← Quay lại trang sách

GIỮA TRƯA Lou

Trong hòm thư, mình chỉ thấy một lời của Rachid.

Khi sắp xếp thư từ, anh thấy một cái bưu ảnh cũ, cảnh Salvador de Bahia, mà Vân đã gửi cho anh và ở mặt sau tấm bưu ảnh chỉ có một câu duy nhất này: “Lou là sự hoàn hảo phiên bản đàn bà.” Rachid đã diễn ý câu này theo từng chữ, anh cho là tốt nếu gửi tới cái có thể xoa dịu mình, kẻ đang hoàn toàn bối rối. Văn vốn là chuyên gia của văn phong hoa mỹ này khi quá chén, anh ta tự cho mình là một tình nhân mãn nguyện, nhất là những năm đầu hôn nhân. Chúng mình đã đi châu Mỹ La tinh, đến Buenos Aires, đến Rio và São Paulo, trước khi dừng chân ở Salvador. Anh ta đọc cho mình tác phẩm của nhà văn Amado, khi ấy anh ta vẫn chưa khám phá Machado de Assis, mà anh ta hẳn thích hơn khi nhận định ông này đậm chất Voltaire hơn. Thời đó chưa có Laure. Văn và mình thích lượn. Tháng nào chúng mình cũng đi đây đi đó, du lịch bụi, dù sao chúng mình cũng có những thời điểm tuyệt diệu. Văn chẳng phải lúc nào cũng tâng mình lên mây xanh, nhưng lại viết cho Hugues và Rachid rằng anh ta không có lý do gì phải nuối tiếc đã kết thúc đời trai. Khi khen mình tung trời thế, không chừng anh ta tìm cách tự thuyết phục rằng anh ta đã chín chắn khi chọn mình, rằng chúng mình đâu phải hạng xoàng, rằng chúng mình sẽ tay trong tay đi qua thử thách. Vào thời điểm đó, chúng mình đã có thể gọi là đóng dấu vào một bản hiệp ước bất tương xâm. Không ai trong hai người được ba máu sáu con, dẫu người kia có làm ta nóng gáy. Chúng mình cấm nhau gây sự, giữ cái giới hạn không được bỉ ổi. Văn tỏ ra là người dễ chịu, mình thì vẫn chưa nổi cơn điên chấp nhặt anh ta.

Mọi chuyện xấu đi khi Laure được tám hay chín tháng gì đó, phần vì việc chăm sóc em bé đòi hỏi mọi quan tâm của chúng mình, phần vì mình say nắng Ludovic. Có một sự rạn nứt trong mối hòa hợp của chúng mình. Mình mặc kệ, Văn không vội hàn gắn các vết nứt. Theo một quy trình ai cũng tỏ, chúng mình đã quen nhìn thấy nhau đến mức không còn thấy nhau nữa, chúng mình không còn dành cho nhau những ân cần vốn là biểu hiện, nếu không phải của một sự tận tâm bất biến, thì ít nhất cũng của một mong muốn làm cho cái thường ngày bớt âm u hơn. Chúng mình va chạm nhau thường xuyên, không khí dông tố, Văn ủ cơn giận, mình trăn trở với thế tiến thoái lưỡng nan không có lời giải: chôn chặt trong lòng kiêu hãnh của mình, điều không tưởng tượng được, hoặc gây xung đột kéo theo nhiều hậu quả.

Văn có lẽ sẽ không nói mình là “sự hoàn hảo phiên bản đàn bà” trong những năm tháng mình xa rời anh ta, khi có những buổi thứ Tư với Ludovic, trong lúc anh ta đi chinh phục những tạo vật trong mộng. Anh ta thì tự dựng chuyện này kia, mình thì ảo tưởng mối tằng tịu với Ludovic. Chúng mình đi hai con đường khác nhau, mình thì gay gắt, anh ta gây tổn thương chẳng kém. Chúng mình chỉ còn nước hạ giọng để cứu vãn tình thế. Nhờ có con gái, nên có sự vá víu giữa hai người, chúng mình không định bỏ nhau.

Mình thiết lập những so sánh giữa Ludovic, người khiến mình bối rối bởi sự mập mờ của anh, và Văn, người không còn là bí ẩn đối với mình… Thực vậy không? Khi ấy mình nghĩ rằng chẳng có gì, đến từ anh ta, gây bất ngờ với mình, những đều đặn máy móc đã giết chết cái mê say buổi đầu, lo lắng đời thường đã gây hậu quả quá lớn, bất đồng ý kiến đã làm tăng thêm tính cộc cằn của mình. Sự choáng ngợp từng bao trùm những chuyến đi liên miên của chúng mình đến Nam Mỹ đã bay hơi. Đến lúc phải thỏa hiệp, để tất cả khỏi càng ngày càng tệ.

