Laure
Tommy, nghe độc folk gothic, đã thâu cho ta Magic Arrow của Timber Timbre. Ta tua đi tua lại bản đó từ sáng nay. Ta dậy chế cho mình cà phê và mấy lát bánh mì nướng. Lou vẫn trong phòng ngủ. Không một tiếng động trong nhà. Ta ở bên cửa sổ bếp một lúc lâu, mắt chăm chăm vào tòa nhà đối diện. Công nhân đã dựng ở đó một giàn giáo để xủ lý mặt tường, sẽ mất mấy tháng cho coi. Các tấm bạt phần phật trong gió, các ống kim loại không có vẻ được cố định chắc chắn, nhỡ mà sập nhỉ? Một kẻ thuê nhà sẽ lĩnh trên đầu cả đống sắt vụn… Tiếng hú cời xe cứu hộ khiến ta giật mình. Việc chất như núi mà ta còn ì ra đấy, ta xếp CD theo trật tự chữ cái, lau chùi máy tính, tìm trên Google những thành ngữ Kinh thánh mà rồi sẽ đếch bao giờ dùng đến, trừ phi để ra vẻ trước mặt Tommy, hắn đâu phải tay chơi ngạn ngữ. Hắn gửi ta mười tin nhắn, những chuyện đùa vô duyên đổi gió cho ta khỏi những chuyện đùa nhạt nhẽo của hắn. Hắn cũng ngủ ít. Hôm qua, hắn bị tống khỏi một hộp đêm, vì lúc đó đang phê thuốc và bắt đầu cởi đồ giữa sàn nhảy. Một gã đồng tính giả gái đã bắt chước hắn. Ta mong thấy vụ đó thế. Đúng là cái tên Tommy này! Văn còn sống thể nào cũng nói hắn vô phương cứu vãn. Hơn nữa, hắn đã bị đuổi khỏi trung tâm bảo trợ nhưng lại tìm ngay được một ổ tại khu Goutte d’Or. Đó là ổ chuột, nhà tắm và nhà xí trên thềm nghỉ, hắn đếch có sưởi, thế là phải tự mua một con máy khiến bụp luôn quả cầu chì khi cắm điện. Thế nhưng, ở đó hắn còn hơn cả sướng: không cha mẹ lên lớp, không người làm công tác xã hội soi, không anh chị em phá thối, không lũ bạn xoáy tiền. Nếu thích đi khò lúc nửa chiều, trong khi những kẻ khác tã tượi ở nhà máy, thì hắn cứ thế đánh một giấc, nhất là đêm nào hắn cũng ra ngoài. Nếu thích xì đống tiền cho ba thứ lăng nhăng, như tấm poster do một nhóm thần tượng đề tặng, hắn chả lần khần lâu, mua ngay, dù phải xay ra cám khi đếch nhìn nổi nó nữa. Hắn còn mail cho ta thơ của Arthur Cravan, võ sĩ quyền Anh mất tích ngoài khơi: Tâm hồn nào chiếm tôi? / Tôi nghe thấy tiếng nhạc: / Tôi sẽ bị cuốn theo? / Tôi vô cùng thích nhảy / Thích trò điên thể chất / Đến nỗi hiển nhiên thấy / Rằng, nếu là thiếu nữ, / Thì tôi đã hỏng đời. Với Tommy, đó là một đại diện phản văn hóa. Cravan hẳn phải là người thổi kèn dụ rắn, gã tiều phu, kẻ trộm, người hái cam. Ông đã báo trước: Kẻ tự cho là giống tôi đến đây, tôi sẽ nhổ vào bản mặt anh ta. Văn đọc tác giả này chưa? Ổng xếp những kẻ khiêu khích ở vị trí rất cao, và Cravan, tai tiếng, kỳ quặc, là kẻ ngầu nhất trong số đó.
