Văn
Má tôi qua đời vì ngã xe đạp. Má mất thăng bằng và ngã một cú trí mạng: đầu đập mạnh vào mép vỉa hè. Má mất ngay tại chỗ. Lúc ấy là ba năm gần như tính từng ngày kể từ khi tôi rời khỏi Việt Nam. Tôi hay tin qua anh của ba tôi. Tin như sét đánh ngang tai. Tôi đang nghiền ngẫm những kế hoạch trong đó má chiếm vị trí đầu tiên, tôi đã đang mường tượng mình nộp hồ sơ để má sang Pháp đoàn tụ với tôi. Má còn trẻ, và tôi vui biết mấy được tổ chức cuộc đoàn viên, ngay khi ổn định nhà cửa việc làm. Mười tám tuổi, tôi đinh ninh chúng tôi sẽ lại sum hợp, trong tương lai gần. Mọi kế hoạch của tôi đổ sụp như lâu đài cát. Bị tước mất tài sản quý nhất, tình mẹ, tôi nổi giận như Job(27), và chắc đã báng bổ đấng tạo hóa hung nghiệt nếu không trống trơn đầu óc, nát tan vì chấn động. Từ nay tôi sẽ hướng về ai những khi héo ruột héo gan? Ai sẽ khen kết quả tốt của tôi? Má chết côi, giữa đường giữa sá, trong dòng xe đạp. Sầu thảm tột cùng, tôi để tang các kỳ vọng của mình. Nhưng mắt tôi ráo hoảnh, tôi tuyệt không nhỏ một giọt lệ, giống như đang đeo đá chứ không phải trái tim. Không cam lòng, tôi căng hết sức để đừng nỉ non hay tủi phận. Điều đó sẽ chỉ càng xát thêm muối vào nỗi đau tôi. Lòng tôn thờ cao nhất tôi có thể bày tỏ lên má là cũng ngoan cường như má lúc ba bỏ hai má con. Oán thán cú đòn phận này mà làm gì, cần phải biến cải nó bằng cách tôi luyện, kiên định đường mình. Má sẽ trách tôi là núng chí vì không còn má động viên, là bỏ cuộc vì bị giáng đòn đau. Cốt nhất là đừng để bị đốn hạ, kẻo lại ngã tay chèo khi cập bến, dù đã vượt qua muôn trùng sóng cả.
Ban đêm, ngủ trên đệm đặt bệt dưới sàn, tôi đưa mình về thưở còn ở Việt Nam, không quá sầu não vì đã ra đi. Tôi sẽ chẳng có tương lai nào nơi đó. Bên Pháp thì có chăng? Tôi đã thuận theo ý má. Má tin nơi trời Âu tôi sẽ có đất dựng võ. Tôi vẫn còn bảo má, sáu tháng trước thôi, mục đích duy nhất của tôi là đưa má đi khỏi Việt Nam, học xong tôi sẽ lo đủ cho hai người. Chúng tôi sẽ sống kiểu bình kín, đoàn viên, bất luận chuyện gì. Tôi có niềm tin Trời sẽ phù hộ độ trì. Bản thân má cũng vững tin vào sao chiếu mệnh của mình và sẵn sàng tha hương. Chúng tôi đã không biết trước chữ ngờ.
Má được anh của ba tôi chôn cất, bác gửi tôi lá thư cuối cùng má viết cho tôi, bằng tiếng Pháp, mà má mang trên người. Thư dài ba trang, viết nắn nót, trong ấy má muốn được yên tâm rằng tôi không thiếu thốn đủ thứ, rằng vắng người giám hộ tôi vẫn lo liệu được, rằng má sớm được thỏa nguyện thấy tôi bước chân vào một sự nghiệp suy chín xét xa mới chọn. Má không làm phiên dịch nữa mà chạy chợ rau quả. Đang lúc thắt lưng buộc bụng vì chiến tranh biên giới Tây Nam. Dẫu vậy, má không kể lể cảnh túng thiếu bao trùm đến cả các thành phố lớn. Má lo sao luôn tỏ ra đầy nhuệ khí để tôi khỏi nóng ruột. Các lá thư của má giúp tôi vững vàng trước những gì khiển tôi hoang mang. Lời má chạm vào tim tôi. Chí khí tôi bật dậy mỗi lần tôi theo những lời má động viên. Thiếu đi, có lẽ tôi đã không ngoan cường được như thế, bởi hoàn cảnh sống lúc ấy nhiều khi làm tôi thối chí. Chỉ cần hình dung má, thân cô thế cô giữa Sài Gòn, vật lộn lần hồi, là tôi lại xốc mình dậy. Tôi đâu đáng thương, tôi chẳng việc gì phải dựng túng quẫn của mình thành núi thành non. Tôi sống trên một xứ sở tự do, đi thư viện, được tùy nghi sử dụng mọi kho tàng văn chương thế giới. Tôi quả có gặp ngoài phố bọn ngu bựa gọi tôi là Tàu khựa, quả có cảm thấy ở vài kẻ sự kỳ thị úp mở, nhưng nhìn tổng thể, nước Pháp phần nào dành thịnh tình cho tôi, chưa có vẻ tiếm danh vùng đất tị nạn, chưa bầu đảng Mặt trận quốc gia, sự xua đuổi người nhập cư trái phép chưa đạt đỉnh điểm, súng điện Taser còn chưa đi vào sử dụng.