Thỉnh thoảng cha mình từ Quimper đến chơi với mấy con thú bông cho Laure và mấy cuốn tiểu thuyết nông dân đồ sộ cho Văn. Mình chẳng còn gì quan trọng nói với ông già, ông già hưu trí suốt ngày làm vườn và dong thuyền chu du, từ khi cùng mấy người bạn mua một chiếc thuyền buồm. Dẫu sao mình cũng xúc động về việc ông cất công gọi điện cho mình và, hầu như cứ ba tuần một lần lại chạy hàng trăm cây số trên con xe cũ rích để được ôm hôn Laure. Mình cắt đứt hẳn với mẹ. Bà ta không thèm đến đám cưới mình, và đương nhiên không xuất hiện ở bệnh viện phụ sản khi mình sinh con. Bà ta chỉ hãnh diện về sự giàu có của các anh, mình chả là thớ gì. Cha đóng vai hòa giải, nhưng mình không xuống nước, bà ấy cũng chẳng thu lại móng vuốt. Bà ấy cắt mọi chu cấp cho mình khi mình rời khỏi nhà. Nếu không có ngân phiếu của cha, gửi giấu gửi giếm cho mình, thì mình đã chẳng có xu gì. “Rảnh nợ!” bà ta kêu lên khi mình khăn gói ra đi. Từ khi mình đến tuổi thành niên, bà ta càng không sá gì mình, bà ta hạ thấp mình, tâng bốc các con trai, những thanh niên tuổi trẻ tài cao đã là chủ sở hữu một căn hộ ở Quimper và một nhà nghỉ ở Courchevel. Mình còn chưa đi thi sư phạm bà ta đã dồn dập sự khinh thường lên mình: mình sẽ chỉ là hạng gõ đầu trẻ, bị quẳng vào chỗ bọn ôn con hiếu động.

Ngày mình thành hôn với Văn, nghĩa là một trong số những người đối với bà ta là “khỉ của thế giới thứ ba”, bà ta đã báo tin sẽ truất quyền thừa kế của mình. Chớ có cái giống lai trong số con cháu của bà, bà ta viết cho mình. Xuất thân từ một gia đình thâm căn miền quê, bà ta mang nặng quan niệm về sự thuần giống: những kẻ không phải da trắng cứ ở yên trong khu biệt cư của chúng nhé, giẻ lau đâu có để lẫn với khăn mặt được, kẻ nhập cư tử tế là kẻ không đòi hỏi nhiều hơn những thứ người Pháp chính gốc hạ cố cấp cho, lòng từ thiện thì đẹp đấy, nhưng người da trắng rồi sẽ bị hủy diệt như dân da đỏ châu Mỹ nếu họ mở cửa đón tuốt đám da ngăm, bọn chết tiệt đẻ mắn như thỏ. Mình kết hôn không có sự thuận tình của bà ta, lại còn với một gã An Nam Mít nữa chứ! Chúa Trời ơi! Bà ta đã đoán trước rồi mà! Mình cố tình vấy bẩn cái họ của bà ta, vẻ vang là thế. Hết trang này đến trang khác, bà ta khạc nọc độc ra. Mình rồi sẽ có một đàn con mắt xếch, sẽ là nô lệ của một gã da vàng năm thê bảy thiếp. Mình chuẩn bị cho mình một tương lai xán lạn gớm! Cá không ăn muối cá ươn. Mình đã luôn hành động theo ý mình mặc những lời cảnh tỉnh của bà ta. Rốt cuộc vì cái gì? Để gắn đời mình với một kẻ gốc Á chắc chắn không thanh lịch cũng chẳng giàu có, trong khi bà ta đã nhắm sẵn một cán bộ trẻ tốt toàn tập, sẽ là một chàng rể xứng đôi vừa lứa. Mình chớ có mà đến khóc lóc khi sáng mắt ra! Những cuộc hôn nhân lai tạp rước họa cho phong tục tổ tiên phương Tây. Thói gian giảo của bọn nước ngoài gốc Viễn Đông chả còn cần chứng minh nữa. Bọn họ luồn lọt khắp nơi, nếu không hãm họ lại, họ sẽ không chỉ làm chúng ta ngập trong hàng hóa của họ, mà còn điều khiển chúng ta bằng luật của họ nữa. Họ muốn như thế, lũ dân cựu thuộc địa ấy! Những tâm hồn thanh tao rao giảng phải ăn năn, mà quên béng rằng nếu không có người Âu châu cao quý thì lũ khố rách áo ôm đó vẫn sống như thời ăn lông ở lỗ. Bà ta cố công khắc vào tim mình sự sùng bái những giá trị làm nên tính ưu việt của người da trắng, bà ta đã giáo dục mình theo cách để mình trở thành một tín đồ Cơ đốc đáng yêu, một cô gái Bretagne còn giữ giọng nói quê hương, để mình là một mối hấp dẫn giới thượng lưu ở Quimper, bà ta chỉ đi lại với các quý ngài xuất thân cao quý, với giới thượng lưu nổi tiếng để chỉ chấp nhận người Pháp chính tông ở bàn ăn của họ. Bà ta sẽ đáp gì với họ khi họ hỏi về mình đây? Rằng mình có một người chồng bần cùng ư? Và trước hết, hắn ở đâu chui ra? Tổ tiên hắn hẳn phải là bọn kéo xe, cha hắn là kẻ đớp sắn, mẹ hắn là dân chơi mạt chược mà nếu có thể thì đã bán hắn cho người trả giá cao nhất cũng nên. Mấy cái ngữ ấy toàn nói tiếng Pháp bồi, là lũ thô tục trì độn, mưu toan chiếm đoạt của thừa kế. Bà ta sẽ không là mẹ vợ của một kẻ chạy theo hồi môn, do vậy sẽ không cho mình một xu. Để dịch hạch lôi mình và gã An Nam Mít của mình đi quách cho rảnh!(16) bà ta kết luận trong một sự hăm hở kiểu Molière.