Tất tật đều đưa ta về với Văn. Ổng là trục đứng mà mọi thứ đều xoay quanh. Khi ai đó chết, người sống có xu hướng tết nguyệt quế cho kẻ đó, ta chẳng chạy theo thói ấy, ta không biến Văn thành một chân dung ngưỡng vọng. Ổng cũng có tật và chả sửa quái gì cùng năm tháng. Ổng sùi bọt trước mâu thuẫn nhỏ nhất, đi từ nguyên tắc gi gỉ gì gi cái gì ổng cũng đúng, rằng ta là ranh con cà chớn, rằng Lou chưa nghiêm khắc với ta lắm. Hơn nữa, ta có bạn trai là một tay bán lẻ xì ke chi chít tiền án tiền sự. Hắn bị tóm nhiều phen rồi. Hắn sổng khỏi tù, chỉ bị quất lao động công ích, nhưng hắn là “phường lưu manh không thể cải nổi”, Văn bảo vậy. Ông còn nói rằng Tommy lòe ta liệt kê mấy danh họa mát dây và thi sĩ chập mạch. Đúng vậy, món đó khiến ta choáng luôn. Ta học được những điều ở trường không dạy. Món người ta nhồi chán nẫu đi. Ta hầu như đếch nhớ gì, phải nói rằng ta tứ phương cố cưỡng. Văn cho ta mượn mấy quả sách, ta đếch buồn mở ra. Ổng cho ta mượn Wozzeck của Alban Berg, ta lại khoái Blood Money của Tom Waits hơn. Ổng lôi ta tới mấy triển lãm, ta dừng ba mươi giây trước mỗi bức tranh. Ta chẳng thèm thông lỗ tai khi ổng bàn luận về buổi đầu điện ảnh. Biết anh em Lumière và Max Linder là ai thì ta cũng đâu kiếm chác lợi lộc gì. Giờ đây, ta sẽ chẳng còn nghe Văn lý sự này nọ nữa. Vào gam rồi thì ổng ca ngon lành lắm đấy, cả Lou cũng ớ người luôn. Chả phải từ điển sống, nhưng hỏi gì ổng đáp nấy, thể loại gì cũng chiều. Giữa Hugues và ổng, lúc nào cũng thi thố uyên bác. Bọn họ trích dẫn nào những triết gia tiền Socrates, nào những nhà tư tưởng lạ hoắc. Gió bão cứ gọi là ầm ầm, tới mức Lou kêu lên: “Đừng có chém nữa!” Thế là, họ cười bò, quay lại những chủ đề bớt nặng đô hơn, và mười lăm phút sau lại bụp những thể loại vỡ đầu. Điên cả thủ! Ta đau cả não.
Văn không còn sống để khuấy động buổi tối nữa. Lou và ta ai giam mình trong phòng kẻ nấy từ lúc chín giờ. Bả hầu như không hé răng nữa, ở trong thế giới riêng, khi ra khỏi đó, bả có những động tác mộng du, dưỡn suốt cái gi lê Văn tặng năm ngoái, đếch trang điểm nữa, bả phải nhuộm tóc thôi, hoa râm từ mấy tuần nay rồi, nhưng bả chẳng bụng dạ nào dành hàng tiếng ngắm vuốt. Bả đi tới đi lui suốt đêm. Sáng ra, mắt thâm quầng, môi nhợt nhạt, bả uống hàng lít cà phê để trồi dậy, mà đâu ích gì, bả uống nào sắt, nào vitamin B12, và đủ loại thuốc bổ, tới mức ta tự hỏi mớ cocktail này chẳng ra thuốc nổ ấy chứ. Bả lúc nào cũng lo lắng cho sức khỏe bản thân, bả trị