Má có hình dung nhất định tôi sẽ làm gì nếu đặt mục tiêu đủ cao. Tôi không được làm má thất vọng. Tôi không bảo má mình sẽ chẳng làm giáo sư hay giảng viên bủng beo vì chú giải có Trời mới biết công trình hiện đại nào. Nghề biên tập đã cám dỗ tôi rồi. Trước khi má mất ít lâu, tôi báo má hay mong muốn vào ngành xuất bản. Má không giãy nẩy lên phản đối, dù sợ tôi bị trả lương bèo. Nhưng tôi không từ bỏ dự định, quả quyết với má rằng, dẫu không đủ sống, đó là một nghề cao đẹp nhờ đó tôi sẽ nắm bắt, mỗi ngày tốt hơn mỗi chút, mọi sắc thái tinh tế của tiếng Pháp. Tôi mới học năm nhất đại học, và thấy giảng đường không đủ mở trí, tôi hấp thu nhiều ánh sáng hơn khi đọc chệch chương trình. Vớ được quyển sách nào tôi cũng nghiến ngấu, dù đó là sách chuyên đề hay kịch xuất bản rải rác đây đó, tác phẩm của nhóm bút Oulipo hay Bữa tiệc trần trụi của William Burroughs, sách tiểu sử hay thơ loạn, anh hùng ca hay Nhật ký Léautaud, tiểu thuyết phiêu lưu hay trường ca Ghi chép một chuyến về quê của Aimé Césaire, đoản văn hay tiểu thuyết Siêu đực của Alfred Jarry, tiểu luận hội họa hay tác phẩm về điện ảnh, kịch hề của Feydeau hay kịch Ionesco, sách ngữ pháp giản yếu hay Ecce Homo của Nietzsche…
Tôi là cư dân cựu Đông Dương đến Paris không có hành trang nào khác ngoài lòng ham hiểu biết bất thỏa. Tôi không mang cảm giác tự ti, không tị nạnh bọn con nhà. Hồi mới đầu, phải, vẻ lớ ngớ của tôi đập ngay vào mắt. Tôi tránh gây chú ý, không có bạn ở trường cấp ba tôi theo học, không nhập các nhóm đang hình thành, không tham gia các trận bóng rổ đôi đầu cầu thủ với nhau, không nói chuyện với ai mà không lên mặt. Má buồn thấy tôi tha thủi như thế, nhưng do tôi dẫn đầu lớp chứ hoàn toàn không bị bỏ rớt ngoài đường biên, nên má chẳng hối tôi hòa đồng hơn. Tôi cố thủ trong sự khước từ tình thân, nhất là vì tôi ở xứ lạ. Không phải bởi tôi kênh kiệu, mà bởi bản tính tôi không sẵn lòng hướng về kẻ khác. Ngay ở Việt Nam tôi đã không dễ gần, cạ chơi thì tôi có, nhưng không ai với tôi giống như Patrocle với Achille. Ganh đua ở trường cấp hai làm tôi tranh giành với bọn bạn lời khen giáo viên, nhìn bọn nó như đối thủ chứ không như mấy nhóc con có thể kết thân. Tôi không ra cái điều, nhưng quyết tâm chời khỏi mớ. Tôi không coi mình là phượng nhưng ngổ ngáo tỉ thí với những đứa giỏi nhất. Tôi không tự cô lập, nhưng khá cô độc. Má cũng thế không kém phần. Má giữ khoảng cách với xóm giềng, không tiếp số người quen ít ỏi tại nhà, thoái thác lời mời ăn tối. Cả hai chúng tôi hạnh phúc, cùng nhau trải qua những buổi tối dài. Khi tôi lên bảy, tám tuổi, má bảo tôi đọc thuộc bài cho má nghe, chúng tôi tra nghĩa tiếng lóng trong từ điển Larousse, hát Bên dòng suối xanh / Bác Cối ngủ quên / Trên cầu Avignon. Tôi có cây sáo dọc khi tôi thổi phát ra những âm xức óc. Bằng giọng nữ trung, má âm ư các giai điệu của Massenet. Đồng thanh, chúng tôi ngâm nga bài Eurydice, ta mất nàng rồi. Má có tai nhạc, trong