Tốt nhất là cười thôi, ngồi lên tất cả những chuyện đó và không phản ứng gì. Tốn bao nhiêu mực để trút những lời lăng nhục kỳ thị chủng tộc. Bà ta vẫn luôn phán xét đồng loại dựa trên màu da, vẫn luôn coi rằng bản mặt nhọ giải thích những bắt bớ, vẫn luôn bầu cho phe cực hữu, vẫn luôn khoái những bài diễn văn về sự vĩ đại của nước Pháp, vẫn luôn nuôi dạy các anh mình trong niềm tin rằng người Gô Loa là siêu nhân, rằng họ toàn quyền là chủ nhân của lũ vô lại đến từ những nước chậm phát triển, rằng người nước ngoài phải chịu trách nhiệm về sự suy tàn của văn minh Pháp, rằng công quyền đã dung túng cho sự ồ ạt của dân nhập cư, rằng phải bầu các đại biểu chủ trương thuê máy bay riêng để đuổi cổ những kẻ không ai muốn dung nạp về nhà. Bà ta vốn luôn tự phụ về tài sản có được, luôn đầy thành kiến chống lại kẻ đến từ bên kia biên giới, đê tiện với ai không ở trên đỉnh nấc thang xã hội, bỉ ổi với chồng, người cam chịu những lời sỉ nhục của bà ta mà không hề quạu mặt.

Lần này, bà ta xuất sắc hơn, độc địa hơn thường lệ. Đương nhiên, mình không cho Văn biết lá thư này, nhưng mình đã giữ nó để có chứng cứ rằng bà ta là một mụ điên thảm hại, hoang tưởng về ưu thế của người phương Tây. Laure chưa từng gặp bà ngoại nó, mình đã bảo nó rằng đó là một quạu già. Sẽ không bao giờ mình đặt chân về lại Quimper, bà ta có ngoẻo thì mình cũng sẽ không đến lễ mai táng. Chương đó đóng lại rồi, mình sẽ không bao giờ mở lại nữa. Mình đã khiến con gái mình sửng sốt, vì giọng gay gắt của mình. Văn lắc lắc đầu, anh ta đứng về phía mình và, không bén mảng gần hoàng thái hậu, xếp bà ta vào loại xấu. Theo cha mình, sự bài ngoại của bà ta đã tăng lên. Bà ta nổi bão “dân rệp, lũ nhọ, quân trộm cắp và phường bất lương”. Ngay cả hai tên anh trai mình cũng đánh bài chuồn ngay khi bà ta mở mồm. Bọn họ sống với mấy ả dân tỉnh Finistère, nhưng bà ta khắc nghiệt với các con dâu tới mức toàn khích động bất hòa. Mình lấy làm sung sướng đã cắt mọi quan hệ. Bà ta là người cầm cương, không ai dám chống lại.

Mình nhớ là, hồi bé, mình đã tự hỏi làm thế nào sự ác tâm của mẹ không đầu độc mình. Lúc nào cũng ra rả những điệp khúc: “Bọn chúng không giống chúng ta, những người văn minh”, “Bọn chúng xâm lấn chúng ta, chúng ta không còn ở nhà mình nữa”. Bà ta đã nói những điều khủng khiếp về Maeva, đứa bạn người Guadeloupe của mình, khi mình mười tuổi: “Ranh con mặt nhọ, đĩ con! Chớ có cái của nợ đó trong nhà bà! Bọn con gái Antilles mười mươi là lũ mọi rợ và đồi bại! Chúng xấu xa từ trong máu!” Khi đến trường đón mình, bà ta chĩa ánh mắt tóe lửa đạn vào Maeva đang nắm tay mình và vừa giằng mình ra khỏi nó vừa hét lên. Những cảnh này cú lặp đi lặp lại, cho tới khi Maeva không còn muốn là bạn mình nữa.