chứng sổ mũi bằng thảo dược, bả là kẻ phục tùng vô điều kiện của y học êm ái, trong khi Văn có lối sống phi lành mạnh. Nó làm ổng bị huyết áp, rối loạn gan, viêm thanh quản liên tùng tục. Còn khi bị cúm, ổng chỉ tin vào kháng sinh để trở lại lợi hại hơn xưa. Lại thêm một chuyện muỗi ghi vào cột những bất đồng. Nếu chỉ có vậy đã phúc! Nhưng Lou muốn Văn phải hoa lá cành hơn cơ, phải gần như thần thánh hóa bả. Bả giấu ta những trò tà lưa của ổng, nó chạm tự ái bả. Văn không phải loại đàn ông hút gái. Hồi trẻ, ổng đếch tự tin chút nào, điều đó chẳng khiến một vài cô chán ghét. Ổng không một hai tìm cách thả thính, nhưng chẳng thể ngăn mình “buông lời ong bướm”. Lou giả bộ không khổ tâm về việc đó, như thể bả biết ổng quá rõ, nên đâu ngạc nhiên về cách hành xử của ổng. Mỗi lần họ đi ăn tối hoặc hội hè cùng nhau, bả luôn trở về nhà với cái mặt xị như bị rách: Văn lại chài một khách mời chứ gì đâu, ổng quăng mẻ lưới lớn trong bốn mươi lăm phút, ngày hôm sau thì quên luôn cô nàng mà ổng đã “đeo đuổi xun xoe”, Lou nói, bả thấy chuyện này khó tiêu hóa. Có gì mà phải rùm beng. Văn đâu phải kẻ phản bội, bằng không ta đi đầu xuống đất.
Với Ulma lại là thứ nhạc khác. Mụ mang lại cho ổng khoái cảm mới, mụ gọi cho ổng Việt Nam. Ổng thường nổi xung khi bị người ta hỏi về gốc gác. Ổng nói rằng ổng cảm thấy mình “chẳng phải Việt cũng chẳng phải Pháp, mà luôn trong tình thế lập lờ”. Ổng đâu còn nói tiếng mẹ đẻ từ ba mươi năm nay. Từ khi còn ở trong nước cơ, ổng biết nhiều về châu Âu hơn Viễn Đông. Sách vở đọc được, tình yêu điện ảnh của ổng, tất thảy đều mang dấu Tây phương. Trên giá sách của ổng có thơ của Lý Bạch, tiểu thuyết của Kenzaburō Ōe đấy, ổng đi xem phim của Im Kwon-Taek và những nhà làm điện ảnh Hồng Kông đấy, nhưng nói chung ổng hướng về Đông phương ít hơn về Tây phương. Mượn ý của Frantz Fanon, ổng nói về mình: “Da vàng, mặt nạ trắng.”(25) Ta đồ là ổng đã cắt đứt với quá khứ. Ổng giữ khoảng cách với cha mình, người cứ bám chặt vào gốc rễ. Ông nhắc lại không ngớt rằng ổng, “kẻ mất gốc, được di cư đến mảnh đất Pháp, chẳng phải nạc cũng chẳng phải mỡ”. Ổng nghiện nặng văn chương Pháp, Ý, Đức, Bồ, nên không thể không có lối tư duy Tây phương. Có một chút chất Việt sót lại trong cái chất Âu của ổng đấy, nhưng nó nhỏ đến mức có xu hướng bị hòa tan. Ổng chưa bao giờ muốn đi du lịch tới Việt Nam, ngay cả những năm trước, khi khách du lịch đổ xô đến chụp hình các đền miếu ở Hà Nội và ngả ngớn trên các bãi biển.