khi tôi vật vã với bài tập ký xướng âm, má thuộc lòng nhiều đoạn một số vở opera, tôi thì cứ lẫn lộn tên các nhà soạn nhạc, má nhạy cảm với nhịp điệu, tôi lại sai nhạc, song chẳng vì thế mà không hát rống lên. Tôi nợ má việc không mít đặc nhạc kịch, cho dù, ở tuổi mới lớn, tôi mê pop rock và nhạc đồng quê hơn, mấy thứ nhạc bị tiêu trừ ngay sau ngày chủ nghĩa quốc gia thắng chú Sam. Tôi cũng nợ má việc không đến nỗi quá tụt hậu trước những thứ liên quan đến chủ nghĩa ấn tượng, cho dù, về sau, chủ nghĩa siêu thực gọi hứng cho tôi hơn. Má đã truyền sang tôi niềm ham thích với những thứ từ xa đến. Nhờ đó, tôi đã không cằn cỗi đi theo năm tháng.
Tôi đã là một lão cua gàn, nhưng đầu óc cởi mở (bất kể Laure nói gì, bởi với nó tôi đã lỡ tàu lỗi nhịp). Tôi lạc thời, song không hoài cổ (bất kể Lou nói gì, bởi nàng thấy tôi luyến thương quá khứ). Tôi không hay bốc đồng, nhưng cũng chẳng phải đồ phá đám (bất kể vợ con tôi nói gì, bởi theo họ tôi có đôi khi thiếu chất hóm). Tôi theo đuổi một lý tưởng: không phàm không huyễn, và tôi đã giữ mình trong kiểu cân bằng ấy, cho đến ngày Ulma biến tôi thành kẻ mộng mị viển vông. Tôi mơ màng, đắm say em như một kẻ chưa bị đuổi khỏi thiên đường xanh của những mối tình thơ dại(28).
Từ hồi má mất, tôi chưa bao giờ bị đảo lộn tâm can như lúc được thư Ulma. Lá thư không thật dài, nhưng những tiết lộ nó mang thì như trái phá. Bao năm, tôi không còn nghĩ đến ba hay quê nhà nữa, tôi hòa nhập tốt quá, nên chỉ còn chất Á ở dung mạo và chất Việt ở danh xưng. Tôi không thuộc số người lưu vong mỏi mòn vì xa tổ quốc. Nhà tôi ở ngoại xứ, Benjamin Fondane, cách Rômania hàng ngàn cây số, đã nói vậy, và chọn tiếng Pháp để thảo nên giữa Paris, nhà số 6, phố Rollin, một trước tác bất hủ. Tôi cũng vậy, tôi không biết nhà mình ở chốn nào. Tôi không như Antée, chỉ cần chạm nền miền đất trú ngụ là bất khả chiến bại, tôi không giao thiệp với những người đồng quê đồng quán. Ulma, cũng vậy, ở giữa lưng chừng khiến mọi thích nghi trở nên loạc choạc. Lai Á-Âu và thuộc dòng dõi một ông Thổ nhập cư, em là hiện thân của sự pha trộn cho ra những đứa con tuyệt trần, nhưng thường khi lạc lõng.
Em càng thiếu tự tin vì có bà mẹ ít tận tâm, chẳng màng đến xung quanh. Có lẽ em đã chết gí gị nếu không có thứ em gọi là “truyền văn hóa”. Sách là hưng chất của em. Cũng như tôi, em say đọc. Đó không phải điểm chung duy nhất của chúng tôi, mà cả hai còn cùng mang lòng oán hờn dai dẳng với kẻ đã không làm tròn vai cha. Thời gian phần nào làm vết thương cũ ở tôi liền sẹo, nhưng ở em thì không. Em ôm mối hờn gã tình nhân của mẹ, đủ hoang đàng để làm bà có chửa rồi phủi tay. Trong thư, em không trút hận, không nói gì có thể làm tôi nhảy dựng lên, chỉ bảo, bao năm, em đã gần như từ bỏ ý định viết cho tôi, ngại ngùng cất bước. Rốt cuộc, điều gì đã thúc em tiết lộ tôi là anh cùng cha? Quyết định đâu phải nghiễm nhiên. Nâng lên đặt xuống cả ngàn lần em mới chốt được.