Mình đã nhận kiểu giáo dục ấy, đáng lẽ đã dập tắt trong mình mọi sự nhạy cảm nếu mình không rút ra được ở nơi khác những bài học tình người. Mình đã tự hướng theo nghề dạy học để truyền đạt những tư tưởng độ lượng. Mình tự lãnh nhiệm vụ dẫn dắt bọn nhóc đến chỗ không còn bất cứ thành kiến nào chống lại trẻ em sinh ra dưới những vùng trời khác. Mình đi ngược lại những luận thuyết của mẹ. Mình tẩy sạch khỏi đầu những điều đê hèn đã nghe thấy. Mình không ngây thơ tới độ tin rằng, bằng việc dạy dỗ trẻ con, mình sẽ quét sạch bọn sô vanh hằn học khỏi trái đất, mình không xa rời thực tế tới độ tưởng rằng những lý thuyết gia giả cầy về bất bình đẳng sắc tộc đang bước chậm lại.

Không chừng mình phải cảm ơn trời đất vì được sinh ra bởi một người đàn bà thiển cận đến vậy. Không có những thứ rác rưởi của mụ già ra vẻ ta đây đã đọc Gobineau(17), có lẽ mình đã không nuôi dưỡng mình bằng những gì thuộc thuyết phổ quát, không yêu cái chủ nghĩa thế giới ở Văn. Anh ta không tự cho mình là một người châu Á coi Pháp như nước tiếp nhận, cũng chẳng phải người Pháp chỉ vì từ bao lâu nay sống ở Paris, vì tác phẩm của Rimbaud hay Flaubert quen thuộc với anh ta hơn Đạo đức kinh. Ở Belleville, mặc dù đôi khi có căng thẳng giữa các cộng đồng khác nhau, anh ta vẫn như cá gặp nước, anh ta đi đến chỗ thợ cắt tóc người Tàu cũng như tay bán hoa quả người Ả Rập, những quán bar có điếu ống(18) cũng như cửa hàng bán bánh mì kẹp Thổ Nhĩ Kỳ. Khu phố anh ta sống là một đám đông tả pín lù tụ tập trước lối vào bến tàu điện ngầm, những người Phi áo thụng, dân bán hàng rong trái phép, những quầy hàng ngoại, những tủ kính bày bánh ngọt phương Đông, những cửa hàng tạp hóa phố Ménilmontant chuyên bán hạ giá đồ gia dụng. Với anh ta, chẳng gì giá trị bằng một tách trà bạc hà uống cùng Rachid trong một quán couscous, rượu gin-fizz uống với Hugues ở hiên quán Cannibale, không xa căn hộ của chúng mình.