Tommy rủ ta tạt qua chỗ hắn, hắn có DVD một bộ phim của Guy Maddin, mà theo hắn là thiên tài thể loại thần thoại. Nhưng ta đã hứa ăn trưa cùng Lou, bả chỉ ra khỏi phòng để cộc cửa phòng ta bảo rằng bọn ta sẽ không đi Fontainebleau nữa, với thời tiết như vậy, mà sẽ ăn nhẹ vào khoảng hai giờ chiều. Bả có cái giọng bên kia nấm mồ, chắc hẳn đã không có một đêm yên giấc. Ông ngoại tới hôm kia, trên tám mươi tuổi rồi mà hễ Lou gọi là lao vội đến. Ta ái ngại cho bả, nhưng chẳng nghĩ ra được câu động viên cóc khô nào cho nên hồn. Trái lại, ta mít ướt, mấy tối, ta sà vào lòng bả và thế là phun xối phun xả, ta khóc, ta khóc, bởi ta buồn vì đã bật lại Văn, đã không khiến ổng tự hào về ta. Ông ngoại đưa bọn ta đi ăn tối ở một quán. Lou chỉ ăn món xúp hành tây, ta bỏ mứa một nửa món choucroute hải sản. Bả chẳng nói mấy, ta cũng vậy, ông ngoại thì chuyện trên trời dưới bể. Lou chả chăm chú nghe, ta vê ruột bánh mì thành những viên tròn, cuộc chuyện trò rời rạc như cơm nguội, ta đếch sôi nổi, Lou bị viêm răng khiến bả đau nhức, ông ngoại cụt mánh để giải khuây cho bọn ta. Ông ngoại tránh nhắc tên Văn, nhưng cả ba chỉ nghĩ đến chuyện Văn qua đời.
Ông ngoại là người phúc hậu, nhưng toàn bộ vụ này quá bằng đánh đố ông. Ông ngoại quý mến Văn, và thấy Văn thường lúng túng, ông ngoại chẳng biết cư xử sao cho vừa, Vàn đâu phải lúc nào cũng phổi bò, có khi ổng lú mề, dấn thân vào những lời tiên tri kiểu Nostradamus. Ta kinh ngạc, Lou mắt chữ A mồm chữ O, ông ngoại cười gượng. Mấy ngày sau, Văn lại vô âu vô lo, và tự đùa cợt những trò nghiên cứu của mình.
Văn là một nhân vật lạ lùng, và ta đúng là con gái ổng, cũng ít theo ước lệ, cũng cứng đầu. Ta giống Lou ở tính cân bằng, nhưng giống ổng ở xu hướng chuyên lật lại vấn đề, tới mức nghi ngờ chính mình và chẳng làm gì ra hồn cả. Mười bảy tuổi, ta đếch làm nên trò trống gì, chỉ là một thợ chụp a ma tơ. Suốt thời gian dài, ta tinh tướng vì có mẹ hiệu trưởng và cha chữ nghĩa. Hơn nữa, họ ở với nhau từ hàng thê kỷ, trong khi cha mẹ lũ con gái cùng lớp đã ly dị và tranh giành quyền nuôi con. Bao nhiêu lần ta bảo với Lou rằng cặp đôi mà bả tạo với Văn phải kéo dài. Muốn vậy, bả đừng bé xé ra to mỗi khi Văn không nên không phải. Bả đã bảo đảm với ta sẽ dằn lòng, tiết chế lời ăn tiếng nói, xoa dịu bất đồng. Mọi chuyện có thể nói là ổn thỏa chừng nào không có Ulma, thậm chí có đôi lúc Lou điềm tĩnh đón nhận mọi sự trong khi ổng luống cuống, rối lên thanh minh bằng những câu chuyện sặc mùi dối trá, sau khi ngủ lang bên ngoài, trong những quán bar. Họ thậm chí đã có một kỳ trăng mật lần hai cách đây hai hay ba năm gì đó. Văn từng nói với Lou rằng không có bả thì ổng toi, rằng họ phải sống với nhau trọn đời. Họ từng chẳng đi đâu nữa ngoài vùng Provence, và luôn dẫn ta theo, họ dành cho nhau những cuối tuần dài chỉ hai người ở Barcelona, Dublin, Bilbao. Họ trở về vui vẻ và, trong nhiều ngày, quan tâm chăm sóc nhau tợn. Văn ít ra ngoài và về nhà sớm, tươi cười và thoải mái, Lou cho ổng ăn gan béo áp chảo kèm rượu nho hảo hạng và buổi tối hai người đi xem phim. Chỉ có một điểm đen duy nhất, đó là bảng điểm của ta, chả ra thể thống gì, trừ tiếng Pháp và Nghệ thuật tạo hình. Văn chẳng hối thúc giục giã nhiều lắm. Ổng nói rằng ta đâu có dốt đặc cán mai, là các thầy cô không biết cách với ta thôi, chỉ cần ta muốn là vượt qua cả những đứa đầu lớp.