Em ý nhị là thế, nên sẽ chẳng bao giờ chen chân vào đời tôi nếu chưa cùng đường, hết chống chọi nổi nỗi bất lực khi không thể gạch một nét xóa sạch mọi thứ dính dáng đến hoàn cảnh ra đời của bản thân. Em đã cố kết liễu đời mình, đã vào nhà thương điên, mà em đâu phải loại khật khùng tâm trạng thất thường, em phán xét mọi thứ lành mạnh là khác. Em không tìm ở tôi bản sao của người cha em không biết. Em cũng rõ là cả tôi nữa, tôi biết ba không nhiều. Còn đâu, em hầu như không hay gì về tôi, có chăng là tôi phải tha hương năm mười lăm tuổi và chưa từng trở về. Anh của ba tôi chỉ nói rằng tôi đã lấy vợ, rằng tôi không có vẻ gì là một trong những kẻ lưu lạc hòa nhập kém vào xã hội Pháp.
Em không viết cho tôi để trút bầu than thở, kiểu một cô ả thiếu kìm chế, đang cơn hoang tưởng yêu sách. Em không đòi tôi bù đắp những khổ đau đã chịu, với em, rọi sáng được góc khuất trong mình, thôi day dứt vì những băn khoăn huyết thống, đã là quá nhiều. Tôi không có hình dung cụ thể về các tác hại do mất cân bằng tâm thần gây ra. Ulma không hẳn lẩn thẩn, nhưng lý trí em chao đảo, và các đợt vào nhà thương điên đã chẳng lợi lộc gì cho em.
Chúng tôi, em và tôi, đã có thể chỉ là một ông anh và một cô em gỡ lại thời gian đã mất khi không giấu nhau chuyện gì. Chúng tôi đã có thể chỉ là hai đứa trẻ lớn bổ nhào vào nhau, gắn với nhau bằng một tình yêu huyền bí. Thế nhưng đam mê tôi dành cho em lại chẳng có gì cao khiết. Mọi thứ ở em làm các giác quan tôi bừng sốt. Em xinh như tạc, mắt đen, môi đỏ, da óng mịn, tóc ốp sát đầu tựa mũ, tay đánh móng ánh xà cừ, chân thon. Giọng em hơi khàn, tư thái không bao giờ gượng ép. Cuộc hẹn đầu tiên của chúng tôi, một ngày hè rực sáng, em mặc váy quây màu xám ngọc trai, hợp tuyệt diệu với em. Nhìn em, không ai bảo em từng trải qua những thời điểm trầm cảm, em có cái gì bồng bềnh, bí ẩn, khiến em càng thêm dẫn dụ. Tôi bị khuấy đảo đến nỗi đờ ra câm bặt. Cuối cùng tôi cũng ấp úng mấy thứ dấm dớ, cảm giác mình như thằng ngẫn. Chúng tôi ngồi ngoài hiên một quán cà phê ở quảng trường Sainte-Catherine. Em mang theo tập thơ Những ngày im lặng của Henri Michaux, trong đó ông chào đón những người bạn nhạc lòng hoặc sắp tới. Tôi hỏi mình những người ấy của em thì là ai, có là chốn nương nhờ khi em rời rã. Lúc ấy em không có vẻ đang mắc cạn. Trả lời thư em ngay, tôi đã cất cho em một gánh nặng. Em đã lo các tiết lộ của mình mãi là thư chết: có lẽ tôi chẳng bận lòng. Tôi mà xua đuổi em thì em cũng hiểu, em bảo. Em thật chướng khi xen vào đời tôi. Em thì thào xin lỗi. Em làm thế với bao yêu kiều, đến nỗi giả như đã có ác cảm với em, tôi cũng sẽ nghĩ lại ngay. Em không đi tìm một cái tai trắc ẩn để trút lòng, mà cho rằng em đã giải thích hết trong thư và giờ thì quả bóng nằm ở phía tôi. Tôi là người phải quyết định chúng tôi sẽ giữ quan hệ bạn bè hay dừng lại đó, giã từ không vướng bận gì nữa về nhau.