Thời sinh viên, anh ta trọ trong một căn gác xép ở Barbès, và trả tiền phòng nhờ giao bánh pizza, phát tờ rơi, rửa bát thuê trong những quán ăn bình dân, hoặc thậm chí trông trẻ. Người đỡ đầu không còn khả năng tài chính giúp anh ta, sau khi ông bị phá sản vì hai cậu sinh đôi ăn tàn phá hại. Vì Văn không có quan hệ tốt với cặp sinh đôi này, những kẻ vốn coi anh ta là một tên ăn bám, anh ta không có lựa chọn nào khác là phải đi thuê phòng. Thời kỳ đối đầu giữa những người có cảm tình với cánh tả vô sản và những thành phần cực hữu phong trào Occident đã ít nhiều qua đi, nhưng ở trường của Văn, một giới tuyến chia rẽ những kẻ phản động cực đoan và những người phái tả. Có tố chất Nerval hơn Sartre(19), Văn không quan tâm đến chính trị, anh ta không đến buồng kín để bỏ phiếu, trong khi anh ta có một hộ chiếu vừa được Văn phòng tỉnh trưởng Paris cấp cho. Mitterrand khi ấy vừa được bầu làm tổng thống, cộng sản tham gia chính phủ, Văn ghi nhận có sự biến chuyển trong cách nghĩ, tuy rằng, theo anh, làn sóng hồng có nguy cơ tồn tại ngắn ngủi và sự thuyên chuyển đích thực của xã hội không phải một sớm một chiều là làm được. Hugues và Rachid tán thành những cải tổ do các đảng viên đảng xã hội đề ra. Văn có ý kiến ngược lại: nước Pháp muôn đời ấy vẫn bảo thủ, ít hiếu khách với dân nhập cư, còn thiên về sự cứng nhắc hơn từ khi Mitterrand ngự điện Elysée. Không chừng đảng xã hội sẽ thua đau ở những cuộc bầu cử khác. Và chủ nghĩa hiện thực khuyển nho sẽ thắng. Văn là người quá hoài nghi nên đừng hòng gió thổi chiều nào xoay chiều ấy, ngay cả khi phái tả dường như chiếm ưu thế. Anh ta chưa từng tôn sùng một thủ lĩnh đảng phái nào. Hơi vô chính phủ, luôn ngoan cố, có lúc anh ta kêu gào phản đối trò bịp của các chính trị gia, những kẻ theo chủ nghĩa bảo trợ và nóng vội chiến thắng. Hugues và Rachid bảo anh ta không được lẫn lộn mọi thứ. Cái “tất thảy thối nát” là trò của bọn phản dân chủ. Văn vặn lại rằng ngay cả những người trong sạch cũng để bản thân bị mua chuộc hòng tạo thanh thế, rằng ngay cả những đảng viên cấp tiến nhất cũng điều chỉnh lại yêu sách khi yếu tố nền tảng không còn theo họ nữa. Quyền lực buộc phải có những dàn xếp, nghị sĩ của mọi phe đều quỵ lụy và bắt thóp nhau. Có đi có lại, một thủ đoạn kinh tởm. Văn, từng sống ở quê nhà thời nền cộng hòa chuối chuyên chế thân Mỹ, rồi thời cộng sản, báo động cho bọn mình về những xoay vần chính trị. Nhiều người thiên phát xít có một diễn đàn, nhiều kẻ mị dân biến thành những vị cứu tinh đối với đám cả tin bằng việc vuốt ve nịnh khéo những người này.

Với Hugues và Rachid, ai không bỏ phiếu bầu vào hòm phiếu thì mất quyền ăn quyền nói. Văn không hoàn thành nghĩa vụ công dân, anh ta chỉ là một lão quạu, chẳng mang lại điều gì có tính xây dựng. Bọn họ thì không bỏ xó các khẩu hiệu của tháng Năm năm 68, dẫu khi đó chưa đầy sáu tuổi. Bọn họ xông pha mỗi khi phải bảo vệ một sự nghiệp. Trong khi anh ta không có bất cứ một cử chỉ đoàn kết nào, ngoài việc bố trí xe thư viện cho dân ngoại ô. Thái độ phủ định của anh ta khiến Hugues và Rachid bực mình. Kết quả là xung đột. Văn thì mở mồm ra là nhiét(20). Hugues và Rachid bảo anh ta vô địch thiên hạ về sự thiếu ý thức công dân. Văn chế giễu họ, vì họ phấn khích với những hứa hẹn của ứng viên tranh cử và áp dụng phương pháp Coué(21). Họ lặp đi lặp lại rằng lá phiếu trừng phạt của họ có thể dẫn những người có thẩm quyền quyết định đến chỗ nhận ra sự bất ổn trong quần chúng, rằng khi bầu những phần tử tiến bộ thì họ đắp đê chặn việc phổ biến những luận đề quốc xã mới.

Tất cả hiện lại trong mình như mới ngày hôm qua. Chỗ cạnh chiếc gối của mình trống không. Căn hộ không còn vang lên những tranh luận kiểu Homère(22). Laure giam chân trong phòng, mình ngả ra giấy lời xưng tội chẳng đáng chiếc đinh gỉ, vì mình vòng vo tam quốc, chứ không đi thẳng vào vấn đề chính: Ulma đã giam được Văn bằng sự mê hoặc nào? Có phải vì cô ả là em cùng cha khác mẹ của anh ta và vì tình yêu loạn luân thêm gia vị vào cuộc đời anh ta? Anh ta phát hiện ra rằng cha anh ta có một người con gái ngoài giá thú. Và cái vẻ đẹp chết người ấy đã lôi anh ta ra khỏi vẻ lãnh đạm trường kỳ. Anh ta bước đi vô thức và để mặc những phản xạ có điều kiện dẫn đường. Anh ta có vẻ tàn tạ, làm việc chậm như rùa, miễn cưỡng đến những bữa ăn cha mình mời, không còn đọc nhiều nữa, mất ngủ đến mức phải nốc đẫy thuốc ngủ, không tỉnh táo và sảng khoái vào buổi sáng, luôn căng thẳng, rã rời và quàu quạu, anh ta lỉnh đến rạp chiếu phim tất cả các buổi chiều, sau khi biên tập qua quýt bản thảo, tự làm mất mặt trong những buổi tiệc cocktail của nhà xuất bản, vu cáo các tác giả, cáu mình vì mình lỗ mãng với anh ta, cáu Laure vì điểm số chỉ nhỉnh hơn trung bình tí chút ở tất cả các môn, cáu tất cả mọi người vì anh ta không hài lòng về bản thân.