Cái thời không một gợn mây ấy chẳng được bao lâu. Những xích mích lại xuất hiện, do Lou kiếm cớ cãi lộn, do Văn được chăng hay chớ, do ta chả theo phe nào mà chỉ khoái gì làm nấy. Lỗi quá lớn của ta!(26) Nhưng nhiêu đó chỉ là muỗi đốt inox so với bão tố do lá thư của Ulma gây ra. Mụ tìm lại được dấu tích của Văn nhờ ông anh của người cha chung, mà Văn liên lạc một hay hai lần mỗi năm, nhưng người bác này chưa bao giờ nói với Văn chuyện mụ đã đến gặp ông. Cùng lúc, Văn được biết cha ổng đã tới Paris cuối những năm sáu mươi, rằng cha ổng đã gặp một phụ nữ Pháp và không thừa nhận Ulma. Văn không ngừng nói về người mẹ đã một thân nuôi dạy ổng bao nhiêu, thì lại hiếm khi bóng gió nhắc đến cha ổng bấy nhiêu, hay đúng hơn là nhắc đến với một chút cay đắng. Ông đã bị tổn thương nặng nề vì người cha ngoại hạng đến thế đã ra Bắc ít lâu sau khi ổng chào đời, cho dù đó là vì một lý do cao cả. Văn chưa bao giờ vượt qua được sang chấn tâm lý ấy. Vì thế ổng cố làm sao để ta không bị tước mất sự có mặt của ổng và để Lou với ổng hàn gắn những đổ vỡ khi cơm chẳng lành canh chẳng ngọt.
Ông nội ta là một người có đầu óc và yêu nước gần như cuồng tín. Cũng như người Tàu thời xưa, ông nội là kẻ thù công khai của lũ “quỷ sứ nước ngoài”. Văn rất cởi mở với những gì đến từ nơi khác. Ổng thuộc thế hệ không còn nhìn thấy bóng dáng kẻ cướp đoạt ở người Pháp, kẻ xâm lược ở người Mỹ. Mẹ ổng đã thúc ổng hoàn thiện tiếng Pháp, say mê với những gì được làm ở nước ngoài và chạy vạy để ổng có thể rời Việt Nam, sau khi Sài Gòn thất thủ. Ổng vô cùng tôn kính mẹ. Ổng nói nợ mẹ tất cả, chuyện học hành văn chương, cuộc sống ở Paris, tầm nhìn rộng, nếu không có mẹ thì ổng có lẽ chẳng là gì, đã nhập ngũ, đi đánh nhau ở Campuchia và ngã xuống nơi chiến trường ở tuổi thanh xuân. Mẹ ổng đã tận tụy hết lòng với ổng, tới mức không tái giá và gửi ổng sang Pháp, xa mình. Cuộc chia tay ấy là một cú sốc, ngay cả vào cái tuổi mười lăm ấy, ổng “rung cảm với viễn cảnh lang thang qua các con phố khu La tinh”, như vẫn kể cho bọn ta, Lou và ta. Trong những tháng đầu ở Paris, ổng “hứng khởi vì được ở đây”, dưới những cây dẻ trong vườn Luxembourg, không xa tháp Montparnasse là mấy, gần cầu Pont-Neul. Ổng dạo chơi khắp noi, từ đồi Montmartre tới công viên Montsouris, từ Trocadéro đến Montreuil, từ Courneuve đến rừng Boulogne… Ổng đã đến xưởng vẽ của Gustave Moreau, của Delacroix. Ổng cũng đã đi viếng mộ Nerval. Ổng đã đi tìm tượng Montagne ở Paris. Ổng viết thư cho mẹ kể rằng tất thảy đều làm ổng hứng khởi, mỗi tội không được chia sẻ với mẹ những khám phá của mình. Ổng gặp chút khó khăn để thích nghi với cuộc sống. Ổng bỡ ngỡ, thấy mình bươm, chứ chẳng tươm như đám công tử nhà giàu cùng trường, nhưng sau hai học kỳ, vì vượt hẳn bọn họ ở các kỳ thi thử, ổng lấy lại niềm tin mà không quá tự phụ khi kể trong những lá thư gửi mẹ. Ổng còn nhắm xa hơn thế, muốn nhảy cóc một lớp để vào đại học nhanh hơn.