Từ em toát ra một uy lực mê hoặc. Tôi như bị hút chặt vào cái riêng triệt để của em. Môi trường làm việc, cũng là môi trường người mẫu, không khiến em vẹo vọ. Em không tự mãn cũng chẳng khiêm nhường vờ vịt, mà tự nhiên, vừa đủ chừng cho tôi phấp phỏng. Em làm tôi nhớ mẹ. Em có cùng nét mặt hài hòa ấy, sự tinh tế ấy, cách diễn đạt ấy. Em không vòng vo mà vẫn không có giọng cà xóc kiểu tiểu thư đương nhiên mình toàn quyền. Em mang một vẻ mơ hồ, tuồng như đầu óc đang để tận đâu đâu và em sẽ xù tôi, để mặc tôi trong mớ bòng bong. Chúng tôi không nói về người đã khiến mình ra đời, nhắc qua loa đến Việt Nam, mà em mới thăm sơ còn tôi chỉ giữ được những hình bóng nhạt nhòa. Chúng tôi cũng không nói chuyện Lou hay Laure, dù anh của ba tôi bảo em là tôi đã có gia đình. Chúng tôi gọi những thứ mình đọc, dấu chỉ cơn khát những chân trời vô hạn của chúng tôi. Tôi không hé một lời về sự sa sút tinh thần đang lớn lên trong mình. Tôi không muốn em tưởng tôi đã chán chường. Một sự kiện đã đổi dòng thế sự. Tôi phải xứng tầm hoàn cảnh. Tôi có làm được chăng? Tôi đã, về mọi mặt, yên vị trong một sự an lạc đớn nhạt. Lỗi chẳng do Lou, nàng đã làm hết cách để chúng tôi phục nguyên tình cầm sắt, nhưng nếp quen đã khiến tất cả hóa tầm thường. Chúng tôi là nạn nhân của sự xới mòn khả năng tái tạo, sa vào một cuộc đời không chỗ quang mây, bốc tay sốt để tay nguội, cà nhau liên miên vì Laure. Lửa lòng chúng tôi cũng có lúc bùng lên đấy, song lại chóng tàn, để nỗi chúng tôi lại rơi ngay vào một con ủ ê mới. Đã vậy, tôi lại chẳng nguội lạnh trước những cô nàng tóc hung vóc liễu. Tôi không phải dê bợm như Lou bảo, nhưng những xao động thoáng qua làm tôi run lên vì khoái cảm. Và tôi không chê nó, cái khoái cảm vô tội ấy, ít ra là trong mắt tôi, bởi với Lou, ấy là tội chết người.
Bấy nhiêu điều mới vô nghĩa làm sao vào buổi chiều tôi có Ulma trước mặt. Hơi nóng làm hồng má em, em lại càng tuyệt đẹp, vẻ đẹp cổ điển không phai tàn vì thời gian. Sau nửa giờ đầu như gà mắc tóc trong những thứ ngớ ngẩn lộn xộn, tôi hồi tâm tĩnh trí, bớt căng thẳng. Tôi xấp xỉ ngũ tuần, tuổi tổng kết, và tôi thấy mình thiếu hụt. Tôi còn thiếu… Gì nhỉ? Hai hôm trước tôi còn khó lòng nói ra được. Nhưng phải rồi, tôi còn thiếu một Ulma để bắt mình xẻ áo giáp lộ diện, để bừng tỉnh trước tình cuồng. Từng yêu Lou chừng nào, dù nàng và tôi là ngày và đêm, với Ulma tôi lại vui chừng ấy trước ý nghĩ chúng tôi bổ sung cho nhau. Chúng tôi đồng bệnh tương lân: em tìm anh trai, tôi tìm em gái, không phải bởi chúng tôi cùng cha sinh ra mà bởi trong sâu thẳm chúng tôi là những kẻ ngoại cuộc, tôi không biết xứ nào là quê hương, em có nhiều danh tính mà không cái nào làm điểm tựa. Cùng ở vị thế lập lờ, cả hai chúng tôi đều như những kẻ mất hồn mà không ý thức được cho đến cái ngày tháng Tám ấy, khi chúng tôi xả lũ những điều thầm kín.
