẹ cặp kè, mẹ tiết chế hơn, dù vung hết nhẵn tiền, làm Fred phải ra chợ trời săn áo vét tông. Mẹ bảo mẹ toàn giành giải rút, nói thế chẳng tử tế gì với Fred, nhưng mẹ cạch mơ hão rồi, với hắn mẹ chỉ trông mong chút thoải mái vật chất, đời vợ chồng êm ấm thôi, khi nào cưới xong. Họ mời mỗi mấy anh em nhà Fred đến tiệc rượu. Trong bộ cánh mới là làm vợ, Justine cố gắng cật lực để tự chấn chỉnh và chu toàn việc nhà. Chuyển sang phố Rouvet, sắm vai nội tướng, mẹ bài trí lại nhà cửa, đặt cây xanh khắp nơi, thay các giá sách ọp ẹp bằng một tủ góc lắp kính, thay mành nhựa bằng mành gỗ, thảm cũ bằng thảm kilim. Mẹ đã tìm được giày khít chân. Những chuyến vi vu đất Ấn, những cuộc khỏi hành cấp tập đi La Habana, những kỳ nghỉ nông trang điều kiện ăn ở sơ sài, tất cả đã xa rồi. Mẹ đã tứ tuần, thực sự đã đến lúc dừng chân đặt gánh. Cái đám ba lơn quên rằng người ta không bỡn cợt với tình yêu đã cuốn gói, mẹ thà bị băm vằm còn hơn là móc toa mình vào tàu một trong những cái thùng rỗng ấy. Fred không có chỉ số thông minh cự phách như cha tôi, nhưng lì đòn và trước sau như một.

Mẹ chừa cha tôi ra khi mạt sát đàn ông. Tôi chỉ biết cha qua những gì mẹ kể, tôi sẵn sàng ra giá cao để được nghe bài khác, nhưng Lily, gặp cha tôi có một lần, mô tả cha như một người kiệt xuất, theo chủ nghĩa bình quyền xóa bỏ chế độ phong kiến, nhà tư tưởng thấm nhuần chủ nghĩa Lê Nin, nhà quốc gia chủ nghĩa tuyến đầu, hòa hợp với tư tưởng Hồ Chí Minh, đấu tranh cho chủ quyền quốc gia Việt Nam, một con bồ cắt, luôn trên đường chinh chiến, tuy vậy lại tim sứa, mềm lòng vì Justine, khi ấy mới nhẹ dạ làm sao.

Tôi thà có cha bớt lỗi lạc và đỡ vô tâm còn hơn. Cha quả đã vô tâm khi lôi Justine vào cuộc phiêu lưu không có ngày mai. Cha lớn tuổi hơn mẹ nhiều, đã có vợ ở Sài Gòn, nhưng cho rớt để đi theo lý tưởng, nhất quán ra cha đã không phải là vị quan chức bị dục tình cám dỗ, tự ban cho mình trò tiêu khiển giữa hai cuộc hợp chính trị, mà chẳng ung đầu vì những thứ tầm phào - hệ quả phiền phúc từ những hành động ngông cuồng của mình, tức sự ra đời của tôi. Cha, người mà mẹ cứ ca ngợi là đứng đắn, đã lợi dụng lòng cả tin của mẹ. Có thể tôi bất công, nhưng tôi không tha thứ cho cha việc chỉ là một ông bố ma.

Tôi nuôi dưỡng lòng oán hận ngày càng lớn với cha. Nó chuyển thành nỗi căm ghét chính bản thân tôi, cảm nhận được ở những thói quen ép xác, khi tôi nhịn ăn, không mấy chợp mắt, làm triền miên ngày mười sáu tiếng ở văn phòng, kể cả thứ Bảy, đêm đêm vắt sức ra tích kiến thức thời trang cao cấp, đồng thời vẫn đọc cuộc đời các thánh, mà chẳng đạt được mấy tĩnh tâm.

Tôi nảy ra ý sang Việt Nam, xứ sở giờ đã bớt khép kín. Tôi tự hứa sẽ làm sáng tỏ những thiếu sót của cha mình. Tôi có địa chỉ người anh của cha, ở lại miền Nam. Tôi chỉ muốn dừng chân nơi những thành phố cha đã sống qua. Máy bay vừa đáp xuống Sài Gòn, tôi bắt ngay chuyến tàu đưa tôi về đồng bằng sông Cửu Long, đến nhà bác tôi, dù bác chắc sẽ tái dại đi nếu nghe tôi gọi như thế. Bác là nhà từ điển học trở thành, sau biến cố, thợ sửa xe đạp. Bác tiếp tôi thân tình, bảo tôi ngay là người em quá cố của bác và tôi giống nhau đến ngỡ ngàng. Sau hai tiếng trò chuyện và hóa ra bác không có khả năng giải thích cái sở dĩ và cái ra sao trong các thiếu sót của cha tôi, bác cho biết tôi có một người anh cùng cha khác mẹ, tên là Văn.