Sylvère, người đỡ đầu ổng, có một căn hộ ở phố Toumon, gần khách sạn nơi Joseph Roth từng ở những năm tháng đen tối. Văn chỉ có một buồng con chỉnh trang sơ sơ, nơi chỉ kê được vừa xoẳn một cái giường con và một cái bàn. Nhưng ổng đâu khó tính. Có một mái nhà là quá tốt rồi. Dù sao, khi không đi học, ổng cũng đi bảo tàng, rạp chiếu bóng, hoặc thư viện Sainte-Geneviève, có khi ở đó tới tận mười giờ tối. Ổng chỉ về nhà để ngủ, vậy thì sáu mét vuông không cửa sổ như thế đâu có đến nỗi. Nếu không có cặp sinh đôi của người đỡ đầu, thì có lẽ mọi việc đã tuyệt trên cả tuyệt ấy chứ. Bọn họ quá đáng với ổng, như các bác ổng đã quá đáng với cha ổng khi người phải xin tá túc do bị mắc lại Sài Gòn. Văn đâu phải đầy tớ của hai anh em sinh đôi nhà kia, thế mà bọn họ chửi rủa ổng, bảo ổng chỉ là đồ cặn bã. Bọn họ còn điên hết hơn nữa khi cha họ lấy Văn làm gương, vì ổng đứng đầu lớp. Năm hai mươi sáu tuổi, họ vẫn ăn bám Sylvère và kết tội Văn cướp miếng cơm của họ, rằng Văn là một kẻ khôn lỏi ỷ lại vào cha họ để ngồi mát ăn bát vàng. Văn dù có giả câm giả điếc trước hai người bọn họ cũng vô ích, ổng điên tiết và tự hứa sẽ không chết gí ở nhà bọn họ: ngay khi có bằng cấp ba thì chào, bye! Ổng nhận bất cứ việc gì để không phải phụ thuộc vào người đỡ đầu. Và ổng đã giữ lời. Ổng từ giã như tàu ra biển lúc mười bảy tuổi, mặc dầu Sylvère níu giữ.
Thế là với Văn, một thời kỳ thiếu thốn bắt đầu. Chẳng còn xi nê, chẳng còn triển lãm, ngày nào cũng mì ống, một cái tổ với cái đệm kê thẳng xuống sàn. Ổng đổi việc xoành xoạch, mà nào có được trả hơn gì cho cam. Thậm chí ổng từng chào hàng tại nhà, nhận sắp xếp những bộ bách khoa toàn thư. Suốt năm năm đại học, buổi tối và cuối tuần ổng chạy sấp ngửa trong các quán ăn, thế nhưng đừng hòng cho phép mình nghỉ ngơi và cố tăng tốc để nhanh chóng lấy bằng. Ổng có tinh thần của người chạy đua đường dài. Không xu dính túi đâu có quan trọng gì, ổng “tích lũy vốn trí tuệ”, ổng thường cười nhếch mép bảo ta vậy. Mùa đông, ngồi vào bàn học, ổng phải cuộn mình trong nhiều lớp chăn để khỏi run lập cập. Khi trời nóng bất thường, lỗ cửa sổ con không để lọt tí gió nào. Nhưng phải quá đa quá đỗi hơn nhiều thì may ra ổng mới buông tay.