Lou đã che chở tôi trước độc dược dĩ tộc vi trung, cái từ hóa thời thượng vì báo chí. Tôi giữ mình khỏi mọi khái quát hóa vội vã về các quốc gia khác nhau. Tôi không phải cậu học trò cuồng tín tin cái ôm đại đồng mà Julien Benda giễu cợt ra mặt. Tôi gắng làm sao đừng mang thành kiến, đừng làm chàng Candide ngây thơ hay một kẻ phải đạo. Tự do, bình đẳng, bác ái ư? Nước Pháp đang trượt sang phía phát lưu người nhập cư, thể hiện qua những biện pháp đồng lòng dồn họ ra biên giới. Tôi không thuộc số khổ nhục nhất vì sự thiếu bao dung. Nhưng những tín hiệu tiên báo sự xua đuổi ngoại kiều thì rõ đấy. Tôi, có hộ chiếu Pháp và, về phần tiếng Việt, chỉ còn lập bập vài từ, tôi như kẻ phản đảng, không ra trung lập không ra bè phái, chẳng bước dưới ngọn cờ nào. Tôi cương cường cưỡng lại mọi thấm nhiễm. Cái gì đó trong tôi vùng lên chống đối đạo đức chuẩn mực, tôi có thiên tư là không thể xác định, không để bị co lại thành gã da vàng Paris hóa. Thiên tư ấy, tôi có khai thác được không? Ở bên Lou, tôi không biến thành ông Thiên-Hạ nệ chuẩn. Tôi giữ được khả năng ra khỏi lối mòn, kiến văn giúp tôi không có cái nhìn giản lược về đồng loại, tôi khát khao, như Hugues nói trong tang lễ, làm công dân vũ trụ, coi lưu vong là bàn đạp lấy đà.
Liệu tôi có đi khỏi Việt Nam, nếu không xảy ra chính biến? Mười hai tuổi thôi, tôi đã mơ sang Pháp, xứ sở của Gavroche. Nhưng tôi thấy mình ở đó cùng má, hai má con lục lọi cửa hàng sách, lang thang dọc đường Thiên Nga, đi tàu trên sông Seine, đến ngắm tượng Nụ hôn của Rodin, ăn đùi ếch ở một tiệm có bàn trải khăn ca rô trắng đỏ, rong ruổi khắp đất nước hình lục lăng tìm những di tích xếp hạng, những ngôi làng cô tịch, những bờ biển hoang vu… Tôi đã không có tất cả những thứ ấy. Tôi bị cướp mất má đúng lúc chắc chắn sắp có giấy tờ cần thiết để má di cư.
Vào giây phút tôi trò chuyện với Ulma, chuyển sang em lòng cuồng nhiệt với má, mạch tôi đập dồn, tim tôi gõ nện, tôi không còn giống mình nữa. Ai mà nói được rằng ngót năm mươi tuổi đầu tôi sẽ lại cư xử như một chú bé mong đừng thể hiện cái gì ra bất lợi cho mình? Rằng tôi sẽ chịu một kết tủa cảm xúc? Chúng tôi mới chỉ ở hồi kịch đầu tiên, bức màn vén lên trên những trao đổi vô hại, ở đó tôi vận dụng mọi nguồn lực ngôn từ để Ulma đừng coi thường tôi, cố gắng không làm lộ tẩy tâm trạng bối rối, nhưng khó khăn lắm tôi mới tự chủ được. Điều tôi đang cảm thấy nằm ngoài dự liệu và gây chao đảo đến nỗi tôi nắc nỏm nửa mừng nửa lo. Một điệu nhạc cũ lẩn quất trong đầu tôi: Tôi thương em đã lâu rồi… Không phải hai mươi năm với Lou không đáng kể nữa, tôi vẫn là chồng là cha, nhưng tôi phát hiện ra mình còn một mặt trái, một phần tối. Ulma, giống như tôi, cũng có hai mặt, một phần neo buộc, còn một phần nổi trôi, phần này tạm coi là âm thoa trong khi phần kia chẳng hòa âm với cái gì. Em ở giữa Á và Âu, không hẳn thuộc về nơi này, bởi hướng về nơi kia, cũng không hẳn thuộc về nơi kia, bởi sinh ra tại Pháp. Mẹ em thì đặc Pháp, dù có một người ông từ Antalya sang làm xây dựng, rồi lấy một bà người Strasbourg và định cư ở Paris. Bản thân Ulma chưa bao giờ tìm hiểu kỹ về người ông này. Dầu cho Thổ Nhĩ Kỳ đỡ cách trở hơn Việt Nam. Nhưng sự thể giống như là kẻ đã chối bỏ tình cha với con gái nặng cân hơn tất cả mọi thứ còn lại.