Anh ta cần có cái mới, khi cuộc sống vợ chồng chúng mình chỉ sản sinh cái đã thấy. Anh ta cần cái khác thường có thể khiến anh ta tái sinh. Lá thư của Ulma, tiếng sét giữa bầu trời tưởng chừng bình yên, buộc anh ta chui ra khỏi cái vỏ ốc. Gặp được người em cùng cha khác mẹ sau ba mươi năm ở Pháp, nơi anh ta đã kéo màn khép lại tuổi thơ tại Việt Nam, không phải không tác động đến tâm lý Văn. Anh ta vào trong một vùng nhiễu động, nhưng anh ta, với đà sống đã ngủ quên, lại tìm thấy trong kịch bản của mối diễm tình với Ulma một chất kích thích mạnh mẽ. Nếu mình tin những gì viết trong loạt thư anh ta đã nhận từ ả, thì ả hoàn toàn đối lập với mình, ả không thèm bằng chứng của lòng tận tâm cũng chẳng đòi hỏi gì. Anh ta thế nào thì ả chấp nhận như thế và không tìm cách thay đổi, trong khi mình có thiên hướng muốn anh ta khác đi. Ulma mới là người mà anh ta hẹn hò tình tứ, tình yêu bị cấm đoán khiến họ đê mê. Văn chỉ chờ một tình huống ngoài kịch bản để không còn đơn giản là cái gã tứ tuần chán ngấy mọi thứ này. Anh ta có như thế không? Anh ta đáng ra đã tiếp tục chung thủy với mình theo cách của anh ta, nghĩa là chỉ tự cho phép một vài thú ngông, những khúc chuyển hồi nhanh chóng khép lại. Chúng mình đáng ra đã tiếp tục sống bên nhau, anh ta sẽ thấy chẳng có gì xấu khi đi mò gái đẹp, vì anh ta nào phản bội mình, ngay cả trong ý nghĩ, mà chỉ tự cho phép một sự xả hơi thôi.

Mọi sự đã theo một hướng khác bởi tại Ulma. Văn dành cho ả một tình yêu tha thiết chưa bao giờ dành cho mình, ngay cả vào buổi đầu tươi đẹp. Anh ta yêu ả như cậu trai mới lớn, được thần ái tình xui khiến, nhìn thấy lại mọi thứ diệu kỳ. Mình chẳng đáng kể gì nữa, hoặc chỉ là chướng ngại vật cho sự quấn quýt của họ. Nếu anh ta có một người tình, một ả tóc nâu nóng bỏng, thì điều đó có lẽ đã không khiến mình sôi máu. Đằng này, đó lại là một người em gái mà anh ta bấy lâu không biết có tồn tại, và với anh ta đó như nàng Dea của Victor Hugo đối với Gwynplaine(23) vậy: tình yêu tuyệt đối.

Cả hai cùng mồ côi cha, người đã bỏ rơi họ, họ đào lên những điều được chôn sâu tận cùng ký ức, cách để xích lại gần nhau. Cứ hình dung họ bên nhau là mình lại không chịu được. Văn đã không nói gì với mình về lá thư của Ulma, như thể anh ta là người giữ một văn bản tuyệt mật, và anh ta im ỉm về tất cả những điều liên quan đến ả. Họ yêu nhau lén lút, mãnh liệt. Họ thích nhau ngay lập tức, anh ta bị Ulma chế ngự. Sự yếu đuối và dịu dàng của ả là bùa bả với anh ta, vốn thấy mình đây quá độc đoán. Ả như nàng tiên Morgane, có vẻ quyến rũ hắc ám. Mình đã nhận thấy điều đó ở đám tang của Văn. Ả dường như đến từ một hành tinh khác, có cái nhìn dò xét, nhưng hễ người ta hướng về phía ả, ả lại ra vẻ một người khó gần. Trong thư, Văn gọi ả là Albertine(24) của anh ta. Ả không còn là một cô gái tuổi hoa, nhưng có nét duyên chết người. Đám phóng viên có mặt ở nghĩa trang dường như bị ả kích thích trí tò mò. Laure vừa dò xét ả vừa giả bộ vô cùng dửng dưng. Hugues không ngừng dán mắt vào ả. Mỗi Rachid là không chòng chọc nhìn ả thôi. Văn, nằm trong áo quan, hẳn là bối rối trước bức tranh này: tất cả đứng quanh nàng Ulma quyến rũ, mà nếu không có nàng thì có lẽ anh ta vẫn sống trên đời.