Khi ấy ổng kết giao với Hugues và Rachid. Họ ngồi với nhau quanh món mì và tranh luận tới ba giờ sáng. Rachid cho ổng mượn các tiểu luận, Hugues tiếp tế cho ổng những tút thuốc. Rachid gợi ý ổng gia nhập một đảng cực tả, Hugues gợi ý ổng theo đảng xã hội. Nhưng họ nói chủ yếu về sách: Kẻ trộm của Georges Darien, Hồi ký của Lacenaire, người có ý “đánh vào cơ cấu xã hội”… Ta mới chỉ đọc Lacenaire, và thấy rằng tên bịp và sát thủ ấy, nói như Baudelaire là bậc “anh hùng hiện thân đời sống hiện đại”, có một ngòi bút tuyệt vời.
Văn không nói với bọn ta, Lou và ta, liệu thời đó ổng đã lân la chim chuột chưa, thành ngữ luôn khiến ta nghĩ tới Buster Keaton và những vị hôn thê điên rồ. Văn chắc chắn có một hoặc hai cô bồ, sử gia hay nhà Anh học, nhưng vì hễ động nói đến gái là Lou cau mày, nên ổng giữ hết trong lòng. Bả còn ghen cả với mẹ Văn. Bả những muốn được là người đàn bà duy nhất ổng từng yêu, rằng mắt ổng không nhìn thấy ai khác tồn tại ngoài bả và ta. Bả có tính sở hữu đến mức tự làm khổ mình vì cứ có ít xít ra nhiều. Cuộc hôn nhân hơn hai mươi năm, đó là một hợp đồng. Mỗi tội là, Ulma đã gây ra cơn sóng thần. Văn bụp phát bị ném khỏi những điểm mốc của mình. Ổng còn không nói cả với Hugues và Rachid điều gì đã đưa ổng vào trạng thái gần như đờ đẫn. Ổng lại càng không nói với Lou, nhưng bả bắt sóng được, và có linh cảm là lần này, bả sẽ có một đối thủ nguy hiểm.
Ulma là đối thủ nguy hiểm ư? Ta chả tin. Mụ đã đến với Văn không dã tâm. Bản thân ổng chắc không ngờ rằng, ở cái tuổi gần năm mươi, ổng lại bị một cú khuynh đảo. Ấy là duyên nợ rồi: Văn cần sự mới lạ, Ulma đã đến đúng lúc để mang tới cho ổng cái chưa từng có. Người em gái cùng cha khác mẹ coi ổng như một cái tôi khác, thật không tưởng được! Ở nghĩa trang Bobigny, ta đã có thể nhận thấy sự mê hoặc ở Ulma. Mụ toát lên, với làn da nâu, dáng vóc mảnh mai tuyệt vời, đóng bộ kiểu cách, mái hiển nhi đen làm nổi bật ánh mắt. Có vẻ mụ giống cha như đúc, điều này hẳn khiến Văn thấy kỳ kỳ, trong các ngăn kéo của ổng có nhiều tấm hình của ông nội thời ba mươi tuổi. Hình như mụ từng sống với một DJ rất nổi, một nhà vật lý thiên văn rất được chuộng, một nhà khảo luận từng xuất bản mấy tác phẩm triết học và một tay đọc rap, cũng dân ổ chuột mà ra. Ấy là theo báo cáo của ông Grimaldi, đã đi bới tung đời tư của mụ để không bỏ sót gì. vẫn theo ông Grimaldi, mối quan hệ của mụ với mẹ đẻ cũng chẳng tốt đẹp gì, bà ấy vẫn thờ ông nội ta, dù