Về đất nước của cha mình, em mới chỉ thấy Sài Gòn và thành phố nơi cha lớn lên, ở đồng bằng sông Cửu Long. Em chỉ ở thủ phủ miền Nam có ba ngày, thời gian đủ để cảm thấy mình thật xa lạ. Nhân viên khách sạn em trọ nhìn em như một con vật kỳ khôi, bởi em không mang cung cách khách du lịch bình dân, xách theo máy ảnh và cẩm nang du lịch Lonely Planet, hỏi thăm tuyến điểm du lịch, quán bún ốc, chùa chiền đáng phải thăm, cửa hiệu vòng ngọc, cũng chẳng có dáng dấp nữ doanh nhân đến thương thảo hợp đồng với một doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Em không có bất cứ dấu hiệu bề ngoài nào của vẻ giàu sang mà đôi khi những đứa con giỏi giang phô trương khi về quê, và em còn quá trẻ nên không thể là doanh nhân trục lợi từ đổi mới. Em chỉ đi bộ qua các con phố dưới trời nắng chang chang. Cái gì đã dẫn em đến đó? Em không nói được. Em đã tuân theo một sự thôi thúc khi mua vé khứ hồi đi Sài Gòn. Nhưng, đến nơi, em hoàn toàn ngơ ngác, đô thị đông nghìn nghịt có vẻ khổng lồ với em. Đổi mới tung ra rồi mà sự tuyên truyền rầm rộ vẫn dàn khắp mặt các con phố em lạc chân tới. Điều đó làm em không khỏi nhớ cha mình có góp phần thiết lập chế độ chính trị của đất nước ấy. Kinh tế thị trường bắt đầu đơm hoa kết trái bỏ lại nhiều người Sài Gòn trong bần bách, hố ngăn cách sâu hơn giữa những kẻ giàu xổi và những người xoay xỏa sống và lún vào cảnh trần ai. Ulma không muốn thăm thú, em không ở đó để chạy ngược chạy xuôi, ngồi xích lô dạo, chộp những hình ảnh nên thơ, sắm lụa, đến Dinh Thống Nhất, vài hộp đêm mới mở. Em sẽ cho là lố bịch nếu tự ban tặng thứ mình muốn trong lúc nhiều đứa trẻ chịu cảnh màn trời chiếu đất.
Cũng giống cha mình, em không thấy ở Sài Gòn hứng vị nào. Ô nhiễm, ồn ĩ, kiến trúc khá dị hợm, nó chỉ có lợi thế là lá phổi kinh tế Việt Nam. Nó đứng dậy từ những năm sau chiến tranh ngột ngạt. Căn nhà ba má tôi ở trước kia, giống những căn nhà lân cận, đã bị dỡ bỏ, trên nền đất mọc lên một cửa hàng thực phẩm, theo lời anh của ba tôi. Chẳng còn lại gì của tuổi thơ tôi. Bởi thế tôi chưa bao giờ vượt biển đặt chân về quê cha đất tổ. Sau khi má mất, Việt Nam không còn là xứ sở tôi có những sợi dây gắn bó, tôi đã an cư ở Pháp, tôi đã đồng hóa, song vẫn giữ cá tính mạnh mẽ, cho dù tôi là pha trộn của cương quyết và phân vân, cho dù những lần chần lẫn bướng bỉnh của tôi làm Lou phát cáu. Thế mà tôi lại không trù trừ lâu khi thư Ulma tiết lộ bí mật của em. Không phải tôi toan làm người an ủi em. Vả chăng, tôi là ai mà toan làm thế? Thường xuyên hoang mang, tôi chẳng theo lẽ thường, tôi chẳng tự trọng thị và, thiếu Lou, có lẽ tôi đã là kẻ bỏ đi, một người thừa, kiểu gì cũng sẽ là một gã độc thân chai sạn ái nồng tình nhạt. Lấy vợ vào tôi vẫn không sửa đổi tâm tính, vẫn tìm kiếm bạn bầu ở những người đẹp xa lạ, khi nào các cô tỏ ra củng có chút lòng với tôi. “Đánh chết cái nết không chừa”, Lou bảo, coi tôi là hết thuốc chữa. Chuyện có xô lệch bát đĩa, nhưng tôi vẫn chứng nào tật ấy. Cần phải có Ulma xuất hiện trên bước đường tôi để các lầm lỗi quá khứ hiện ra trước tôi như thế. Tôi tự ban cho mình quyền bậy bạ hòng lừa phỉnh thời gian, thế thôi. Chẳng ra thể thống gì. Tôi đã sang tuổi hết mùa đi ngang về tắt. Tôi có cơ thành khọm già rểu dãi trước gái xuân.