Tại sao mình lại mời ả đến tang lễ? Có thể là bởi mình muốn thấy ả bằng xương bằng thịt, vì mới chỉ thấy qua ảnh, hay bởi mình muốn, như Laure nói, làm hài lòng Văn, anh ta sẽ không yên nghỉ nếu mình không tập hợp bên mộ anh ta tất cả những người thân thuộc và, năm ngoái, đối với anh ta thì Ulma còn hơn cả một người thân thiết. Mình đã cố tự phục hồi danh dự, cố không hạ mình làm kẻ ti tiện. Quá muộn để hối hận vì đã không làm chủ bản thân. Mình không hề chủ ý cán Văn, mình nhấn chân ga trong khoảnh khắc đang ở tâm trạng rối bời. Bóng dáng Văn hiện ra đằng xa. Mình thậm chí còn không chắc đó là anh ta. Mình không còn chắc điều gì hết, cổ họng nghẹn cứng, một lớp voan che trước mắt, nhẽ ra mình đừng uống rượu, rượu không giúp mình, mà mình cần một thứ thuốc tăng lực, mình chưa bao giờ lang thang bên ngoài vào giờ muộn như vậy. Mình đã bị sốc mạnh khi nhìn thấy tấm hình của Văn và Ulma ở vườn Luxembourg, ngồi gần tượng Laure de Noves, ở chính nơi mà hai mươi năm trước, mình đã trao anh ta nụ hôn đầu. Nhẽ ra anh ta, vì tôn trọng mình, đừng đưa ả đến công viên này mới phải. Đó là khu vườn của chúng mình, nơi dạo chơi của chúng mình khi còn như hình với bóng. Mình không quan trọng so với ả, nữ thần biển Calypso đáng gờm, có khả năng quét sạch trí nhớ anh ta. Mình có lẽ sẽ ít đau đớn hơn nếu anh ta thân mật với một ả tiên rừng nào đó ở đây, có thể khiến anh ta quay cuồng đầu óc. Anh ta sẽ nhanh chóng nhận ra những cô ả ấy rất tầm thường. Nhưng anh em lai cùng cha khác mẹ, một chút bí hiểm, thì không phải cứ ra ngõ là gặp. Đặt cạnh Ulma, mình trong suốt, mình không thuộc về những người đàn bà tự dằn vặt, mình thể hiện ra ngoài tất cả mọi sự hỉ nộ ái ố. Mình không tin được rằng, ngậm miệng làm thinh, mình lại đi đến việc thuê người theo dõi chồng hàng tháng trời, để bắt dính quả tang anh ta. Gần sáu tháng theo dõi, những báo cáo chi tiết, hàng chục tấm hình. Nhưng mình làm ra vẻ không hay biết gì hết. Tất nhiên, đôi khi mình ngủ trên ghế đệm ngoài phòng khách, không nói một lời nào với Văn suốt nhiều ngày, để anh ta đoán rằng mình sắp bùng nổ. Mặt mình phờ phạc, dù đã uống ma giê. Mình chểnh mảng việc nhà, không nấu nướng nữa, đi ngủ càng lúc càng sớm, khi anh ta ở chỗ Ulma, mình nằm ẹp trong phòng, dán mũi vào truyện trinh thám, nhưng người mình khi ấy sôi sùng sục đến mức không theo được tình tiết truyện. Khi anh ta đi dự chiêu đãi, mình không tháp tùng nữa, với những gì thu được ở đó thì chẳng đáng cho mình nhấc chân.

Laure ngờ thấy có xung đột âm ỉ, nhưng không biết nguyên nhân. Văn và mình chỉ cãi nhau thực sự khi nó mò về đêm hôm khuya khoắt hoặc bối rối vì thi cử hỏng bét. Cũng chẳng phải người vợ bao dung cho lắm, mình là người mẹ tuy không muốn xúi con gái chống lại cha nhưng điên lên thì sẵn sàng ly hôn. Mình không phải cái khăn giấy người ta dùng rồi vứt. Nếu Laure không nói với mình rằng cuộc hôn nhân của mình với Văn phải là vĩnh hằng, thì mình hẳn đã không nhịn việc xổ hết ra và cho anh ta một bức tối hậu thư… Tối hậu thư nào? Hoặc là Ulma hoặc là mình ư? Vậy thì mình phải thừa nhận đã thuê thám tử theo dõi anh ta, và nói ra chuyện đó thì vẻ vang gì. Đâu ai cấm đoán việc ở bên em gái vào các buổi tối. Nếu không có chứng cứ về mối quan hệ mật thiết hơn bình thường giữa anh trai và em gái, người gây bối rối đến thế, thì có lẽ mình đã cho rằng mình thổi phồng mức độ rung cảm yêu đương của họ. Bên ả, anh ta mệt nhoài khám phá mọi khoái cảm, trong khi anh ta có một cuộc sống tẻ nhạt bên mình. Anh ta với ả tuy hai mà một, trong khi anh ta với mình thì không phải lúc nào cũng tâm đầu ý hợp.