chỉ có với nhau cuộc dan díu một tuần và khi về Việt Nam, ông nội không trả lời lá thư bà ấy thông báo con gái họ chào đời. Ulma lớn lên bên bà ngoại mụ, khổ sở với thân phận con hoang, bị mẹ bỏ bê, tới mức suýt chập cheng và vào trại tâm thần. Có thể vì mụ thuộc típ người hay xoắn, có chút gì đó đặc biệt, ảo ảo. Những cuộc giáp mặt giữa Văn và mụ hẳn là thần diệu. Mụ chắc chắn là người biết lắng nghe, chứ không như Lou, hễ Văn tâm sự là ngắt lời: ổng tự ngẫm quá xá. Mụ chắc chắn ngưỡng vọng ổng, chứ chẳng như Lou thường có giọng nhạo báng mỗi khi ổng bảo mình không hẳn bất tài. Mụ chắc chăn tán thành với ổng mọi điều, còn Lou chuyên môn bác bẻ mọi lập luận của ổng. Mụ chắc chắn tiếp thêm nghị lực cho ổng, trong khi Lou nhiều khi ngấm ngầm lung lay tinh thần ổng, vì bả tiêu cực thôi rồi. Và nhất là, mụ là cái ngoại lai hẳn hoi. Mụ có một chút máu Việt, một chút máu Thổ bên đằng cụ cố ngoại, một chút máu Basque của bà ngoại. Văn, vốn tán thành sự pha trộn các dân tộc, chỉ có thể phát rồ vì mụ.
Ta thấy kỳ kỳ khi tự nhủ mình có cả một hồ sơ về Ulma, trong khi mụ chẳng biết gì về ta. Chẳng biết gì ư? Văn hẳn đã kể với mụ về ta, vốn chẳng thấy ổng tuyệt, nhưng ta cũng đâu phải đứa con gái tệ. Ổng hẳn đã kể với mụ về Lou, nhiều khi không dễ gần lắm. Ta không cho rằng ổng xử tệ với mẹ con ta, ngay cả khi ổng có lý do để cằn nhằn bọn ta. Và rồi, họ có cái thú vị hơn để làm chứ. Họ có đầy thứ để thổ lộ với nhau. Lou và ta chẳng là cái đinh gì. Thậm chí Văn chẳng còn phải chiêu trò quyến rũ các em thực tập ở nhà xuất bản nữa, nhất nhất Ulma thôi. Thậm chí ổng chẳng còn liếc trộm các em bán sách xinh đẹp nữa, chỉ nhìn mụ thôi. Chẳng phải tài thánh cũng đoán được ổng đã phải lòng mụ.
Yêu em gái cùng cha khác mẹ có tệ không? Ta lấy quyền gì mà lên án Văn? Ổng chẳng có lỗi gì trong chuyện đó hết. Tình yêu chơi khăm các người. Ổng không muốn xôi hỏng bỏng không, khiến Lou bực mà lại chẳng làm Ulma sướng. Ổng trên đe dưới búa, đố mà thoát khỏi đó bằng bài chuồn đấy. Lou đâu có nhầm, Ulma không yêu cầu vị trí số một trong tim ổng, ổng đâu phải nhắc đi nhắc lại với mụ rằng đời ổng đã bị xô đẩy từ khi mụ ghé vào.
Ta đếch có quả cầu pha lê để soi đọc quá khứ, và ta thấy dường như bấy nhiêu đó quá phức tạp. Nào, dừng lại thôi, chuyện này không tốt cho ta, và Văn có lẽ cũng không tán thành cho ta khảo sát love story của ổng bằng máy chụp scan đâu. Ta sẽ ăn trưa với Lou. Bả đang suy sụp tận cùng.