Ulma không biết tôi dưới lăng kính này, nên tôi tránh chơi trò Don Juan, và dù gì đi nữa, tôi cũng đang hưng phấn đến độ nghệt ra. Tôi không dẻo mỏ như những kẻ tán gái sừng sỏ. Mỗi lần nho nhe thả thính, tôi găng đừng dơ dáng, như kiểu nói của Laure, dù rằng Lou, trái lại, thấy tôi quá rát rạt. Bất chấp các thói hư của tôi, nàng bỏ qua, nhưng nhắc tôi tới lui là cái gì cũng có giới hạn.
Lỗi chẳng tại ai khi cuốn phim mở nút bi thảm. Tôi không lên án Lou. Nàng mất tự chủ lúc thám tử cho hay những cuộc gặp mặt của tôi với Ulma. Ở vào địa vị nàng, tôi cũng sẽ lồng lộn như thế thôi, mà có khi còn hơn. Tôi hiểu hành động điên rồ của nàng quá đi chứ. Tôi chỉ có thể đổ tội cho mình. Phải chi tôi chơi bài ngửa, nàng đã không hạ mình đến mức thuê người rình tôi, nàng đã không để ghen tuông cuốn phăng mình đi. Mà nàng lại có lý do để ghen. Tình cảm gắn tôi với Ulma khác một trời một vực lòng yêu thương tôi cảm nhận với Lou. Nàng trước hết là mẹ của Laure, và là người tôi đã thề, có phần nông nổi, sống chết có nhau. Những lời thề nguyện ấy chẳng đặc hơn bong bóng xà phòng. Và chỉ cần một lá thư là đủ để chúng hóa vô nghĩa. Sự đảo chiều nơi tôi không thoát khỏi con mắt tinh tường của Lou, rất lâu trước khi nhờ cậy thám tử nàng đã biết tôi vi phạm cam kết. Đó là rạn nứt nghiêm trọng đầu tiên trong cuộc hôn nhân của chúng tôi. Cho đến lúc ấy, tôi chưa bao giờ thực sự lung lạc trước cám dỗ. Tôi lạnh tanh trước những cô nàng-đồ vật, chỉ tiếp cận những con nai tơ ngơ ngác chẳng moi tình và vừa nghe lời đường mật đầu tiên đã đỏ nhừ. Những cô khác, những con quỷ cái ỡm ờ với tôi, thì vấp phải sự kháng cự nơi tôi.
Thế còn Ulma? Em có đủ hết để níu chân tôi, em không tìm cách mê hoặc tôi, vậy mà em thật đã chế ngự tôi ngay. Em không bọc mình trong bí ẩn để quy phục tôi, vậy mà tôi như bị bỏ bùa. Ngày tàn, chúng tôi ở bên nhau đã hơn năm tiếng đồng hồ, tôi uống lời em, dù em không liến thoắng. Tôi tiếc nuối chia tay, không khỏi bắt em hứa sẽ lại đi uống cà phê với mình, về nhà, tôi khác mình mọi khi đến mức Lou tưởng tôi lăn ra ốm, nàng chưa ngờ được tôi vừa bị khuấy đảo kinh hoàng, vừa bị sét đánh với người em cùng cha. Ulma làm tim tôi đập, mở viễn tượng mới cho tôi. Tôi không coi cuộc hôn nhân với Lou như không có, tôi không thây kệ điều nàng có thể cảm thấy nếu nghe phong thanh tôi thay lòng đổi dạ, nhưng tôi chỉ có đúng một ý nghĩ trong đầu: gặp lại Ulma, biến mình thành thiết yếu với em. Tôi cần em hơn em cần tôi. Em trút được gánh nặng khi đem thư đi gửi tôi, còn tôi choàng tỉnh khỏi cơn mộng du đã thiến cụt mình. Cơn chấn động thật bạo liệt, tôi tự nhủ mình sẽ không ra khỏi cuộc phiêu lưu này bình an vô sự, song vẫn lao đầu vào, với hy vọng điên rồ là Lou sẽ không phát giác ra trò lừa dối…