Mình không chịu nổi việc anh ta nói dối mình, việc anh ta không tính gì đến hai mươi năm chung sống của chúng mình, như thể xì! đó chỉ là món khai vị không làm anh ta no nê, và anh ta vẫn thèm thuồng món khác. Sự xuất hiện bất ngờ của Ulma đã gây hệ quả xấu cho mình, người vốn thường biết điều. Đầu óc mình, như cái la bàn loạn hướng, xoay tứ tung và gợi cho mình những cơn cuồng sát. Mình đã làm thế nào, suốt nhiều tháng trời, để có thể mở thư Ulma ra, đọc, sau đó dán lại phong bì, chuyển cho Văn và vờ như vô tội? Đó là hành động ti tiện, nhưng khi phải nhờ đến thám tử, mình đã vượt quá một giới hạn nào đó rồi.

Mẹ mình có lẽ sẽ bảo rằng, nếu nghe bà ta thì mình đã không ngập trong rắc rối thảm hại này, thì mình đã có một người chồng truyền thống và những đứa con tóc hoe vàng rất đâu vào đấy cũng nên. Nhưng các thầy cô giáo mình, đám đầu đầy chữ ấy, đã nhồi sọ mình tới mức mình chỉ còn là kẻ của thế giới thứ ba, và mình quyết định chung sống với một gã lưu vong… Cha mình không cho mẹ hay biết về chuyện đã xảy ra, cha đến đám tang Văn với cớ đi thăm cung điện Versailles. Cha giật mình khi thấy tóc mình trắng đi sau vài đêm. Mình suy sụp. Trước cái huyệt sắp chôn cất Văn, mình có cảm giác chân khuỵu xuống, sắp xỉu. Tuy nhiên mình vẫn trụ được. Chỉ có khóe môi giật giật là dấu hiệu mình sắp òa lên nức nở. Mưa rơi mau hạt càng làm mọi thứ bi thảm hơn. Laure đầm đìa nước mắt, nó cắn chiếc mùi soa mình chìa cho nó để kìm những cơn nấc. Hugues, bằng một giọng đều đều, làm người ca tụng Văn, những người tham dự trầm mặc, các đồng nghiệp của Văn, sau khi đã nói lời chia buồn với mình, thể hiện một vẻ mặt hợp tình huống, Ulma rờ cuốn sách đóng bằng da nâu mà ả kẹp nách, như thể do dự không biết có nên đọc cho bọn mình mấy đoạn không, nhưng Laure đã làm trước ả, nó chìa ra tuyển tập thơ Reverdy.

Không ai có vẻ coi mình là tội phạm. Người ta xúc động trước cảnh Laure và mình tạo ra, một người mẹ và đứa con gái chịu tang. Ngay cả Rachid, người mà mình đã gọi sau khi Văn chết để gào lên rằng đó là một tai nạn, cũng có vẻ cho rằng mình vô tội. Anh trấn an mình và đưa mình thông tin liên lạc của luật sư Dieuleveult. Hugues và anh, tuy rụng rời, cũng đã xin mình bớt lo lắng. Mình phải nghĩ tới Laure, nuôi dưỡng ở con bé lòng hiếu thảo với cha nó, phải cắt xén một số chi tiết nói ra không hay gì, chẳng hạn như khuynh hướng bịa chuyện hoang đường của anh ta khi mình yêu cầu giải thích về những buổi chiều đi săn gái. Nhưng Laure không còn là trẻ con, mắt nó đâu có để trong túi, mình giấu nó sự thật cũng vô ích thôi, nó chỉ cần quan sát Văn và mình, là biết rõ. Cuộc hồn nhân của chúng mình rệu rã. Cả trước khi Ulma chia cắt chúng mình, chúng mình ném cho nhau những lời đáp trả vô cùng chua chát. Văn luồn là người đầu tiên giơ cờ trăng, mình chỉ miễn cưỡng tha thứ cho anh ta. Như vậy, nhì nhằng thì chúng mình cũng đã thiết lập được chút bề ngoài hòa hợp để Laure phát triển được trọn vẹn. Hai mươi năm không phải là ít, thế nhưng, hai mươi năm ấy đã bị quét đi ngay khi Ulma xuất hiện.

Và giờ đây, Văn nằm dưới lòng đất, Laure không còn cha nữa, mình tổng kết lại hai thập kỷ này… Mọi chuyện thế là đã kết thúc, kết thúc thật rồi sao? Không còn cách nào để đưa Văn trở lại với cuộc đời sao?